Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giải quyết việc trẻ em việt nam làm con nuôi ở nước ngoài – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.59 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC ANH

GIẢI QUYẾT VIỆC TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NUÔI Ở
NƯỚC NGOÀI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Ngọc Anh


BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2

Từ Viết tắt
Công ước về
Quyền trẻ em
Công ước
La Hay 1993

3

Luật Nuôi con nuôi

4

Nghị định
số 19/2011/NĐ-CP

5

Thông tư
.số 15/2014/TT-BTP

6


Tuyên bố 1986

7
8

UNICEF
TTXVN

Chữ viết tắt
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ
em năm 1989
Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em
và Hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế.
Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ban
hành ngày 17 tháng 06 năm 2010 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ban hành ngày
21 tháng 3 năm 2011quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành kể từ ngày
08 tháng 05 năm 2011.
Thông tư số 15/2014/TT-BTP ban hành ngày
20 tháng 5 năm 2014 hướng dẫn tìm gia đình
thay thế ở quốc tế cho trẻ em khuyết tật, trẻ
em mắc bệnh hiểm nghèo, trẻ em từ trên 05
tuổi trở lên, hai trẻ em trở lên là anh chị em
ruột thịt cần tìm gia đình thay thế có hiệu lực
thi hành từ ngày 05 tháng 7 năm 2014
Tuyên bố của Liên Hợp quốc về các nguyên

tắc xã hội và pháp lý liên quan đến bảo vệ và
phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp nuôi
con nuôi ở trong và ngoài nước năm 1986
Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
Thông tấn xã Việt Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………..……1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CHO TRẺ EM
VIỆT NAM LÀM CON NUÔI Ở NƯỚC NGOÀI...................................... 8
1.1. Khái quát chung về trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước ngoài.......... 8
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi .............................................................. 8
1.1.2. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài...................... 10
1.1.3. Khái niệm trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài ............... 12
1.2. Cơ sở pháp lý giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài ......................................................................................................... 13
1.2.1. Các văn bản pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi ........................... 13
1.2.2. Các văn bản pháp luật trong nước về nuôi con nuôi...................... 20
1.3. Ý nghĩa của việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài ......................................................................................................... 27
Chương 2: NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT VIỆC TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NUÔI Ở NƯỚC
NGOÀI........................................................................................................ 30
2.1. Nguyên tắc giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài………………………………………………………………………30
2.2. Điều kiện của trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài ................ 32
2.2.1. Điều kiện về độ tuổi ..................................................................... 32
2.2.2. Về đối tượng trẻ em được giải quyết làm con nuôi ở nước ngoài .. 33
2.3. Điều kiện để người nước ngoài thường trú tại nước ngoài, người Việt

Nam định cư tại nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. .... 35
2.4. Thẩm quyền giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài. ........................................................................................................ 37
2.5. Trình tự, thủ tục để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước
ngoài ......................................................................................................... 38
2.5.1. Thủ tục tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em Việt Nam .... 38
2.5.2. Lập danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế ............................ 39


2.5.3. Xác nhận trẻ em đủ điều kiện cho nhận làm con nuôi ở ngước
ngoài…………………………………………………………………………40
2.5.4. Kiểm tra hồ sơ của người nhận con nuôi....................................... 42
2.5.5. Thủ tục giới thiệu trẻ em .............................................................. 43
2.5.6. Quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài và việc tổ chức
giao nhận con nuôi ................................................................................. 45
2.6. Chứng nhận việc nuôi con nuôi và thông báo tình hình phát triển của
con nuôi .................................................................................................... 47
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC TRẺ EM VIỆT NAM
LÀM CON NUÔI Ở NƯỚC NGOÀI - NHỮNG BẤT CẬP VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN ........................................................................ 49
3.1. Thực tiễn giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài ......................................................................................................... 49
3.1.1. Tình hình việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực........................................... 49
3.1.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết để trẻ em Việt
Nam làm con nuôi ở nước ngoài............................................................. 61
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định, chính sách hiện hành trong
việc giải quyết để trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài...................... 70
3.2.1. Tăng cường, hiệu quả thi hành Công ước La Hay 1993 và pháp luật
nuôi con nuôi hiện hành của Việt Nam................................................... 70

3.2.2. Cần tạo ra sự gắn kết, liên thông giữa nuôi con nuôi trong nước và
nuôi con nuôi quốc tế ..............................................................................72
……………………………………………………
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em
Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài ..................................................... 72
3.2.4. Tăng cường vai trò của Cơ quan con nuôi Trung ương ................. 74
3.2.5. Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan nhà
nước ....................................................................................................... 75
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra ....................................... 76


3.2.7. Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kinh nghiệm
tâm lý, xã hội cho cán bộ, công chức tham gia công tác giải quyết việc
nuôi con nuôi ......................................................................................... 77
KẾT LUẬN................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai” đó là một thông điệp đã và đang
là phương châm hành động của toàn thể nhân loại tiến bộ. Từ lâu, trẻ em đã
được coi là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương nhất, được toàn thể cộng
đồng quốc tế quan tâm và bảo vệ. Một trong những quyền cơ bản của trẻ em
được pháp luật bảo vệ là quyền được sống, được chăm sóc, nuôi dưỡng trong
môi trường gia đình. Tuy nhiên không phải tất cả trẻ em sinh ra đều có cha mẹ
và đều may mắn được sống, được nuôi dưỡng và chăm sóc trong môi trường gia
đình. Trong xã hội còn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, sống trong các

gia đình nghèo không đủ điều kiện nuôi dưỡng hay sống trong các tổ chức trợ
giúp xã hội, luôn cần một mái ấm gia đình thay thế. Một trong những biện pháp
đáp ứng yêu cầu cho trẻ em một mái ấm gia đình thay thế là cho trẻ làm con
nuôi. Cho trẻ em làm con nuôi được xem là một giải pháp bảo vệ trẻ em, không
để trẻ em phải sống lang thang, cơ nhỡ, thiếu điều kiện phát triển đồng thời đảm
bảo vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em.
Đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện khung pháp luật và
chính sách về bảo vệ trẻ em. Ngoài việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp
Quốc về quyền trẻ em năm 1989 (Công ước Quyền trẻ em) và Công ước La Hay
năm 1993 về bảo vệ trẻ em và Hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (Công ước La
Hay 1993), Chính phủ cũng đã xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật và nhiều
chương trình, sáng kiến khác để thúc đẩy môi trường bảo vệ và cải thiện điều kiện
sống cho trẻ em. Đi cùng với đó, Nhà nước chú trọng đưa các chính sách quốc gia
phù hợp hơn với các tiêu chuẩn, pháp luật, quy định và tài liệu hướng dẫn quốc tế,
hướng tới hạn chế hình thức chăm sóc tập trung, thúc đẩy các mô hình chăm sóc dựa
vào gia đình và cộng đồng. Một trong những nỗ lực đó là việc hoàn thiện các quy
định của Nhà nước và pháp luật về nuôi con nuôi và đặc biệt là vấn đề nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.


2

Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011. Ngày 01 tháng 02 năm 2012, Công ước La Hay 1993 chính thức có hiệu
lực tại Việt Nam. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết
cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài. Sau 6 năm thực hiện Luật và 5
năm thực thi Công ước, công tác giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
nước ngoài đã đạt được những thành công nhất định. Việc giải quyết cho trẻ em
Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc,
thể hiện tình yêu thương, tinh thần, trách nhiệm và mối quan hệ tương thân,

tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Việc giải quyết cho trẻ
em làm con nuôi ở nước ngoài là một biện pháp tốt nhất cho trẻ em khi không
tìm được môi trường gia đình thay thế trong nước. Đối với những trẻ em bị
khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo, việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài
còn tạo điều kiện cho trẻ đảm bảo được sự sống, được chữa bệnh, phục hồi chức
năng một cách hiệu quả. Tuy nhiên, việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
nước ngoài cũng đòi hỏi phải tuân thủ quy trình, thủ tục chặt chẽ để ngăn chặn
những hành vi xâm phạm đến quyền của trẻ em như bắt cóc, buôn, mua bán trẻ
em. Do đó, Để công tác giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước
ngoài được đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật và đảm bảo được lợi
ích tốt nhất cho trẻ em Việt Nam mà không trái với các chuẩn mực đạo đức xã
hội, cần không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách về vấn đề
này. Do đó, trong phạm vi luận văn này, tác giả xin được lựa chọn đề tài “Giải
quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” làm công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi là đối tượng quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, vấn đề này cũng được nghiên cứu ở nhiều cấp độ
khác nhau, kể cả ở trong nước và nước ngoài. Tại Việt Nam, những năm gần
đây, các công trình nghiên cứu về pháp luật nuôi con nuôi nói chung và nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng có số lượng tương đối nhiều và phong phú.


3

Đối với vấn đề nuôi con nuôi, phải kể đến những công trình nghiên cứu
trọng điểm sau: Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp trong chương trình hợp tác
với Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) đã có chuyên đề về “Chế định nuôi
con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế” năm 1998; năm 2010 Chính phủ
Việt Nam và UNICEF đã có “Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam”.

Những tài liệu này đã giới thiệu khái quát về chế định nuôi con nuôi trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, nêu thực trạng về nuôi con nuôi tại một số địa
phương và giới thiệu về pháp luật nuôi con nuôi của một số nước. Tác giả
Nguyễn Phương Lan có bài "Bản chất của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt
Nam" (Tạp chí Luật học số 2 năm 2005), bài “Cần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về chấm dứt nuôi con nuôi và hủy việc nuôi con nuôi" (Tạp chí Tòa án
nhân dân số 24 năm 2005) và bài "Cơ sở của việc quy định hình thức nuôi con
nuôi trọn vẹn" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm 2005); Tác giả Nguyễn
Công Khanh biên soạn cuốn "Hỏi đáp về pháp luật nuôi con nuôi" (Nhà xuất bản
Tư pháp, năm 2004),…Một số đề tài nghiên cứu khoa học, đề tài luận văn, luận
án về vấn đề nuôi con nuôi đã được công bố như: Luận án tiến sĩ Luật học “Cơ
sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Phương Lan, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật Hà Nội “Hoàn thiện
chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam” chủ nhiệm đề tài Ngô Thị
Hường, năm 2007;
Đối với vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, hệ thống các công
trình nghiên cứu đối với vấn đề này tương đối đa dạng và ngày càng nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu, trọng điểm như sau: Năm 2005, Viện Khoa học pháp lý và
Cục Con nuôi quốc tế đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ với nhan
đề "Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu
gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi
con nuôi quốc tế". Năm 2007 Bộ Tư pháp, Cục Con nuôi Quốc tế đã xuất bản


4

cuốn sách “Tìm hiểu Công ước La Hay về nuôi con nuôi”. Năm 2009, tổ chức
dịch vụ xã hội quốc tế (ISS) tiến hành đánh giá độc lập về tình hình nhận con

nuôi từ Việt Nam dưới sự đồng ý của cơ quan UNICEF tại Hà Nội và Cục Con
nuôi Bộ Tư pháp về “Nhận nuôi con nuôi từ Việt Nam”. Năm 2016 Bộ Tư pháp
kết hợp cùng Tổ chức Unicef Việt Nam ban hành “Tài liệu Hội nghị đánh giá
tình hình thực hiện Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”; Bộ Tư pháp phối hợp cùng Đại sứ quán Pháp
ban hành “Tài liệu Hội nghị Đánh giá nhu cầu và điều kiện trẻ em được cho làm
con nuôi nước ngoài”.
Đối với các công trình nghiên cứu ở cấp luận văn, đề tài, đã có một số tác
giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, có thể kể
đến như Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con
có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh,
Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật
nước ngoài” của tác giả Lê Thị Hiền, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2012.
Như vậy, có thể thấy hệ thống công trình nghiên cứu về vấn đề nuôi con
nuôi rất đa dạng và phong phú. Nhìn chung các công trình, xuất bản phẩm trên
đây đã được các tác giả nghiên cứu nghiêm túc và có nhiều đóng góp cơ bản cả
về lý luận và thực tiễn về việc thực hiện pháp luật liên quan đến lĩnh vực nuôi
con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên,
có thể thấy cho đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu
riêng biệt về vấn đề trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài theo Luật Nuôi
con nuôi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài“Giải quyết việc trẻ em Việt Nam
làm con nuôi ở nước ngoài – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là đòi hỏi
khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn và không có sự
trùng lặp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


5


3.1. Mục đích nghiên cứu
Công tác giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài
trong thời gian qua có nhiều thay đổi rất cơ bản về trình tự, thủ tục, nguyên tắc
giải quyết và việc thiết lập những hành lang pháp lý, những bảo đảm nhất định
để bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Chính vì vậy, mục đích nghiên cứu của
luận văn là nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết
việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài. Từ đó phát hiện, chỉ ra những
vướng mắc, những điểm chưa hợp lý và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật, tháo gỡ những bất cập, những vướng mắc đồng thời đề xuất các
biện pháp tăng cường vai trò, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong việc
giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận, sự cần thiết của việc giải quyết
cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài.
- Cơ sở pháp lý của việc giải quyết để trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
Nước ngoài từ các văn bản pháp luật hiện hành trong nước và quốc tế về nuôi
con nuôi.
- Thực tiễn giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài
trong những năm qua từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong việc giải
quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến giải quyết việc trẻ em
Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi
hiện hành.
- Tìm hiểu thực tiễn giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước
ngoài từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực và phát hiện những vướng mắc bất

cập trong quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện.


6

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu
các vấn đề lý luận và thực tiễn về việc giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con
nuôi ở nước ngoài theo Luật Nuôi con nuôi và theo quy định của Công ước La
Hay 1993. Đề tài nghiên cứu việc giải quyết trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
nước ngoài từ khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, các vấn đề nuôi con nuôi
nước ngoài khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể và đặc thù như: phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh;
phương pháp quy nạp; phương pháp diễn dịch, phương pháp thống kê; phương
pháp xã hội học…để tổng hợp các tri thức khoa học, các luận chứng và các vấn
đề nghiên cứu trong luận văn.
6. Những đóng góp và điểm mới của luận văn
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết cho trẻ em
Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài.
- Luận văn cố gắng phác họa tình hình thực hiện, giải quyết việc cho trẻ
em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài trong những năm qua kể từ khi Luật
Nuôi con nuôi có hiệu lực và khi Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993.
- Luận văn góp phần giải quyết những vấn đề còn vướng mắc trong công
tác giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
nước ngoài


7

Chương 2. Giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài theo quy
định của pháp luật hiện hành
Chương 3. Thực tiễn giải quyết việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài
- Những bất cập và hướng hoàn thiện


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CHO TRẺ EM VIỆT NAM
LÀM CON NUÔI Ở NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát chung về trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước ngoài
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội được E.A. Weinstein định nghĩa
là mối quan hệ xã hội mà cá nhân thuộc gia đình này tiếp nhận sang gia đình
mới và được coi như ngang bằng với những liên hệ ruột thịt và thay thế một
phần toàn bộ mối liên hệ đó, dưới góc độ xã hội đó là mối quan hệ được thiết lập
nhằm hình thành quan hệ cha mẹ và con nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần hoặc
lợi ích tinh thần của các bên1.
Trên thực tế đời sống, việc nuôi con nuôi là một hiện tượng khách quan
khá phổ biến, luôn tồn tại trong đời sống xã hội và thể hiện tính nhân đạo sâu
sắc. Trong quá trình phát triển của xã hội, việc nuôi con nuôi được xác lập vì các
mục đích khác nhau. Đó có thể nhằm đáp ứng những nhu cầu, lợi ích về vật chất

như có thêm người lao động, có người thừa tự, có người chăm sóc khi tuổi
già,…hay hướng tới những nhu cầu, lợi ích về tinh thần hoặc xuất phát từ lòng
nhân đạo cũng như sự cảm thông, chia sẻ. Việc nuôi con nuôi có thể có nhiều
mục đích khác nhau, song hiện nay, xuất phát từ tình yêu thương và tinh thần
nhân đạo, nhân văn cao cả, lợi ích của đứa trẻ được nhận làm con nuôi là mối
quan tâm hàng đầu và cũng là đối tượng bảo vệ chính của vấn đề nuôi con nuôi
mà pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế công nhận.
Với ý nghĩa là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ theo
sự lựa chọn của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên

1

E.A. Weinstein (1968), “Nuôi con nuôi - Từ điển Bách khoa toàn thư về các môn Khoa học Xã hội”, NewYork,
tr.17.


9

có thể thấy, có hai cách thức xác lập quan hệ nuôi con nuôi trong thực tế. Đó là
xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội và xác lập về mặt pháp lý.
Về mặt xã hội, quan hệ nuôi con nuôi có thể được xác lập mà không dựa
trên sự công nhận của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ nuôi con
nuôi này có thể được hình thành từ nhiều lý do khác nhau như theo phong tục
tập quán, nuôi con nuôi để lấy phúc, để giải tỏa tâm lý khi gia đình bị hiếm
muộn, vô sinh,…Các hình thức nuôi con nuôi xã hội đều có đặc điểm chung là
không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, do đó, không phải mối
quan hệ nuôi con nuôi nào cũng được xác lập quan hệ giữa cha, mẹ và con trên
thực tế.
Về mặt pháp lý, quan hệ nuôi con nuôi được xác lập khi người nhận nuôi

và con nuôi thỏa mãn đầy đủ điều kiện để xác lập mối quan hệ cha, mẹ con theo
luật định (Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi), được các cơ quan có thẩm
quyền công nhận và được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. Theo đó, dưới
góc độ pháp lý, quan hệ nuôi con nuôi được xác lập khi thỏa mãn đầy đủ các dấu
hiệu sau:
- Về ý chí của các bên: xuất phát từ ý chí tự nguyện, giữa người nhận nuôi
và con nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và con bền vững, lâu dài,
đã thật sự coi nhau như cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm giữa cha
mẹ và con.
- Về chủ thể: người nhận nuôi và con nuôi đáp ứng đầy đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật, như điều kiện về tuổi, tư cách đạo đức, điều kiện
chăm sóc, nuôi dưỡng,…
- Về khách quan: các bên cùng chung sống với nhau, gắn bó, cư xử với
nhau trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ và con đối với nhau. Quan hệ giữa cha mẹ và con được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền công nhận, theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và được


10

họ hàng, mọi người xung quanh thừa nhận. Việc nuôi con nuôi là đúng mục
đích, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể khái quát khái niệm nuôi con
nuôi như sau:
“Nuôi con nuôi là việc trẻ em được nhận làm con nuôi ở gia đình khác
trong cùng một nước hay ở ngoài nước mà giữa người nhận nuôi và con nuôi
không có quan hệ huyết thống trực hệ, nhằm mục đích xây dựng mối quan hệ gia
đình lâu dài, bền vững, thiết lập mối quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi và con nuôi vì lợi ích tốt nhất của con nuôi, bảo đảm cho trẻ em được nhận
nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia

đình và có được một cuộc sống tốt đẹp hơn”.
1.1.2. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Xuất phát từ quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là quan hệ thỏa mãn một trong ba yếu tố cấu
thành sau:
- Về chủ thể: Quan hệ nuôi con nuôi có ít nhất một bên chủ thể tham gia là
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Về khách thể: Tài sản liên quan đến quan hệ nuôi con nuôi ở nước ngoài.
- Về sự kiện pháp lý: Căn cứ phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ nuôi
con nuôi ở nước ngoài và áp dụng pháp luật nước sở tại nơi người nước ngoài
thường trú.
Ví dụ: Tháng 1/2007, Diễn viên điện ảnh Hollywood nổi tiếng Angelina Jolie
nộp đơn xin con nuôi tại Việt Nam và yêu cầu của cô là một bé trai từ 3 đến 5
tuổi, bị cha mẹ bỏ rơi và không mắc bệnh truyền nhiễm. Giống như những đứa
trẻ từ một số quốc gia trên thế giới được vợ chồng Angelina – Brad Pitt nhận
nuôi, bất kì đứa trẻ em Việt Nam nào tại trại trẻ mồ côi Tam Bình, TP. Hồ Chí
Minh được ông bà Pitt nhận nuôi đều là một điều kì diệu, và điều kì diệu đó đã
đến với cậu bé Phạm Quang Sáng. Sau 10 năm, giờ đây cậu bé Quang Sáng


11

(Nay là Pax Thiên) suy nhược ngày nào đã trở thành cậu thanh niên 14 tuổi,
trưởng thành, khỏe khoắn và đang được chăm sóc, giáo dục trong một môi
trường tốt nhất cùng cặp vợ chồng nổi tiếng tài đức Angelina Jolie – Brad Pitt
tại Hoa Kỳ.2
Có thể thấy, tại thời điểm Angenila Jolie – Brad Pitt nhận Pax Thiên làm
con nuôi chưa có sự điều chỉnh bởi Công ước La Hay 1993 và Luật Nuôi con
nuôi, chính vì vậy, cặp vợ chồng nổi tiếng này gặp không ít khó khăn trong việc
nhận cậu bé 3 tuổi người Việt Nam làm con nuôi. Do đó, ngay sau khi ra đời,

Luật Nuôi con nuôi đã quy định chi tiết về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Theo đó, tại Điều 3 Luật Nuôi con nuôi quy định nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài,
giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài. Cùng với đó, Điều 28 Luật
Nuôi con nuôi quy định các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao
gồm người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong
các trường hợp theo luật định; công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận
trẻ em nước ngoài làm con nuôi; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận
con nuôi ở Việt Nam.
Như vậy, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được mở rộng,
không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau
ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau ở Việt
Nam. Có thể thấy nội hàm của khái niệm "Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài"
trong một chừng mực nhất định được hiểu tương đương với khái niệm "Nuôi
2

Nguyên Minh (2011), “Pax Thiên – Từ trại trẻ mồ côi tới thảm đỏ Hollywood”, Thời báo Vnxpress, tại địa chỉ:
ngày truy cập 11/11/2011.


12

con nuôi quốc tế". Tuy nhiên, phạm vi của hai khái niệm này có sự khác nhau cơ
bản. Nuôi con nuôi quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước La Hay
1993, theo đó, việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa một hoặc hai người là vợ

chồng thường trú tại nước ngoài xin nhận một trẻ em thường trú ở nước khác
làm con nuôi, có sự di chuyển trẻ em từ nước này sang nước khác. Còn nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài là quan hệ nuôi con nuôi có một trong ba yếu tố chủ
thể, khách thể, sự kiện pháp lý có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Xuất phát từ thực tiễn phát triển xã hội và xuất phát từ bản chất của việc
nhận nuôi con nuôi mà quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có đối tượng
chủ thể tương đối rộng và phong phú. Do đó, pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam luôn chú trọng xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật tương đối rộng,
đầy đủ và chặt chẽ để điều chỉnh những mối quan hệ này, đảm bảo nguyên tắc vì
lợi ích tốt nhất của trẻ được nhận nuôi, đồng thời, tạo điều kiện cho nhiều đối
tượng có nhu cầu, mong muốn được nhận trẻ em làm con nuôi. Như vậy, dựa
vào những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài như sau:
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc xác lập quan hệ cha mẹ, con
giữa người nhận nuôi và con nuôi mà trong đó có một bên chủ thể của quan hệ
là người nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài hoặc quan hệ con
nuôi giữa các bên tham gia là người Việt Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt được điều chỉnh theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài.
1.1.3. Khái niệm trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của xã hội, việc giải quyết cho
trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến và được toàn thể
xã hội quan tâm, chú trọng. Việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài là
một trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích tìm một gia
đình thay thế có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đảm bảo được lợi


13

ích tốt nhất cho trẻ khi không tìm được gia đình thay thế trong nước cho trẻ. Vì

vậy, việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài được coi là biện pháp cuối
cùng để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ.
Như vậy, trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài là “Những trẻ em
Việt Nam được người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường
trú ở nước ngoài nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật các nước có
liên quan khi trẻ em không tìm được gia đình thay thế ở trong nước, làm phát
sinh quan hệ cha, mẹ con giữa hai bên và trẻ được nhận nuôi được nhập cảnh,
sinh sống tại nước nơi cha mẹ nuôi thường trú theo pháp luật của các nước có
liên quan”.
Việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài là một trường hợp nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài trong đó cha mẹ nuôi và con nuôi thường trú ở
hai nước khác nhau và có sự dịch chuyển trẻ em được nhận nuôi từ nước gốc
sang nước nhận nơi thường trú của cha mẹ nuôi. Việc nuôi con nuôi này được
điều chỉnh bởi cả pháp luật nước gốc (Việt Nam) và pháp luật nước nhận, nơi
cha mẹ nuôi thường trú.
Việc trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài được xem như biện
pháp cuối cùng khi trẻ em không thể tìm được được một mái ấm gia đình
thay thế ở trong nước, để các em có thể được yêu thương, được nuôi dưỡng,
được chăm sóc, chữa bệnh và giáo dục để phát triển một cách toàn diện
trong môi trường gia đình và đảm bảo được những quyền và lợi ích tốt nhất
cho trẻ.
1.2. Cơ sở pháp lý giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở
nước ngoài
1.2.1. Các văn bản pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi
Vấn đề nuôi con nuôi nói chung là vấn đề mang tính xã hội, thể hiện tinh
thần nhân đạo sâu sắc mà mục đích cơ bản là nhằm tạo điều kiện cho những đứa
trẻ thiệt thòi thiếu vắng tình thương yêu của cha mẹ và những người thân một


14


mái ấm gia đình thay thế. Dưới góc độ pháp lí, đây là vấn đề được cộng đồng
quốc tế đặc biệt quan tâm, chú trọng. Do đó, hệ thống các văn bản quốc tế về
nuôi con nuôi cũng ngày một đa dạng, phong phú về số lượng và hoàn thiện về
chất lượng, từ đó điều chỉnh, giải quyết được những vấn đề về nuôi con nuôi nói
chung, tạo điều kiện thuận lợi để cha, mẹ nuôi được nhận con nuôi và đặc biệt
để trẻ em được sinh sống và phát triển trong một môi trường tốt nhất khi không
may mắn có được điều đó từ gia đình gốc. Các văn bản quốc tế quan trọng điều
chỉnh vấn đề nuôi con nuôi là:
1.2.1.1. Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989 (Công ước về
quyền trẻ em)
Trước khi Liên hợp quốc được thành lập, các quốc gia đã thông qua
Tuyên ngôn Giơnevơ năm 1924 về quyền trẻ em trong đó khẳng định trẻ em cần
được chăm sóc đặc biệt. Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc khẳng định: "Tôn
trọng nhân quyền và những quyền tự do cho tất cả mọi người, không phân biệt
chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo". Tuyên ngôn về các quyền của trẻ
em do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1959 khẳng định: "Loài
người có trách nhiệm trao cho trẻ em điều tốt đẹp nhất". Điều 24 Công ước về
các quyền chính trị - dân sự năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) nêu rõ:
"Mọi trẻ em… đều có quyền được hưởng sự bảo hộ của gia đình, xã hội và Nhà
nước". Điều 10 Công ước về các quyền kinh tế - xã hội và văn hoá năm 1966
(Việt Nam gia nhập năm 1982) quy định "Thanh thiếu niên cần được bảo vệ và
không bị bóc lột về kinh tế - xã hội, cấm bóc lột lao động trẻ em".
Ngày 20/11/1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước
của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và mở cho các nước ký, phê chuẩn và tham
gia theo Nghị quyết số 44/25. Công ước về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày
02/9/1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực châu Á và là nước thứ
hai trên thế giới đã phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990.



15

Ngay trong phần Lời nói đầu, Công ước về quyền trẻ em đã nhắc lại
khẳng định trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người mà Liên hợp quốc đã
công bố, rằng “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”3 đồng thời,
công ước cũng tin tưởng rằng gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi
trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên trong
gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để có thể đảm
đương đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng. Công ước công nhận rằng
và để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên
trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm
thông. Công ước xác định lý do để bảo vệ các quyền trẻ em là vì do còn non nớt
về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo
vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Trong mọi xã hội, trẻ
em đều là đối tượng được cần được Nhà nước và cả xã hội dành sự quan tâm,
chăm sóc đặc biệt, bởi đó là thế hệ tương lai của mỗi quốc gia và của nhân loại.
Chính vì vậy, việc tạo mọi điều kiện tốt nhất cho sự phát triển dần dần và đi tới
sự phát triển một cách toàn diện về nhân cách, về lối sống, về nhận thức… chính
là việc bảo đảm cho trẻ em có được các quyền cơ bản quan trọng như quyền
được có tên và quốc tịch; quyền được giữ gìn bắc sắc văn hóa, dân tộc; quyền
được bảo vệ và chăm sóc,…và quyền được nhận làm con nuôi. Điều 9 Công ước
khẳng định rằng trẻ em có quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ, trẻ em cần được
cha mẹ đẻ chăm sóc và chỉ khi vì những lợi ích tốt nhất của trẻ mà cần có sự
cách ly cha mẹ đẻ. Trong trường hợp này, việc chăm sóc thay thế như nuôi con
nuôi là hoàn toàn cần thiết. Theo đó, các quốc gia thành viên của Công ước công
nhận hoặc cho phép chế độ nhận làm con nuôi phải bảo đảm những lợi ích tốt
nhất của trẻ em được quy định tại Điều 21 Công ước, bao gồm:
- Việc nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được tiến hành với sự cho phép của
những cơ quan có thẩm quyền, phù hợp với pháp luật và các thủ tục của nước
cho và nước nhận. Trên cơ sở các thông tin thích hợp và đáng tin cậy, quyết

3

Lời mở đầu (1989), Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em, tr.1.


16

định việc nhận trẻ em làm con nuôi phải xét đến thân phận của trẻ em về cha,
mẹ, họ hàng, người giám hộ hợp pháp và nếu được yêu cầu, những người có liên
quan.
- Việc cho trẻ em ra nước ngoài làm con nuôi có thể coi như một biện
pháp thay thế để chăm sóc trẻ em, nếu như đứa trẻ đó không thể gửi gắm được
cho một gia đình chăm nom hay được một gia đình nhận nuôi, hoặc không thể
nhận được sự chăm sóc bằng bất cứ cách thức thích hợp nào khác tại nước
nguyên quán của em;
- Trẻ em được người nước ngoài nhận làm con nuôi cũng được hưởng
những sự bảo vệ và điều kiện tương đương theo các quy định hiện hành của việc
làm con nuôi trong nước;
- Trong trường hợp nhận con nuôi ở nước ngoài, việc nhận con nuôi
không dẫn đến sự trục lợi không chính đáng về tài chính của những người liên
quan trong việc nhận con nuôi;
Có thể nói Công ước về quyền trẻ em đã bao quát được tất cả các khía
cạnh của quyền trẻ em. Công ước về quyền trẻ em là điều ước quốc tế đa
phương phản ánh tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền trẻ em cũng như sự
quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ. Lần đầu tiên, Công ước về quyền
trẻ em đã khái quát được các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ
của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền của trẻ em và mỗi quan hệ giữa
quyền trẻ em với quyền con người nói chung.
1.2.1.2. Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
nuôi nuôi quốc tế năm 1993 (Công ước La Hay 1993)

Ngày 29/5/1993 đại diện của 64 nước tham gia khóa họp thứ 17 Hội nghị
La Hay về Tư pháp Quốc tế, trong đó có Việt Nam đã thông qua Công ước
LaHay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Công
ước đã pháp điển hóa một bước thực tiễn quốc tế, thống nhất cao những khác
biệt trong pháp luật về nuôi con nuôi, dung hòa tối đa lợi ích của các nước trong


17

việc cho và nhận con nuôi quốc tế4. Công ước La Hay 1993 về nuôi con nuôi là
một trong 34 điều ước quốc tế đa phương quan trọng thuộc lĩnh vực tư pháp
quốc tế được Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế thông qua.
Công ước La Hay 1993 là một tài liệu pháp lý quan trọng cho trẻ em, gia
đình sinh ra các em và những người nhận con nuôi nước ngoài. Công ước này
nhằm đảm bảo tính đạo đức và minh bạch của quá trình cho và nhận con nuôi.
Việc tham gia Công ước La Hay 1993 sẽ mang lại những lợi ích tích cực cho các
quốc gia thành viên. Công ước La Hay 1993 sẽ giúp tạo dựng một cách tốt nhất
cuộc sống riêng (về vật chất lẫn tinh thần) của những đứa trẻ không được gia
đình gốc chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo cho các em có được điều kiện sống tốt
nhất, có được nơi che chở, giáo dưỡng chăm sóc, đáp ứng được nhu cầu về tình
cảm, tình yêu thương trong gia đình.
Công ước gồm Lời nói đầu, 7 Chương, 48 Điều với các nội dung chính
bao gồm: Những nguyên tắc cơ bản; điều kiện nuôi con nuôi giữa các nước; Cơ
quan Trung ương có thẩm quyền và tổ chức được ủy quyền hoạt động trong lĩnh
vực nuôi con nuôi; Yêu cầu về thủ tục cho, nhận con nuôi quy định trình tự, thủ
tục giải quyết việc cho nhận con nuôi; Công nhận việc nuôi con nuôi và hệ quả
pháp lý của việc nuôi con nuôi. Các nội dung chính của Công ước La Hay 1993
là:
* Mục đích của Công ước La Hay 1993
Điều 1, Công ước La Hay 1993 quy định mục đích chính của công ước như

sau:
Thứ nhất, thiết lập những bảo đảm để việc nuôi con nuôi quốc tế diễn ra
vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em được
công nhận trong luật pháp quốc tế. Như vậy, Công ước đã chỉ rõ mục tiêu đầu
tiên là thiết lập các đảm bảo nhằm tạo nên sự bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em,
lợi ích của trẻ em được xem là ưu tiên hàng đầu. Đồng thời, bên cạnh việc đảm
4

Bộ Tư pháp (2007), Tìm hiểu Công ước La Hay về nuôi con nuôi, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.7.


18

bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ, việc nuôi con nuôi quốc tế phải đảm bảo tôn trọng
các quyền cơ bản của trẻ em được quy định tại Công ước về quyền trẻ em và các
văn bản pháp lý khác.
Thứ hai, thiết lập một hệ thống hợp tác giữa các nước ký kết để những
đảm bảo trên được tôn trọng và để ngăn ngừa việc bắt cóc, bán hoặc buôn bán
trẻ em. Như vậy, Công ước thiết lập cơ chế hợp tác giữa các nước thành viên
trong vấn đề nuôi con quốc tế. Các nước thành viên bắt buộc tuân thủ một cơ
chế chung về nuôi con nuôi quốc tế được quy định tại Công ước này. Đồng thời,
tại mục đích này, công ước tuyên bố rõ ràng việc đấu tranh, ngăn ngừa nạn bắt
cóc, buôn bán trẻ em nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em
khi trở thành con nuôi quốc tế.
Thứ ba, đảm bảo tại các nước ký kết sự công nhận việc nuôi con nuôi
được tiến hành theo Công ước. Đây là một trong những mục đích quan trọng của
công ước, ngoài việc “thúc đẩy” thực hiện việc nuôi con nuôi quốc tế, Công ước
còn “đảm bảo” việc công nhận giá trị pháp lý của việc nuôi con nuôi theo quy
định của Công ước.
* Phạm vi áp dụng Công ước

Phạm vi áp dụng của Công ước La Hay 1993 đã được quy định tại Điều 2
Công ước. Theo đó, Công ước được áp dụng khi một trẻ em thường trú ở một
nước ký kết (nước gốc) đã, đang hoặc sẽ được chuyển đến một nước ký kết khác
(nước nhận) sau khi đã được một cặp vợ chồng hay một người thường trú ở nước
nhận nhận làm con nuôi tại nước gốc, hoặc vì mục đích của việc nuôi con nuôi như
vậy tại nước nhận hay nước gốc và Công ước chỉ áp dụng đối với những trường
hợp nuôi con nuôi tạo ra mối quan hệ cha, mẹ và con lâu dài.
Như vậy, trong phạm vi của Công ước, Công ước điều chỉnh các trường
hợp nuôi con nuôi mà người nhận nuôi và trẻ em được nhận nuôi thường trú ở
các nước ký kết khác nhau, vì mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con bền
vững, lâu dài. Công ước không áp dụng đối với trường hợp trẻ em thường trú ở


19

một quốc gia thành viên và cha mẹ nuôi thường trú ở một quốc gia không phải là
thành viên và ngược lại. Đồng thời, Công ước chỉ áp dụng đối với mối quan hệ
cha, mẹ và con được xác lập trên cơ sở tự nguyện, nghiêm túc, lâu dài vì lợi ích
của trẻ em được nhận nuôi.
* Những nguyên tắc cơ bản của của Công ước
Công ước quy định những nguyên tắc cơ bản về nuôi con nuôi, đây được
coi là những quy định bắt buộc, có giá trị ràng buộc chung đối với tất cả các
quốc gia thành viên. Quốc gia thành viên có nghĩa vụ nghiêm chỉnh và tuyệt đối
tuân thủ, pháp luật trong nước của các quốc gia thành viên không được trái với
những nguyên tắc cơ bản của Công ước này. Những nguyên tắc của Công ước
La Hay 1993 là:
- Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em; mọi chính sách, pháp
luật đều phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em.
- Tôn trọng quyền ưu tiên đối với trẻ em là quyền được cha, mẹ đẻ chăm
sóc. Nếu vì một lý do nào đó mà trẻ em không được cha, mẹ đẻ chăm sóc thì cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền phải có trách nhiệm bảo vệ trẻ em và xem xét tất cả
những giải pháp khác nhau để trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng tại quốc gia
của mình; nếu các giải pháp này không thực hiện được thì có thể tìm kiếm giải
pháp thay thế như nuôi con nuôi, giám hộ hoặc chăm sóc ở trung tâm bảo trợ xã
hội.
- Chỉ cho phép những người ngoài gia đình ruột thịt của trẻ em nhận trẻ
em làm con nuôi, nếu không có khả năng tìm thấy một nơi ở phù hợp cho trẻ em
ngay từ gia đình gốc của mình.
- Việc nuôi con nuôi làm phát sinh đầy đủ quan hệ cha mẹ và con theo
pháp luật.
- Ưu tiên thu xếp cho trẻ em làm con nuôi trong nước, việc cho trẻ em làm
con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp cuôi cùng sau khi chắc chắn
rằng, không thể tìm đươc gia đình thay thế cho trẻ em ngay tại nước mình.


×