Tải bản đầy đủ (.pdf) (256 trang)

Các vấn đề pháp lý cơ bản trong công ước viên 1969 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia và việc thực hiện công ước này ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.68 MB, 256 trang )

B ộ -T ư P H Á P
i \ fC ị W ?>ẠĨ Ịi- ■
^
? '~' ?4%;v •
■-Ạ?;,:1:- tC & g a ầS M a ì a S



Ề Wm > m ' - '•”tí ỉtó * \ 1 1
® ® s HP < tti ỉ
v
'
■ -' "

;.'

. ' '- . ^ 5

•• •



W m S ă Ẽ ':
Wẵ
llp|ặfelPI§25ìẾ:'''.:
'-SS

■ •

8 Ấ a CÁO
DỂ TÀI ỆEQHIầVS


•-, ■•:;■• V .-'' '

- 'â t ó i S i

• - -'• ĩ

WM n m
m

H í';--

ẹ iró

- v « c v i i O i 3 if l

:■ ■•;■
•■■

liÉ l

'." ""




■’•



' -I. fi


■ -•••".

- ■ - iM

•.-

ịil


BỘ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÁO C Á O K ẾT Q UẢ
Đ Ê TÀI NGHIÊN c ứ u KHOA HỌC


CÁC VẤN Đẽ' PHÁP IV CO BỒN TRONG CÔNG ƯỚC VIỄN 1969
v ế LUẬT Điều ƯỚC QUỐC T€KV KÍT Glữn CÁC QUỐC Gìn

vn Vllc
THỰC
HlệN
CÔNG ƯỚC NÒY Ở VlỊí
NOM






THƯVI ỆN
ị TRƯƠNG ĐAI H O CLÚ Ậ Ĩ
•PHÒNG D O C .



Nỏl

Chủ nhiệm đê tài : TS. Lê Mai Anh
Thư ký đề tài

: ThS. Nguyễn Kim Ngân

HÀ NỘI, 12/2004


CÁC CỘNG TÁC VIÊN CHÍNH

TS. Nguyễn Thị Hoàng Anh
ThS. Hoàng Ly Anh
GV. Đỗ Mạnh Hổng
ThS. Vũ Thị Thanh Lan
TS. Lê Thành Long
TS. Lê Thị Tuyết Mai
ThS. Đặng Thị Hoàng Oanh
TS. Nguyễn Trung Tín


MỤC LỤC
Trang

Báo cáo phúc trình

1

A.

Mục đích, phạm vi nghiên cứu

1

B.

Tổng thuật nội dung của đề tài

5

I.

Giới thiệu khái quát vồ Công ước Viện 1969

7

II.

Các vấn đề pháp ]ý cơ bản vổ kýkết điều ước quốc tế theo Công
ước Viên 1969

11

III. Các vấn đề pháp lý cư bản về thực hiện điều ước quốc tế theo

Công ước Viên 1969

16

IV. Vấn đề gia nhập và thực hiện Công ước Viên 1969 của Việt Nam

30

V.

41

Thay lời kết luân
Khái quát Công ước Viên 1969 vồ luật điều ước quốc tế ký kết
giữa các quốc gia
ThS. Vũ Thị Thanh Lan

45

Quy định của Công ước Viên 1969 về ký kết điều ước quốc tế
ThS. Nguyễn Kim Ngân

57

Hiệu lực của điều ước quốc tế theo các quy định Irong Công
ước Viên 1969
GV. Đỗ Mạnh Hổng

78


Vấn đề thực hiện điều ước quốc tế theo Công ước Viên 1969
TS. Lê Mai Anh - ThS. Hoàng Ly Anh

93

Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
TS. Nguyễn Trung Tín

117

Vị trí của điều ước quốc tế nhìn từ góc độ Công ước Viên
1969 và pháp luậl Việt Nam hiện hành
TS. Lê Thành Long - ThS. Đặng Thị Hoàng Oanh

134

Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1969 về luật điều ước
TS. Lê Thị Tuyết Mai

149

Thực tiễn áp dụng và thực thi Công ước Viên 1969 tại Việt Nam
TS. Lê Mai Anh

168

Quá trình xây dựng dự thảo luậl ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế trong điều kiện Việt Nam là thành viên Công
ước viên năm 1969
TS. Nguyễn Thị ỉ ỉ oàng Anh


192

Tài-liệu tham khảo

206


BÁO CÁO PHÚC TRÌNH

A. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN c ứ u

1. Tính Cấp thiết của đề tài
Thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hội nhập nhanh chóng, toàn
diện xu thế quốc tế hóa trên bình diện khu vực và toàn cầu, trong chưa đầy
một thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã ký kết, gia nhập và trở thành thành viên của
một số lượng lớn các điều ước quốc t ế 1}' Theo tổng kết của Bộ Ngoại giao thì
số lượng điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết trong thời gian 10 năm gần đây
bằng với số lượng điều ước được ký kết của cả 50 năm trở về trước. Thực tế
này chứng tỏ, Nhà nước ta đã sử dụng có hiệu quả điều ước quốc tế làm công
cụ pháp luật khi thiết lập và thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế với các quốc
gia, các tổ chức quốc tế trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn
hóa, xã hội,... Sự hiện diện của một số lượng lớn các điều ước quốc tế như vậy
một mặt góp phần thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam trên trường quốc tế, qua đó mở rộng hợp tác toàn diện giữa Việt
Nam với các nước, các tổ chức quốc tế, mặt khác có vai trò tích cực đối với
việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong số những điều ước nêu trên, năm 2001, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế ký kết
giữa các quốc gia (gọi tắt là Công ước Viên 1969). Với tính chất là luật hình

thức, bao gồm các quy định điều chỉnh trình tự, thủ tục, cách thức ký kết, thực
hiện điều ước quốc tế, Công ước Viên 1969 đã trở thành một trong số nguồn
luật quan trọng, thường xuyên được các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế viện dẫn đến. Trải qua gần bốn thập kỷ và mặc dù còn có những điểm
hạn chế nhất định, nhưng đến nay, công ước vẫn được các quốc gia sử dụng
(1) X em thêm Báo cáo lổng kết thực hiện phấp lệnh kỷ kết và thực hiện diều ước quốc t ế của Bộ N goại giao
Việt Nam năm 2004, trong đó đưa ra số liệu sau: Tính từ thời điểm từ khi ban hành Pháp lệnh về ký kết, thực
hiện điều ước quốc tế năm 1998 đến tháng 4/2004, Việt Nam đã ký kết, gia nhập khoảng 702 điều ước quốc
tế (chưa tính đẽn diều ước ký kết vói danh nghĩa bộ, ngành), trong đó có khoảng 106 điều ước chưa có hiệu
lực, chù yếu do phía đối tác nước ngoài chưa hoàn thành thủ tục pháp lý. Trong số 702 điểu ước uêu trên, Việt
Nam đã ký tổQg số 604 điều ước song phương với danh nghĩa Nhà nước và danh nghĩa chính phù, với 308
điều ước song phương hiện đang có hiệu lực; 67 điều ước song phương đã hết hiộu lực; 66 điều ước chưa có
hiệu lực. Ngoài ra, tính từ năm 1998 đến nay, Việt Nam đã ký kết và gia nhập 98 điều ước đa phương (với 39
điều ước đang có hiệu lực và 41 điều ước chưa có hiệu lực).

1


như một công cụ pháp lý phổ biến khi ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế.
So với nhiều thành viên khác, Việt Nam gia nhập Công ước Viên trong
điều kiện pháp luật quốc gia về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế chưa
hoàn thiện nên vấn đề xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật thống nhất giữa
công ước này với hệ thống pháp luật Việt Nam là yêu cầu mang tính thời sự cả
trong giai đoạn trước mắt cũng như về chiến lược phát triển pháp luật quốc gia
trong tương lai.
Song muốn hiện thực hóa Công ước Viên 1969 vào hoạt động ký kết
và thực hiện điều ước quốc tế của các cơ quan chức năng thuộc bộ máy nhà
nước thì trước hết, cần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và pháp lý được ghi
nhận trong nội dung công ước này. Đây là công việc có ý nghĩa thiết thực

không chỉ đối với nghiên cứu, giảng dạy và truyền bá khoa học pháp lý quốc
tế tại Việt Nam mà còn có giá trị phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nhận thức rõ tầm quan trọng nêu trên của Cồng ước Viên 1969 nên tập
thể tác giả đã triển khai nghiên cứu đề tài: "Các vấn đề pháp lý cơ bản trong
Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia và
việc thực hiện công ước này ở Việt Nam”.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Công ước Viên 1969 đề cập đến rất nhiều vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tế phức tạp, đòi hỏi phải được xem xét ở nhiều cấp độ và phạm vi khác
nhau. Vì vậy, trong khuôn khổ của một đề tài khoa học cấp trường, nhóm tác
giả chỉ giới hạn giải quyết những vấn đề pháp lý cơ bản trong nội dung của
công ước và đánh giá việc thực thi công ước này ở Việt Nam, nhưng chủ yếu
trong lĩnh vực lập pháp, để hướng tới việc hoàn thiện thêm một bước quan
trọng pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Bên cạnh
mục tiêu tổng quát trên, đề tài còn nhằm mục đích nghiên cứu có hệ thống quá
trình hình thành, sử dung Công ước Viên với tính chất là khung pháp luật quốc
tế trong lĩnh vực ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Thông qua đó, đề tài có
sự đúc rút những vấn đề lý luận, pháp lý về Điều ước quốc tế và với mong
muốn, giúp cho các cơ quan chức năng có được nền tảng pháp lý quốc tế cần

2


thiết để vận dụng vào quá trình bổ sung, sửa đổi và ban hành mới Luật ký kết,
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, theo tinh thần của Nghị quyết số
21/2003/QH11 về chương trình xây dựng pháp luật năm 2004 của Quốc hội
Nước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài tập trung
vào những vấn đề khoa học sau:
- Sự hình thành của Công ước Viên với tính chất là luật của luật, điều

chỉnh quan hệ ký kết, thực hiện điều ước quốc tế giữa các quốc gia.
- Các vấn đề pháp lý cơ bản về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
theo Công ước Viên 1969.
- Việc thực thi Công ước Viên 1969 ở Việt Nam (trước, sau khi Việt
Nam là thành viên của công ước này) và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong điều kiện là thành viên của
Công ước Viên.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đê tài được dựa trên quan điểm, đường lối, chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chủ trương phát triển và hoàn thiện
pháp luật Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền. Nội dung
của đề tài được nghiên cứu tổng hợp từ các văn bản pháp luật Việt Nam về ký
kết, thực hiện điều ước quốc tế, từ Công ước Viên 1969 và các điều ước quốc
tế trong nhiều lĩnh vực hợp tác quốc tế của các quốc gia và Việt Nam, từ các
tài liệu pháp lý và tài liệu tham khảo khác ở trong và ngoài nước. Đây là công
trình nghiên cứu về khoa học luật quốc tế trong lĩnh vực ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế. Qua nghiên cứu của tập thể tác giả, tính chất và giá trị của
điều ước có thể được nhìn nhận theo hai phương diện: (1) là công cụ hợp tác
quốc tế có tính hiệu quả cao do các quốc gia xây dựng; (2) là nguồn pháp lý
chứa đựng quy phạm luật quốc tế để điều chỉnh quan hệ pháp luật phát sinh
giữa các quốc gia với nhau.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, nhóm tác giả còn sử dụng một số
phương pháp có tính đặc thù của khoa học xã hội, như phương pháp phân tích,
tổng hợp và có chú trọng sử dụng phương pháp so sánh giữa lý luận với thực

3


tiễn của một số nước cũng như của Việt Nam để giải quyết có hiệu quả các

vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện đề tài.
4. Những đóng góp có ý nghĩa khoa học
Thập niên đầu của thế kỷ XXI là thời kỳ mà nhu cầu hội nhập quốc tế
đang đặt Việt Nam trước những cơ hội cùng thách thức to lớn. Đây cũng là thời
điểm mà Việt Nam đang có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao vị thế quốc gia trên
trường quốc tế. Việc đạt được vị trí quan trọng trong một loạt các diễn đàn quốc
tế và khu vực (như trong ASEAN, ASEM, APEC, ARF...) cùng với các hoạt
động nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO vào năm 2005, tham gia là ứng
cử viên ghế ủ y viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2007 - 2008,... đều là những hoạt động đối ngoại thể hiện sự chủ động
hội nhập bình đẳng vào xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa của Việt Nam.
Nhưng so với tiềm năng và mục tiêu lâu dài của chiến lược hội nhập quốc tế và
phát triển đất nước thì những hoạt động đó chưa đủ để tạo cho Việt Nam thế và
lực vững chắc trong tương quan tại khu vực cũng như trong cộng đồng quốc tế.
Điều này cho thấy, đẩy mạnh và tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện giữa Việt
Nam với các quốc gia hay tổ chức quốc tế luôn là yếu tố thời đại, cần được quan
tâm đúng mức cả về phương diện pháp lý - chính trị và phương diện thực tiễn.
Trong bối cảnh chung đó, nhóm tác giả đề tài đã đi sâu nghiên cứu về
lĩnh vực lập pháp theo khuôn khổ của luật quốc tế, vốn là lĩnh vực có sự ảnh
hưởng trực tiếp và lâu dài đến lợi ích quốc gia, dân tộc khi Việt Nam tham gia
tiến trình quốc tế hóa ở cả hai cấp độ khu vực và cộng đồng. Việc thực hiện đề
tài này theo phạm vi và giới hạn đã nêu ở trên góp phần làm sáng tỏ một cách
cơ bản về lý luận và pháp lý quá trình hình thành hệ thống công cụ pháp lý
hiện đại điều chỉnh trật tự quan hộ quốc tế. Với xuất phát điểm như vậy, công
trình của tập thể tác giả đã mang lại một số các kết quả nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, đề tài tập trung làm rõ được về mặt khoa học luật quốc tế
các quy định về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong nội dung Công ước
Viên 1969 để có thể tiếp cận một cách đa phương diện với công ước này (như
tính chất là công cụ hợp tác quốc tế; là nguồn luật quốc tế để viện dẫn điều
chỉnh quan hệ ký kết, thực hiện điều ước của chủ thể luật quốc tế; là chuẩn

mực pháp lý quốc tế để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ký kết, thực hiện

4


điều ước quốc tế; là căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý của quốc gia trong
việc thi hành các nghĩa vụ và cam kết quốc tế,...). Trong điều kiện Việt Nam
gia nhập Công ước Viên chưa lâu và việc nghiên cứu về công ước còn rất hạn chế
thì các kết quả của đề tài là một sự đóng góp có giá trị nhất định cho công tác
học tập, nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn thực thi pháp luật tại Việt Nam.
Thứ hai, đề tài mạnh dạn đưa ra cách tiếp cận về cơ chế điều chỉnh
pháp luật thống nhất dựa trên sự hài hòa giữa Công ước Viên, các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên với các quy định của pháp luật Việt Nam
để tạo ra những chuyển biến mới cho công tác ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế của Việt Nam thời gian tới đây.
Thứ ba, đề tài có sự luận giải và đánh giá ở mức độ cần thiết tác động
tích cực của Công ước Viên 1969 đối với quá trình xây dựng, đổi mới và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế. Đây là sự cố
gắng lớn của tập thể tác giả với mong muốn kết quả nghiên cứu của đề tài có
thể được ứng dụng vào chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.
Thứ tư, với những kết quả đạt được, đề tài có thể trở thành tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy lý thuyết về điều ước quốc tế theo
quy định pháp lý quốc tế hiện hành và khoa học luật quốc tế hiện đại.
5. Kết cấu của đề tài
- Báo cáo phúc trình kết quả nghiên cứu
- Các chuyên đề
- Phụ lục (bản dịch tiếng Việt Cồng ước Viên 1969)
B. TỔNG THUẬT NỘI DUNG CỦA ĐỂ

tài


Trong luật quốc tế, Điều ước quốc tế là tên khoa học pháp lý, dùng để
chỉ những thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
các chủ thể ìuật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào
việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc
nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ
thể của những văn kiện đó(1). Ngày nay, điều ước quốc tế tham gia điều chỉnh hầu
(1) X em G iáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, ư. 43.

5


hết các quan hệ hợp tác quốc tế của các chủ thể luật quốc tế và trở thành công cụ
hữu hiệu để duy trì trật tự pháp lý quốc tế. Đặc biệt, sự ra đời của Công ước Viên
1969 đánh dấu bước phát triển vượt bậc của điều ước quốc tế và Luật điều ước
quốc tế. Khác với nhiều công ước đa phương khác, Công ước Viên 1969 là khuôn
mẫu của một điều ước quốc tế (nhìn từ phương diện hình thức), đồng thời có giá
trị là luật của luật, khi các điều khoản trong nội dung của công ước được chủ
thể luật quốc tế viện dẫn để hình thành nên các điều ước quốc tế khác.
Sự ra đời của Công ước xuất phát từ nhận thức của các quốc gia về vai
trò mang tính nền tảng, quan trọng và ngày càng gia tăng của điều ước quốc tế
trong lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử hình thành và phát triển của luật quốc tế.
Ngoài ra, sự cần thiết phải xây dựng một khung pháp lý rõ ràng, nhằm điều
chỉnh quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế trong việc ký kết, thực hiện
điều ước quốc tế và các vấn đề có liên quan, như hiệu lực của điều ước quốc
tế, giải thích, đăng ký, công bố điều ước quốc tế cũng là một trong những lý
do dẫn tới sự hình thành Công ước Viên 1969(1).
Trong quan hệ pháp luật về điều ước quốc tế, Công ước Viên 1969 vừa
có hiệu lực áp dụng đối với các thành viên, vừa có giá trị viện dẫn để điều
chỉnh quan hệ điều ước quốc tế phát sinh giữa các quốc gia không là thành

viên Công ước Viên 1969 (với tính chất của luật tập quán). Do đó, tuy số
lượng thành viên công ước chỉ khoảng trên dưới 100 quốc gia, nhưng công ước
lại có một phạm vi tác động rộng rãi đến nhiều chủ thể khác nhau. Vì vậy,
quyết định gia nhập công ước này của Việt Nam là phù hợp với xu thế phát
triển chung của luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Để có thể nhận thức được
sâu sắc vai trò của Công ước Viên 1969 trong hệ thống luật quốc tế cũng như
tác động của nó với pháp luật Việt Nam, trước hết cần hiểu một cách khái quát
về Công ước này như sau:
(1) Trong khoa học pháp lí quốc tế hiện nay, ký kết điều ước quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm
các hành vi từ đàm phán, soạn thảo văn bản, thông qua văn bản điều ước và các hành vi ràng pháp lí mà chủ
thể luật quốc tế thực hiện để ràng buộc quốc gia với điều ước quốc tế như ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập
điều ước quốc tế. Còn thực hiện điều ước quốc tế về bản chất là quá trình hiện thực hoá các quy định của điều ước
quốc tế ưong thực tiên. Vói quan niệm cho rằng, giải thích điều ước GUỐC tế là quá trình iàm sáng tò nội dung ĩkật
của điều ước mà không làm thav đổi hiệu lực của điều khoản cùa điẻu ước. Vì vậy, các nhà khoa học pháp lí quốc
tế cùa nhiều nước đã coi hành vi giải thích điều ưóc quổc tế là một phần cùa thực hiện điều ước quốc tế. Tuy
nhiên, trong bài viết nàv, tác giả sẽ tiếp cận việc giải thích điều ước quốc tế như là một phương tiện hỗ trợ
thực hiộn điều ước quốc tế, chứ không phải là một giai đoạn cùa thực hiện điều ước quốc tế, vì Công ước Viên
và rất nhiều điều ước quốc tế khác khôQg ghi nhặn nghĩa vụ giải thích điều ước quốc tế và cũng khồng quy
định giải thích điều ước quốc tế như một giai doạn bắt buộc trưóc khi thực hiện các quy định cùa điều ước.

6


I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỂ CÔNG ƯỚC VIÊN 1969

1. Quá trình hình thành công ước Viên 1969
Điều ước quốc tế ra đời và phát triển gần như song hành cùng với sự hình
thành và phát triển của mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia. Lịch sử ban đầu
của những mối quan hệ bang giao quốc tế là lịch sử của chiến tranh và hòa bình,
luôn luôn gắn liền với việc ký kết các Thỏa ước quốc tế. Có thể nói, các quy tắc

về việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đã tồn tại từ xa xưa, như việc các
Pharaon Aicập ký kết thỏa ước với vua Hittie bằng việc trao đổi các văn kiện;
hoặc Grotius đã đưa ra nguyên tắc về việc giải thích điều ước quốc tế vào thế kỷ
thứ 17 (mặc dù nó không giống như các quy tắc của Công ước Viên sau này).
Cội nguồn phát triển nói trên của điều ước quốc tế được xem xét và lý
giải dựa trên một trong những nền tảng cơ bản là tinh thần đoàn kết giữa các
chủ thể của quan hệ quốc tế, đặc biệt các quốc gia. Tư tưởng đoàn kết và vì lợi
ích chung của nhân loại yêu cầu các vấn đề quốc tế phải được xử lý một cách
chung nhất. Nói cách khác, mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia đòi hỏi
phải được giải quyết trong sự đoàn kết và đảm bảo lợi ích cộng đổng. Điều này
được chứng minh bằng sự xuất hiện của hàng loạt các điều ước quốc tế đa
phương (cùng với sự ra đời của nhiều tổ chức quốc tế khác nhau). Từ xu thế phát
triển chung của điều ước quốc tế, vấn đề hình thành khung pháp luật quốc tế để
điều chỉnh quan hộ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế giữa các quốc gia và
các tổ chức quốc tế trở thành nhu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, đến trước thời điểm Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Luật về
điều ước quốc tế vẫn tiếp tục dựa trên truyền thống quân chủ trong sự bành trướng
của Nghị viện và hệ thống dân chủ. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, bao trùm
mọi khía cạnh của mối quan hệ quốc tế là tư tưởng về hòa bình đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của luật điều ước quốc tế. Những vấn đề về luật điều ước
quốc tế đã được Hội quốc liên quan tâm và đưa ra trong các khóa họp của mình.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Liên hợp quốc tiếp tục có những
nỗ lực nhằm pháp điển hóa các quy phạm tập quán của luật điều ước quốc tế.
Năm 1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thành lập ủ y ban Luật quốc tế với
mục tiêu rõ ràng là khuyến khích sự phát triển tiến bộ và quá trình pháp điển
hóa luật quốc tế.

7



Hình thành được một bộ luật về điều ước quốc tế là một trong số nội
dung quan trọng của quá trình pháp điển hóa luật quốc tế nói chung và được
ủ y ban Luật quốc tế lựa chọn tại kỳ họp đầu tiên, được tổ chức năm 1949.
Một nhóm các học giả nổi tiếng trong lĩnh vực luật quốc tế của nước Anh, như
Jame Briefly, Hersch Lauterpacht, Gerald Fitzmaurice và Humphrey Wakdock
đã được chỉ định như là những Báo cáo viên đặc biệt, với nhiệm vụ pháp điển
hóa các quy định, hình thành nên một khung pháp lý hữu hiệu điều chỉnh mối
quan hệ giữa các quốc gia trong lĩnh vực ký kết, thực hiện điều ước quốc tế.
Quá trình xây dựng và soạn thảo công ước là cả một sự cố gắng, thể
hiện nỗ lực vượt bậc của ủy ban luật quốc tế. Qua thảo luận dự thảo Công ước
với 11 điều khoản do Giáo sư Briefly đưa ra (vào năm 1950), cho đến tiếp
các báo cáo thứ hai (vào năm 1951), báo cáo thứ ba (vào năm 1952) và sau
này là báo cáo của một số các chuyên gia khác, như giáo sư Lauterpacht,
giáo sư Gerald, giáo sư Waldock..., sau cùng thì ủ y ban luật quốc tế của Liên
hợp quốc cũng đã có được một văn bản dự thảo cuối cùng, gồm 75 điều khoản
và các chú thích liên quan để đệ trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc vào
năm 1966. Trong báo cáo này, ủ y ban Luật quốc tế đã giải thích công ước theo
hướng thu hẹp đối tượng điều chỉnh của công ước, đồng thời đề nghị Đại hội
đồng Liên hợp quốc triệu tập hội nghị với mục đích khuyến khích các quốc
gia ký kết công ước này. Kết quả, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đồng ý triệu
tập hội nghị quốc tế với các đại diện toàn quyền, nhằm xem xét luật về điều ước
quốc tế được thể hiện dưới hình thức pháp lý là một công ước quốc tế cụ thể.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật điều ước quốc tế năm 1968 được tổ
chức trong hai kỳ họp. Kỳ họp đầu tiên được tổ chức tại Viên từ 26 tháng 3
đến 24 tháng 5 năm 1968, với sự tham gia của đại diện ủy quyền của 103 nước
và các quan sát viên từ 13 tổ chức quốc tế đặc biệt. Hội nghị đã bình luận các
điều khoản dự thảo do ủ y ban Luật quốc tế xây dựng và qua đó, hơn 400 sửa
đổi đã được đệ trình đối với các điều khoản khác nhau của dự thảo công ước.
Cuối cùng, 69 điều khoản đã được thông qua tại kỳ họp này.
Kỳ họp lần thứ hai


D ăm

1969 của Hội đổng Liên Hợp quốc về Luật

điều ước quốc tế được tổ chức tại Viên từ ngày 9 tháng 4 đến ngày 22 tháng 5
năm 1969, 110 quốc gia và 14 tổ chức quốc tế đặc biệt đã tham dự. Hội nghị
đã chấp nhận bổ sung 13 điều khoản và đệ trình để đề nghị bỏ phiếu thông

8


qua. Như vậy, tại kỳ họp này, 110 quốc gia tiến hành xem xét dự thảo Công
ước Luật điều ước quốc tế với 85 điều khoản. Mỗi một điều khoản được đưa ra
để biểu quyết và thông qua với 2/3 tổng số quốc gia thành viên tán thành, mặc
dù trên thực tế, một số các điều khoản đã được nhất trí tại các cuộc thảo luận
trước đây. Cuối cùng, lời nói đầu và điều khoản cuối cùng của Công ước cũng
được thảo luận và được các bên tham gia đàm phán nhất trí. ủ y ban Luật quốc
tế đưa ra tuyên bố giải thích giá trị của việc biểu quyết thông qua và giá trị, ý
nghĩa pháp lý của Công ước. Như vậy, tại kỳ họp năm 1968 và 1969, rất nhiều
các điều khoản của Công ước đã được thảo luận tại hội nghị và được luật hóa
vào văn bản chính thức.
Hội nghị Liên hợp quốc về Luật điều ước quốc tế đã thông qua Công
ước Viên về Luật điều ước quốc tế ngày 23 tháng 5 năm 1969, 79 quốc gia đã
bỏ phiếu tán thành Công ước này, Pháp phản đối, 19 quốc gia khác bỏ phiếu
trắng. Sau một "hành trình" khá dài, Công ước Viên 1969 về Luật quốc tế,
khung pháp lý điều chỉnh hoạt động ký kết, thực hiện điều ước quốc tế đã ra
đời. Nó là kết quả đồng thời của hai quá trình: (1) Quá trình pháp điển hóa các
quy phạm của luật tập quán quốc tế về điều ước và (2) quá trình bổ sung, xây
dựng mới các quy phạm pháp lý quốc tế tiến bộ, cặp nhật về điều ước quốc tế.

Tuy nhiên, do hoàn cảnh lich sử, Công ước Viên 1969 không tránh khỏi có
một số hạn chế nhất định. Chẳng hạn, Theo các điều 81 và 83 của công ước thì
chỉ có những quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc, thành viên của các tổ
chức chuyên môn hoặc tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế, thành viên của
Quy chế Tòa án quốc tế hoặc bất kỳ một quốc gia nào được Đại hội đồng Liên
hợp quốc mời mới được tham gia Công ước. Điều này thực chất nhằm hạn chế
các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước đây tham gia. Nhưng sau đó 5 năm,
hạn chế này đã được khắc phục bằng việc Đại hội đồng Liên hợp quốc, tại
Nghị quyết số 3233 khóa họp lần thứ 29 đã quyết định để ngỏ Còng ước cũng
như Phụ lục đính kèm cho tất cả các nước tham gia.
Cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1980, 30 ngày sau ngày quốc gia thứ 35
(Togo) nộp lưu chiểu văn kiện gia nhập Công ước, Công ước Viên 1969 bắt đầu
phát sinh hiệu lực pháp lý. Tính đến tháng 9 năm 2000, Công ước đã có 91 quốc
gia thành viên, trong đó có 24 quốc gia biểu thị sự ràng buộc đối với Công ước
bằng việc ký với nội dung phê chuẩn và 67 quốc gia trở thành thành viên bằng

9


việc gia nhập. Hiện nay, số lượng các quốc gia thành viên vẫn ngày càng tăng,
chứng tỏ rằng, Công ước có giá trị pháp lý cao trong việc điều chỉnh quan hệ ký
kết, thực hiện điều ước quốc tế giữa các quốc gia.
2 Cơ cấu và vai trò của Công ước Viên 1969
Công ước Viên 1969 được kết cấu thành lời nói đầu, nội dung, các điều
khoản cuối cùng và một phụ lục đính kèm. Chương 1 (từ Điều 1 đến Điều 5) là
Phần mở đầu, nhằm xác định giới hạn phạm vi điều chỉnh của công ước, những
thuật ngữ quan trọng được sử dụng trong công ước, đặc biệt là thuật ngữ "điều ước
quốc tế", "phê chuẩn, phê duyệt, chấp thuận, gia nhập, giấy ủy quyền, bảo lưu...".
Chương 2 (từ Điều 6 đến Điều 25) quy định về ký kết và hiệu lực của điều
ước quốc tế. Đây là những quy định cơ bản nhất, điều chỉnh những hoạt động

liên quan đến việc đàm phán, soạn thảo, thông qua và thể hiện sự ràng buộc đối
với một điều ước quốc tế của các quốc gia thành viên. Thông qua quy định về
các hành vi ký kết điều ước quốc tế, Chương này xác định rõ quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể trong khi tham gia vào quan hệ ký kết điều ước quốc tế.
Chương 3 (từ Điều 26 đến Điều 38) gồm bốn mục, quy định về nghĩa
vụ tôn trọng, thi hành và giải thích điều ước quốc tế của các quốc gia thành
viên. Chương 5 (từ Điều 42 đến Điều 72) là các quy định về vấn đề vô hiệu,
chấm dứt và tạm đình chỉ thi hành điều ước.
Phụ lục của Công ước này được xác định là phần không thể tách rời
khỏi Công ước, bao gồm các quy định hướng dẫn thủ tục liên quan đến vấn đề
về giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên trong quá trình thực thi,
áp dụng công ước.
Với hệ thống các quy phạm cụ thể, rõ ràng, Công ước Viên 1969 về Luật
điều ước quốc tế đặt nền móng cho việc xác định giá trị pháp lý của điều ước
quốc tế, đồng thời có ý nghĩa xây dựng khung pháp luật về điều ước quốc tế
với tư cách là một ngành luật độc lập, thuộc hệ thống pháp quốc tế hiện đại.
Xem xét một cách toàn diện (hình thức, nội dung và giá trị pháp lý, chính trị...),
Công ước Viên 1969 có những ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Thứ nhất, Công ước đã khẳng định vai trò ngày càng tăng của điều ước
quốc tế với tư cách là nguồn của luật quốc tế, là phương tiện để duy trì, phát

10


triển hòa bình, an ninh quốc tế, đồng thời góp phần làm giảm bớt những tranh
chấp giữa các nước trong quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, qua
đó xây dựng lòng tin giữa các quốc gia với nhau khi thiết lập và tăng cường
các quan hệ hợp tác quốc tế.
Thứ hai, Công ước đã góp phần ổn định một cách tương đối trật tự
pháp lý quốc tế, giữ gìn quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia, đảm bảo dung

hòa giữa lợi ích cộng đồng quốc tế và lợi ích quốc gia. Công ước đã chứng tỏ
sự bắt đầu một kỷ nguyên phát triển mới của luật điều ước quốc tế, với nhiều
tác động tích đến quá trình phát triển của quan hệ quốc tế nói chung và pháp
luật nói riêng. Công ước Viên 1969 ngày càng khẳng định vị trí trung tâm trong
hệ thống luật quốc tế, đồng thời có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp
luật quốc gia. Công ước vừa có ý nghĩa thể chế hóa hoạt động ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế của các quốc gia ừong khuôn khổ pháp luật quốc tế, vừa
tạo cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia
trong thực tiễn xây dựng và thực thi điều ước quốc tế của các quốc gia.
Thứ ba, Công ước Viên 1969 đã tao ra những thay đổi về cơ cấu trong
hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế, với tính vượt trội của quy phạm pháp
luật thành văn, đổng thời góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế giữa
các quốc gia nói chung và hội nhập pháp luật nói riêng. Trên thực tế, rất nhiều
các quốc gia chưa phải là thành viên của Công ước đã và đang viện dẫn các
quy định của Công ước với tính chất là các quy phạm của luật tập quán.
Ngày nay, Công ước Viên 1969 cùng với các Công ước Viên 1961 về
quan hệ ngoại giao, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, Công ước Luật
Biển 1982 của Liên Hợp quốc... đã góp phần phát triển tiến bộ luật quốc tế và
trở thành công cụ hữu hiệu mà cộng đồng quốc tế sử dụng để đặt nền móng
thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế phát triển mạnh mẽ và là cầu nối giữa các
quốc gia, các dân tộc gia trong thời đại toàn cầu hóa.

n.

CÁC VẤN ĐỂ PHÁP LÝ C ơ BẢN VỂ KÝ KẾT ĐlỂU ƯỚC QUỐC TẾ

THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1969

Hiện nay, điều ước quốc tế đang được các chủ thể sử dụng phổ biến
trong các quan hệ quốc tế. Điều này xuất phát từ ưu thế vượt trội của điều ước

so với tập quán quốc tế (như sự rõ ràng của các điều khoản; sự nhanh chóng

11


trong quá trình hình thành; tính công khai và dễ viện dẫn...). Công ước Viên 1969
ra đời có giá trị tạo cơ sở pháp lý cần thiết để các quốc gia phát huy một cách
triệt để những lợi thế này của điều ước quốc tế. Với ý nghĩa đó, Công ước
Viên 1969 đã dành một số lượng đáng kể các điều khoản để quy định về các
vấn đề liên quan đến ký kết điều ước quốc tế.
1.
Quy định của Công ước Viên 1969 về quyền năng ký kết điều
ước của quốc gia và thẩm quyền của đại diện hợp pháp cho quốc gia khi
thực hiện hành vi ký kết điều ước quốc tế
Qua cách xác định phạm vi áp dụng của Công ước Viên 1969 thì quốc
gia là chủ thể có quyền năng ký kết các điều ước quốc tế. Quốc gia thực hiện
quyền năng này thông qua hành vi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
đại diện cho quốc gia trong tiến hành hoạt động đàm phán, ký, phê chuẩn, phê
duyệt, chấp thuận, gia nhập... Theo luật quốc tế, quốc gia có thể từ chối một
phần, toàn bộ hoặc chuyển cho một quốc gia hay tổ chức quốc tế khác thực hiện
quyền năng ký kết điều ước quốc tế, còn trong Công ước Viên, quyền năng này
do quốc gia tự thực hiện, dựa trên chủ quyền và là một bằng chứng có giá trị về
tư cách quốc gia. Theo chú thích của ủ y ban Luật quốc tế thì thuật ngữ "quốc
gia" được sử dụng trong Công ước (Điều 6) được hiểu cùng nghĩa với quốc gia
trong Hiến chương Liên hơp quốc (tức quốc gia theo nghĩa của luật quốc tế). Do
đó, trong quan hệ điều ước, tư cách pháp luật để tham gia quan hệ điều ước là
quốc gia. VI vậy, theo công ước thì không có sự phân loại về mặt pháp luật quốc
tế điều ước được ký kết nhân danh cấp ký kết nào (nhà nước, chính phủ hay bộ,
ngành), vì việc phân loại điều ước theo phân cấp thẩm quyền do luật trong nước
điều chỉnh. Riêng loại thỏa thuận cấp bộ, ngành thì nhiều nước không xác định

đó là điều ước quốc tế và không thể được đăng ký bình thường như Điều 102
Hiến chương Liên hợp quốc. Đây là vấn đề về pháp lý và thực tiễn ký kết điều
ước đáng lưu ý khi vận dụng để xây dựng khung pháp luật quốc gia về kỷ kết,
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam thời gian tới.
Song song với xác định quyền năng ký kết điều ước của quốc gia, Công
ước Viên 1969 (tại Điều 7> đã quy định những đối tượng có thẩm quyền thay mặt
quốc gia ký kết điều ước qũốc tế, bao gồm hai loại là đại diện đương nhiên (Nguyên
thủ quốc gia; người đứng đầu Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; một số người
khác theo quy định) và đại diện theo ủy quyền. Những người đó chỉ được coi là

12


đại diện hợp pháp cho quốc gia để thông qua hoặc xác thực văn bản của một điều
ước hay để biểu thị việc quốc gia đó đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều
ước khi có giấy ủy quyền, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận
khác. Công ước Viên 1969 khẳng định rõ: Nếu không được sự ủy quyền hợp
pháp, hành vi của một cá nhân liên quan đến việc ký kết một điều ước quốc tế sẽ
không có giá trị pháp lý, trừ khi sau đó hành vi này được quốc gia xác nhận.
Mục đích của quy định về đại diện đương nhiên và đại diện theo ủy quyền
trong quan hệ điều ước nhằm xác định tính hợp pháp của điều ước quốc tế khi đã
được hình thành và đảm bảo cho sự thực thi điều ước quốc tế ở cấp độ quốc tế
cũng như trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Điều này sẽ ràng buộc các quốc gia
trong việc ký kết điều ước phải đúng thẩm quyền và không được viện dẫn đến
hành vi ký kết sai thẩm quyền như là một lý do để từ bỏ nghĩa vụ pháp lý phát
sinh từ điều ước quốc tế đã ký kết, trừ trường hợp việc vi phạm này quá rõ ràng
và liên quan đến một quy định có tính chất cơ bản của pháp luật trong nước.
Trong một chừng mực nhất định, tính chất hai mặt như trên về vấn đề
thẩm quyền của đại diện ký kết (theo Điều 46) có thể gây ra những ảnh hưởng
khác nhau đến hiệu lực pháp luật sau này của điều ước. Khi có đầy đủ bằng

chứng về việc vi phạm nghiêm trọng đến quy định của pháp luật trong nước về
thẩm quyền ký kết của chủ thể kết ước thì thỏa thuận đã đạt được giữa các bên
có thể bị vô hiệu. VI thế, tuân thủ quy định về xuất trình và kiểm tra tư cách
của đại diện được ủy quyền là một trong yêu cầu quan trọng trong quá trình
đàm phán, soạn thảo và xây dựng văn bản dự thảo điều ước. v ề phương diện
lập pháp, lập quy trong nước, những lý luận cơ bản về quyền năng ký kết điều
ước của quốc gia cũng như thẩm quyền ký kết của đại diện hợp pháp cho quốc
gia (mà Công ước đã quy định) cần được thể chế hóa một cách cụ thể và đầy
đủ trong pháp luật từng nước thành viên để tránh xảy ra tranh chấp giữa các
bên ký kết khi thực hiện điều ước.
2.

Quy định của Công ước Viên về các hành vi ký kết, chấp thuận,

gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
Đối với bất kỳ một loại hình điều ước nào (song phương, đa phương)
thì đại diện ký kết cũng đều phải thực hiện một loạt những hành vi pháp lý
khác nhau. Quá trình pháp điển hóa các quy phạm truyền thống của luật tập

13


quán về điều ước quốc tế và dựa trên cơ sở tiếp cận hiện đại với quan hệ điều
ước giữa các quốc gia, Công ước Viên đã quy định, chủ thể kết ước có thể tiến
hành những hành vi ký kết sau, khi muốn thiết lập quan hộ điều ước với nhau:
- Những hành vi pháp lý để hình thành văn bản điều ước, bao gồm
hành vi đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước quốc tế. Khi thực
hiện những hành vi này, các bên ký kết đã tạo dựng được văn bản dự thảo điều
ước để ghi nhận những thỏa thuận xác định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm
pháp lý quốc tế cho những chủ đó trong một quan hệ phát sinh.

- Những hành vi pháp lý thể hiện sự ràng buộc của chủ thể ký kết với
văn bản dự thảo, bao gồm các hành vi ký, trao đổi các văn kiện cấu thành điều
ước, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập hoặc bằng bất kỳ hành vi
nào khác theo thỏa thuận. Những hành vi này có giá trị tạo ra hiệu lực pháp lý
cho điều ước trên cả hai phương diện, luật quốc gia và luật quốc tế.
- Hành vi thực thi điều ước, như công bố, đăng ký, giải thích, viện dẫn,
áp dụng, chuyển hóa. Giải quyết tranh chấp phát sinh... nhằm hiện thực hóa
các quyền và nghĩa vụ quốc tế theo thỏa thuận điều ước vào thực tiễn sinh hoạt
quốc tế và thực tiễn của từng quốc gia thành viên.
Các hành vi pháp lý nêu trên phải tuân theo nguyên tắc, trình tư, thủ tuc
pháp lý nhất định. Việc Công ước Viên 1969 "luật hóa" các hành vi này theo tiêu
chí của Luật điều ước quốc tế có tác dụng hình thành nên khuôn mẫu cho các
hoạt động ký kết điều ước phát sinh giữa các quốc gia trong mọi lĩnh vực hợp tác
quốc tế. Do đặc trưng của điều ước quốc tế là kết quả của quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh giữa các quốc gia nên quan hệ điều ước phản ánh sâu sắc quan hệ
quốc tế hiện đại, phản ánh lợi ích của từng quốc gia đặt trong tương quan lợi ích
của cộng đồng quốc tế. Đặc điểm này làm cho quan hệ điều ước luôn có tính
nhạy cảm cao và nếu không được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật công
bằng, phù hợp thì đó sẽ là tiềm tàng của mọi bất đồng, tranh chấp quốc tế.
3.
Quy định của Công ước Viên 1969 về quy trình ký kết hoặc gia
nhập điều ước quốc tế
Về tổng thể, luật quốc tế có hai dạng nguồn là nguồn thành văn (điều
ước quốc tế và nguồn bất thành văn (tập quán quốc tế). Giữa hai nguồn này có
sự khác nhau cơ bản về hình thức tồn tại và cách thức hình thành. Quy trình ký

14


kết một điều ước là quy trình lập pháp quốc tế, được tiến hành bởi các quốc

gia bình đẳng (về địa vị pháp lý, về quyền và nghĩa vụ), trong điều kiện không
có cơ quan quyền lực chung, do đó mỗi quốc gia được tự do (theo luật quốc
tế) đối với việc thỏa thuận để hình thành các điều khoản có tính chất pháp lý,
ràng buộc quyền, nghĩa vụ giữa các quốc gia với nhau.
Trong quy định của Công ước Viên, quốc gia có thể trở thành thành
viên của một điều ước quốc tế (kể cả của Công ước này) theo hai cách thức:
(1) ký kết trực tiếp với chủ thể khác và (2) gia nhập (hoặc chấp thuận) điều
ước. Bằng cách thức thứ nhất, dù là điều ước song phương hay đa phương thì các
bước thông thường để tiến hành ký kết sẽ bao gồm: Đàm phán, soạn thảo, thông
qua, ký, phê duyệt, phê chuẩn văn bản dự thảo điều ước. Tùy tính chất của quan
hệ và lĩnh vực hợp tác mà trình tự các bước ký kết có thể theo quy trình đơn
giản (đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký và điều ước có hiệu lực ngay sau đó)
hay theo quy trình nhiều giai đoạn (phải qua trình tự phê duyệt, phê chuẩn mới
có hiệu lực). Chi phối bởi yếu tố thỏa thuận, tự nguyện nên bản chất của quy
trình ký kết điều ước là quy trình lập pháp độc lập với quy trình lập pháp trong
nước. Quy trình này đòi hỏi quốc gia phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng thỏa thuận và tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Điều này đồng nghĩa với việc loại bỏ sự áp đăt, cưỡng bức và sử dung vũ lực
hay các biện pháp gian lận, lừa dối khi ký kết điều ước quốc tế. Các chủ thể
tham gia ký kết điều ước luôn bị chi phối bởi ý chí và lợi ích của quốc gia,
nhưng quy trình tiến hành phải trong khuôn khổ do Công ước Viên quy định.
Gia nhập điều ước là phương thức truyền thống mà theo đó, một quốc
gia trong những hoàn cảnh nhất định, trở thành một trong các bên của điều
ước đa phương mà quốc gia đó đã không tham gia ký kết. Trước đây, đã từng
có những quan điểm khác nhau về vấn đề gia nhập điều ước, chẳng hạn như có
thể gia nhập một cách hợp pháp một điều ước chưa có hiệu lực. Hiện nay,
trong cả Công ước Viên và các điều ước hiện đại thường có điều khoản về gia
nhập. Quyền gia nhập điều ước không phụ thuộc vào sự có hiệu lực của điều
ước, hoặc thậm chí quy định rõ ràng bằng việc cho phép gia nhập điều ước
trước ngày xác định là điều ước có hiệu lực.

Tương tự, khi công ước đề cập đến chấp thuận như là một thủ tục mới
để trở thành một bên của điều ước thì thực chất, trên phạm vi quốc tế, khái niệm

15


Chấp thuận mang tính thuật ngữ hơn là hàm ý về một phương thức. Vì thế, nếu
một điều ước có quy định rằng, nó sẽ được mở để ký "phụ thuộc vào chấp thuận"
thì cũng có thể hiểu một cách tương đồng với quy định "ký kết phụ thuộc vào
phê chuẩn". Theo tinh thần của Công ước Viên thì "ký kết phụ thuộc vào chấp
thuận" chủ yếu nhằm quy định hình thức "phê chuẩn" đơn giản để cho phép
chính phủ có cơ hội hơn nữa trong xem xét điều ước, khi nó không cần thiết
phải đặt dưới thủ tục Hiến pháp của quốc gia để nhận được sự phê chuẩn.
Như vậy, lựa chọn cách thức nào để tham gia quan hệ điều ước hoàn toàn
tùy thuộc vào quyết định và sự tự nguyện của một quốc gia, tuân theo các điều
kiện về thành viên của từng điều ước (vì cũng có những điều ước hạn chế số
lượng thành viên hoặc đặt ra điều kiện phải đáp ứng nếu muốn gia nhập điều
ước đó). Với Công ước Viên 1969, một quốc gia có thể áp dụng cả hai cách thức
trên khi quyết định sẽ trở thành một trong số các thành viên của công ước này.
Ngoài ra, trong trường hợp có sự thay đổi về tư cách chủ thể của luật
quốc tế thì nghĩa vụ thực thi điều ước sẽ giải quyết thông qua quan hệ kế thừa
quốc gia và việc có kế thừa nghĩa vụ thành viên một điều ước nào đó hay
không do quốc gia quyết định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62
Công ước Viên 1969.
Tất cả những lỷ giải nêu trên về quyền năng, thẩm quyền, hành vi và
quy trình ký kết, gia nhập, chấp thuận điều ước không nhằm khẳng định: Chỉ
có trở thành thành viên của một điều ước thì quốc gia mới có quyền viện dẫn
đến bất kỳ điều khoản nào trong điều ước. Quyền viện dẫn đến một quy định
của điều ước hoàn toàn có thể phát sinh cả đối với một bên không ký kết, chấp
thuân và gia nhập điều ước (tức quốc gia thứ ba). Đây chính là cơ sở để mở rộng

phạm vi tác động của Công ước Viên đến những quan hệ điều ước được hình
thành bởi chủ thể luật quốc tế khác, ngoài phạm vi thành viên Công ước Viên.
IIÍ. CÁC VẤN ĐỂ PHÁP LÝ C ơ BẢN VỂ THựC HIỆN ĐlỂU ƯỚC Q u ố c
TẾ THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1969

1. Quy định của Công ước Viên về hiệu lực của điều ước quốc tế
Về nguyên lý chung, điều ước quốc tế được ký kết để mà thực hiện.
Nhưng như vậy không có nghĩa rằng hiệu lực của điều ước không bị ràng buộc

16


bởi những điều kiện nhất định. Trong công ước Viên 1969, một điều ước
muốn phát sinh hiệu lực phải thỏa mãn được các điều kiện nhất định.
a) Điều kiện đ ể điều ước có hiệu lực
Bản chất pháp lý của luật quốc tế quy định, hiệu lực của điều ước quốc
tế hoàn toàn phụ thuộc vào việc, các chủ thể ký kết đã thể hiện sự thỏa thuận
đích thực của mình và sự thỏa thuận này phải có nội dung không trái với các
Nguyên tắc cơ bản cũng như các qui phạm Jus cogens của luật quốc tế. Như
vậy, để đảm bảo tính hiệu lực (tính giá trị pháp lý) thì một điều ước quốc tế
phải có sự hợp pháp cả về phương thức kí kết, nội dung, mục tiêu và mục đích
của việc thiết lập điều ước đó. Điều này được Công ước Viên khái quát dưới
dạng các điều kiện mang tính khách quan và chủ quan(1).
Khoa học luật quốc tế có sự phân biệt khái niệm hiệu lực của điều
ước với khái niệm hiệu lực thi hành điều ước quốc tế. Hiệu lực thi hành một
điều ước phụ thuộc vào một loạt các vấn đề, như thời điểm, thời hạn thi hành
(áp dụng) điều ước, việc đình chỉ, tạm đình chỉ hiệu lực điều ước và các điều
kiện khác. Còn hiệu lực pháp luật của một điều ước quốc tế được xác định dựa
trên cơ sở phải đáp ứng được các điều kiện khách quan hay chủ quan để có thể
phát sinh hiệu lực và có eiá trị pháp lý là điều ước quốc tế. Khi đó, văn bản

được ký kết này mới trở thành nguồn của luật quốc tế.
Sự phân biệt như trên có ý nghĩa thiết thực trong thực tế thực thi và
viện dẫn đến các quy định nào đó của một điều ước. Luật quốc tế hiện hành
tổn tại nguyên tắc suy đoán tính hiệu lực (tính giá trị) của điều ước quốc tế.
Nguyên tắc suy đoán này được ghi nhận tại Điều 42 của Công ước
Viên 1969 với nội dung: "Hiệu lực của một điều ước hoặc việc một quốc gia
đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của nó chỉ có thể được xem xét lại theo qui
định của Công ước này".
Lập luận của Điều 42 Công ước Viên phù hợp với nguyên tắc suy đoán
theo nghĩa, hiệu lực của một điều ước quốc tế là lẽ đương nhiên, là tình trạng
thông thường của một điều ước quốc tế, nếu không tồn tại các cơ sở để có thể
chứng minh sự vô hiệu của điều ước đó. Như vậy, khi điều ước được ký kết
(1) Xem thêm Lời nói đầu và các điều 24, 26, 48, 49, 50, 52, 53, 64 Công ước Viên 1969.



THƯ VIỆN

THI

t r y

r \

.» I I !

r\ / N

I 11 Â Y 11 #


k !A

I


hợp pháp thì sẽ có hiệu lực pháp luật đối với các thành viên và có hiệu lực viện
dẫn áp dụng với giá trị pháp lý là nguồn của luật quốc tế (tùy thuộc vào cách
thức chủ thể luật quốc tế viện dẫn điều ước đó theo tư cách là thành viên điều
ước hay tư cách là bên thứ ba, áp dụng quy định trong điều ước dưới dạng quy
phạm của luật tập quán).
Điều kiện có hiệu lực của điều ước đồng thời là căn cứ để xác định sự
vô hiệu của điều ước, vốn tồn tại như mặt trái phát sinh trong thực tiễn ký kết
điều ước quốc tế. Công ước Viên 1969 đã giành một lượng điều khoản thích
hợp, có giới hạn điều chỉnh vấn đề này.
b) Điểu ước quốc tế vô hiệu
Tuy luật quốc tế và luật điều ước quốc tế không tồn tại cơ chế quyền
lực chung bảo đảm cho việc thực thi điều ước, nhưng sự tôn trọng "hiệu lực
thần thánh" của Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda chính là nền tảng pháp lý cơ
bản đảm bảo cho các thỏa thuận và cam kết quốc tế được thực hiện nghiêm
chỉnh. Điều kiện này buộc Công ước Viên phải có sự trù liệu cần thiết về
trường hợp điều ước vô hiệu. Danh mục các nguyên nhân làm cho điều ước vô
hiệu được ghi nhận tương đối dài trong Công ước Viên 1969 và có thể được
chia làm ba nhóm: (1) Nguyên nhân do vi phạm luật trong nước về kí kết điều
ước quốc tế của các quốc gia tham kết; (2) nguyên nhân có lỗi khi ký kết và
thể hiện ý chí ràng buộc với điều ước quốc tế; (3) nguyên nhân về sự không
phù hợp với qui phạm Jus cogens của những điều khoản trong điều ước được
ký kết bởi các quốc gia.
Cồng ước quy định vấn đề vô hiệu của điều ước do từng nhóm nguyên
nhân gây ra như trên theo hướng hạn chế đến mức thấp nhất sự lạm dụng của
các bên ký kết vào hoàn cảnh chủ quan, khách quan để lẩn tránh thực thi

nghĩa vụ thành viên. Ví dụ, trong trường hợp có sự cưỡng ép đối với đại diện
quốc gia, công ước quy định, không phải bất kì loại cưỡng ép nào đối với quốc
gia cũng có thể được coi là nguyên nhân vô hiệu của điều ước quốc tế, mà chỉ
khi việc cưỡng ép được thực hiện bằng đe dọa sử dụng vũ lực (và phải là việc
sử dụng vũ lực trái với các nguyên tắc luật quốc tế được ghi nhận trong Hiến
chương Liên hiệp quốc) thì mới làm cho điều ước vô hiệu. Các trường hợp
khác cũng vậy, sự vô hiệu của điều ước không thể xác định một cách tràn lan,

18


mà phải tuân theo các quy tắc nghiêm ngặt như Công ước Viên đã ghi nhận.
Có như vậy, khả năng thực thi trên thực tế của một điều ước mới được đảm bảo.
c) Hiệu lực thi hành của điều ước quốc tê
Theo khoa học luật quốc tế, điều ước có hiệu lực thi hành về thời gian,
không gian và đối với đối tượng chịu sự tác động của điều ước là các quốc gia
thành viên của điều ước quốc tế đó. Đây là các vấn đề được điều chỉnh theo
các qui phạm luật điều ước quốc tế chứa đựng không chỉ trong Công ước Viên
1969 mà còn ở tập quán quốc tế, cũng như các qui phạm khác.
Hiệu lực thi hành của điều ước phụ thuộc trước hết vào thời điểm các
bên tham kết thể hiện sự chấp nhận ràng buộc của điều ước quốc tế đối với
mình và khi thực hiện xong các thủ tục theo yêu cầu (ví dụ, sự thể hiện chấp
nhận được thực hiện bằng hành vi phê chuẩn, nhưng để đảm bảo hiệu lực thi
hành của điều ước quốc tế, các bên hữu quan cần phải hoàn thành thủ tục trao
đổi thư phê chuẩn). Sau thời điểm này, văn bản được ký kết trở thành luật đối
với các thành viên, tức được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ
thỏa thuận điều ước đó và thời hạn có hiệu lực của một điều ước hoàn toàn
được xác định cụ thể trong từng trường hợp riêng biệt (theo cách mà Điều 24
Công ước Viên 1969 đã quy ước).
Cũng cần phải lưu ý rằng, hiệu lực thi hành của điều ước quốc tế có

thể liên quan đến hai nhóm quốc gia khác nhau, đó là các quốc gia thành viên
(các bên tham kết) và các nước không phải là thành viên, thường được gọi là
bên thứ ba. Thông thường, điều ước có hiệu lực sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụ
chỉ cho các bên thành viên của nó, tức Pacta Tertics nec nocent nec prosunt
(các thỏa thuận không mang lại ỉợi ích và không gây hại cho người thứ ba).
Nhưng đặc thù của cơ chế viện dẫn, áp dụng các loại nguồn của luật quốc tế
lại hình thành mối quan hệ thực tế giữa các nước không phải thành viên của
một điều ước với chính điều ước đó, thông qua cách thừa nhận hiệu lực thi
hành của các điều khoản trong điều ước với bên này, theo tính chất là luật tập
quán, hình thành từ thực tiễn ký kết, thực hiện điều ước quốc tế hoặc trong
một số trường hợp quy định khác (điều ước qui định quyền hoặc nghĩa vụ cho
quốc gia thứ ba). Sự đặc thù này về hiệu lực pháp luật của các loại điều ước
cũng như ngay chính Công ước Viên 1969 tạo cho các quốc gia và chủ thể của

19


luật quốc tế có cơ sở hợp pháp trong việc áp dụng điều ước vào điều chỉnh
quan hệ hợp tác với nhau. Mặt khác, cách viện dẫn nói trên của bên thứ ba đến
một điều khoản nhất định của điều ước cũng phù hợp với yêu cầu mở rộng
hiệu lực áp dụng Công ước Viên 1969 đối với các chủ thể không phải là quốc
gia hoặc không phải là thành viên công ước này (chẳng hạn, quan hệ điều ước
được thiết lập giữa một quốc gia và một tổ chức quốc tế). Điều này cũng là
căn cứ để lý giải cho việc viện dẫn đến quy định của Công ước Viên 1969
trong ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam thời kỳ chưa gia
nhập công ước này.
Song hiệu lực thi hành của điều ước quốc tế không phải là vô thời hạn
trong mọi trường hợp, vì quan hệ quốc tế luôn thay đổi và luôn đòi hỏi có sự
phù hợp của quy định pháp luật với thực tiễn phát sinh. Do đó, điều ước nào
cũng đều có ghi nhận cụ thể việc chấm dứt và các điều kiện, thời hạn chấm

dứt hiệu lực của điều ước (như hết thời hạn có hiệu lực theo qui định; hủy bỏ
điều ước đã được hoàn thành; bãi bỏ điều ước phù hợp với qui định của điều
ước,...). Tại các điều khoản tương ứng trong Công ước Viên 1969 đều thể hiện
nội dung tư tưởng này(1). Tuy nhiên, vấn đề chấm dứt hiệu lực điều ước trong
một số trường hợp lại hết sức phức tạp và luôn dẫn đến xung đột, va chạm giữa
các quốc gia thành viên khi họ xuất phát từ quyền lợi, lợi ích riêng của mình.
Trong số này, vấn đề xuất hiện các hoàn cảnh đặc biệt có thể cho phép biện
minh cho hành vi tuyên bố đơn phương chấm dứt hiệu lực của Điều ước quốc
tế là một ví dụ(2). Đây là vấn đề cực kì nhạy cảm, bởi vì khả năng các quốc gia
lạm dụng các hoàn cảnh đặc biệt này nhằm lẩn tránh nghĩa vụ thực thi Điều
ước quốc tế là rất lớn, làm cho nguyên tắc Pacta Sunt Servanda sẽ bị xâm
phạm. Công ước Viên đã đề cập khá cụ thể trường hợp "sự thay đổi cơ bản các
hoàn cảnh", hay còn được gọi tên bằng thuật ngữ la tinh - clausula rebus sic
stantibus. Điều 62 Công ước Viên 1969 cho phép sự thay đổi cơ bản các hoàn
cảnh tồn tại vào lúc ký kết Điều ước quốc tế là cơ sở để các quốc gia thành
viên viện dẫn nhằm chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước, nếu:
-

Sự tồn tại của những hoàn cảnh này là cơ sở chủ yếu để các quốc gia

thành viên chấp nhận sự ràng buộc của điều ước và
(1) Xem thêm các điểu từ 54 đến 59 Công ước Viên 1969.
(2) Xem thêm Điều'6 2 Công ước Viên 1969.

20


Tác động của thay đổi đó làm biến đổi cơ bản phạm vi nghĩa vụ phải
thực hiện theo điều ước. Như vậy, Công ước Viên 1969 công nhận tại Điều 62,
sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh trong những điều kiện đặc biệt có thể được

coi là nguyên nhân hợp pháp chấm dứt hiệu lực của điều ước với các điều kiện
ràng buộc nêu trên.
Tuy nhiên, Clausula Rebus sic stantibus không thể được chấp nhận ngay
cả khi các điều kiện yêu cầu nêu trên được thỏa mãn, nếu sự thay đổi hoàn cảnh
liên quan đến Điều ước quốc tế về đường biên giới hoặc sự thay đổi cơ bản là
kết quả của hành vi xâm phạm cam kết quốc tế bất kì của các quốc gia viện
dẫn Rebus sic stantibus. Cần lưu ý rằng, Công ước Viên 1969 chỉ cho phép sự
thay đổi cơ bản hoàn cảnh là căn cứ để hủy bỏ Điều ước quốc tế trong các
điều kiện đặc biệt mà thôi. Ngoài ra, Công ước Viên còn qui định một thủ tục
riêng biệt cho việc chấm dứt hiệu lực Điều ước quốc tế dựa trên Clausula Rebus
sic stantibus (mục 4 Công ước Viên). Mặc dù vậy, vẫn còn đó sự hoài nghi
trong giới khoa học luật quốc tế về các qui định liên quan đến khả năng hủy
bỏ điều ước vì nguyên nhân thay đổi cơ bản các hoàn cảnh. Chính vì vậy, một
số quốc gia đã đưa ra tuyên bố bảo lưu điều khoản 62 này của Công ước Viên(1).
Trường hợp liên quan đến việc viện dẫn Điều 62 nêu trên khác với những
trường hợp xuất hiện các vấn đề bất thường, làm biến đổi tình trạng quan hệ
chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa... giữa các quốc gia và qua đó ảnh
hưởng đến các điều ước quốc tế tương ứng. Chẳng hạn, về việc chấm dứt quan
hệ ngoại giao hoặc quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia thành viên của một điều
ước, Công ước Viên khẳng định, không làm ảnh hưởng đến quan hệ pháp lý
do điều ước đặt ra giữa các quốc gia này, trừ khi việc tồn tại của các quan hệ
ngoại giao - lãnh sự này ở một mức độ nhất định là không thể thiếu để thi
hành điều ước. Theo điều này, sự kiện quốc tế cắt đứt quan hộ ngoại giao lãnh sự không hề làm suy giảm hay loại bỏ hiệu lực của điều ước giữa các quốc
gia hữu quan. Trong vấn đề này có một ngoại lệ: Việc chấm dứt quan hệ ngoại
giao - lãnh sự sẽ có tác động quan trọng đến hiệu lực của điều ước, nếu quan hệ
ngoại giao - lãnh sự là cơ sở không thể thiếu cho việc thi hành điều ước giữa các
bên. Tại Điều 7 công ước qui định: Việc chấm dứt quan hệ ngoại giao - lãnh
sự không cản trở được việc các quốc gia kí kết điều ước quốc tế và ngược lại.
(1) Như trường hợp cùa Argentina.


21


×