BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
SOUKPHANSA SOMPHAVONG
CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
SOUKPHANSA SOMPHAVONG
CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành:
Luật Quốc tế
Mã số:
60380108
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CHU MẠNH HÙNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo Trường Đại
học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật
Quốc tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng
viên chính, TS. Chu Mạnh Hùng, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
SOUKPHANSA SOMPHAVONG
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
SOUKPHANSA SOMPHAVONG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND: Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
QĐ- TT: Quyết định Thủ tướng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ....................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài............................................................. 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài .................................... 3
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ............................................. 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .................................................... 4
7. Cơ cấu của luận văn ......................................................................................... 4
Chƣơng 1: QUYỀN TRẺ EM VÀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN
TRẺ EM .............................................................................................................. 5
1.1. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em ............................................................... 5
1.1.1. Khái niệm trẻ em. ....................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em ............................................................................. 8
1.1.3. Quyền trẻ em trong mối quan hệ với quyền phụ nữ................................. 12
1.2 Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ............................................................ 14
1.3 Vai trò của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ........................................ 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................. 19
Chƣơng 2: CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ......................................................................... 20
2.1. Pháp luật CHDCND Lào về bảo vệ quyền trẻ em ...................................... 21
2.1.1. Quy định của pháp luật về quyền sống của trẻ em .................................. 21
2.1.2. Quy định của pháp luật về quyền được bảo vệ ........................................ 25
2.1.3. Quy định của pháp luật về quyền được tham gia .................................... 30
2.1.4. Quy định của pháp luật về quyền được phát triển ................................... 32
2.2 Các thiết chế bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào ................................... 35
2.2.1. Gia đình .................................................................................................... 35
2.2.2. Nhà trường ............................................................................................... 38
2.2.3. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước ....................................................... 41
2.2.4. Các tổ chức xã hội.................................................................................... 44
2.3. Hoạt động của các tổ chức quốc tế về quyền trẻ em ở CHDCND Lào .... 47
2.4. Thực hiện các cam kết quốc tế về quyền trẻ em ở CHDCND Lào ............. 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................. 55
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ
PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO .......................................................................................................... 57
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào về bảo vệ quyền trẻ em
và việc nâng cao hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em .................. 57
3.2 Các giải pháp ................................................................................................ 59
3.2.1. Các giải pháp chung ................................................................................ 59
3.2.2. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo vệ
quyền trẻ em ở CHDCND Lào trong thời gian tới ............................................ 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................. 67
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 71
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền con người là kết quả của quá trình đấu tranh rất lâu dài, gian khổ và
tiến bộ của toàn thể nhân loại nhằm chống lại những áp bức, những bất công
trong xã hội nhằm đem lại cuộc sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho mọi
người. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế - quốc tế, Đảng và Nhà nước
CHDCND Lào luôn nhất quán quan điểm coi con người là vị trí trung tâm của
các chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; là nhân tố quan trọng góp
phần phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay ở Lào. Tại Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X ngày 20 tháng 1 năm 2016 của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã nêu rõ:
“Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích cho nhân dân. Đồng thời, phải
tôn trọng và thực hiện các Điều ước mà CHDCND Lào đã ký kết , tham gia về
quyền con người”. Có thể nói, đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để thực hiện
trong thực tế nhằm bảo vệ và thức đẩy các quyền của con người và bảo vệ quyền
trẻ em nói riêng trên đất nước Lào.
Mặc dù không phải là quốc gia đầu tiên ở Châu Á tham gia Phê chuẩn Công
ước quốc tế về Quyền trẻ em nhưng CHDCND Lào luôn tôn trọng, bảo vệ quyền
trẻ em, phối hợp với các quốc gia láng giềng trong việc bảo vệ quyền của trẻ em.
CHDCND Lào đã tham gia ký Công ước về quyền trẻ em và phê chuẩn Công
nước này vào ngày 17 tháng 6 năm 1991; ngoài ra, CHDCND Lào tham gia Hội
nghị thượng đỉnh thế giới vì trẻ em và đã ký Tuyên bố thế giới vì sự sống còn,
bảo vệ và phát triển của trẻ em. Việc tham gia các công ước quốc tế về quyền trẻ
em một trong những cơ sở pháp lý rất quan trọng trong hoạt động bảo vệ quyền
trẻ em ở Lào hiện nay.
Hiện nay, ở CHDCND Lào, việc đảm bảo và thực hiện các quyền liên quan
đến trẻ em còn nhiều hạn chế. Theo đó, tại những văn bản pháp luật, các quy
định nhằm bảo vệ quyền trẻ em còn chưa được quy định đầy đủ, chưa bảo vệ
1
được quyền của trẻ em. Ngoài ra, trong đời sống thực tiễn còn rất nhiều trẻ em ở
vùng sâu, vùng xa, những trẻ em ở khu vực nông thôn và miền núi có địa hình
khó khăn vẫn đang phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, chưa được hưởng
đầy đủ các quyền mà các em có. Do vậy, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm góp phần đảm bảo quyền của
trẻ em ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã chọn đề tài: “Cơ
chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền con
người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ở CHDCND Lào có rất nhiều công
trình nghiên cứu như:
Xổm Thong ViLay Phon, “Một số quyền cơ bản của trẻ em theo quy định
của pháp luật Cộng hòa DCND Lào”, Tạp chí Kiểm sát Lào, số 7 năm 2015;
Sina Yayongyear, “Quyền phụ nữ trong pháp luật quốc tế và pháp luật Lào”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2011; Thảo
Vân, “Tăng cường hợp tác khu vực trong phòng chống bóc lột tình dục trẻ em”,
Tạp chí Gia đình và trẻ em, số 4/ 2016; Nguyễn Đình Cử, “Cộng hòa DCND
Lào: tài nguyên con người - Khâu đột phá để phát triển”, Tạp chí Cộng sản,
2012; Lê Hòa, “Phát triển văn hóa và con người ở Cộng hòa DCND Lào”, Tạp
chí văn học nghệ thuật, số 393, tháng 3/2017; Somikhit, “Tăng cường hợp tác
khu vực trong phòng chống bóc lột tình dục trẻ em”, Tạp chí Gia đình và trẻ em,
số 3/ 2016; Thanousay Lommysay, “Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em theo Luật
Lao động Lào”, Tạp chí Gia đình và trẻ em, số 5/2014…
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện
cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào. Do vậy, nghiên cứu đề tài:
“Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện
nay” là việc làm hết sức cần thiết nhằm đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào trong giai
đoạn hiện nay.
2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ chế pháp lý bảo vệ quyền
trẻ em ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tập trung chủ yếu vào vấn đề lý
luận về quyền trẻ em. Bao gồm: khái niệm trẻ em và quyền trẻ em; quyền trẻ em
trong mối quan hệ với quyền phụ nữ; khái niệm cơ chế pháp lý về quyền trẻ em
và vai trò của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em. Sau đó, luận văn phân tích
các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em, bao gồm: quy định của pháp luật về bảo
vệ quyền trẻ em; các thiết chế bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào; các hoạt
động của cá tổ chức quốc tế về quyền trẻ em ở CHDCND Lào; việc thực hiện
các cam kết quốc tế về quyền trẻ em ở CHDCND Lào.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận: Tác giả nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu
như: hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở Lào.
Bao gồm, tìm hiểu các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, các thiết
chế bảo vệ quyền trẻ em, các hoạt động của các tổ chức quốc tế về quyền trẻ em
ở CHDCND Lào và hoạt động thực hiện các cam kết quốc tế về quyền trẻ em ở
CHDCND Lào hiện nay. Qua đó, tìm ra những điểm còn hạn chế để đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơ chế pháp lý bảo vệ quền trẻ em ở
CHDCND Lào trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về quyền trẻ em. Trong đó, gồm: khái
niệm trẻ em và quyền trẻ em; quyền trẻ em trong mối quan hệ với quyền phụ nữ;
cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em và vai trò của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền
trẻ em.
3
- Phân tích nội dung cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào.
Theo đó, phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em bao gồm:
quyền sống của trẻ em, quyền được bảo vệ, quyền được tham gia, quyền được
phát triển. Phân tích các thiết chế bảo vệ quyền trẻ em, bao gồm các thiết chế
như: gia đình, nhà trường, các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các tổ chức xã
hội. Đồng thời, tác giả còn phân tích hoạt động của các tổ chức quốc tế về quyền
trẻ em ở CHDCND Lào và hoạt động thực hiện các cam kết quốc tế về quyền trẻ
em ở CHDCND Lào.
- Trên cơ sở đó, tác giả tìm hiểu quan điểm của Đảng và Nhà nước
CHDCND Lào về bảo vệ quyền trẻ em và việc nâng cao hiệu quả của cơ chế
pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào. Đồng thời, đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND
Lào trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Qua việc nghiên cứu, phân tích các quy định về cơ chế pháp lý bảo vệ
quyền trẻ em ở CHDCND Lào, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ nội dung các
qu định về cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào. Đồng thời, tạo
ra khả năng ứng dụng những kết quả nghiên cứu nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý
về bảo vệ quyền trẻ em ở CHDCND Lào theo xu hướng chung của thế giới. Ở
một mức độ nhất định, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên
cứu và giảng dạy cũng như sinh viên trong lĩnh vực luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng viết tắt,
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Qyền trẻ em và cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em
Chương 2: Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân
Lào.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo
vệ quyền trẻ em ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
4
Chƣơng 1:
QUYỀN TRẺ EM VÀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.1. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em
1.1.1. Khái niệm trẻ em.
“Trẻ em” là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong đời sống hằng ngày và
trong nghiên cứu khoa học. Bởi, đó là thuật ngữ có vai trò rất lớn đối với hoạt
động bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Nghiên cứu về thuật ngữ “trẻ em” có rất nhiều
quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học ở những góc độ không giống nhau.
Bên cạnh đó, các quốc gia trên thế giới cũng có quan niệm khác nhau về trẻ em,
cụ thể:
Dưới góc độ xã hội học, “trẻ em” được định nghĩa đó là một bộ phận của cơ
cấu xã hội. Theo đó, dựa vào tiêu chí đặc điểm nhân khẩu, kết cấu xã hội thì
được chia là nam và nữ, người già và người trẻ; người lớn và trẻ em, trình độ
dân trí cao hay thấp. Như vậy, với góc độ nghiên cứu này, kết cấu xã hội được
phân chia căn cứ vào giới tính, trình độ văn hóa và mức độ đóng góp cho xã hội.
Hay dưới góc độ tâm lý học, việc xác định trẻ em được căn cứ vào độ tuổi
và yếu tố tâm lý trong từng giai đoạn phát triển. Đây là cách phân chia giai đoạn
phát triển của trẻ em được coi là thống nhất của các nhà tâm lý học trẻ em trên
thế giới. Theo đó, giai đoạn phát triển của trẻ em được chia theo từng giai đoạn
như sau:
Gia đoạn từ 0 - 1.5 tuổi. Giai đoạn này được coi là giai đoạn trẻ em được
đáp ứng mọi nhu cầu, cần được chăm sóc bởi người mẹ. Trong giai đoạn này, trẻ
em đã cảm nhận được và dần dần có niềm tin vào thế giới xung quanh;
Giai đoạn từ 1.5 - 3 tuổi. Giai đoạn này trẻ em bắt đầu đi và tự định hướng
cho mình, hình thành sự tự chủ và muốn tỏ ra độc lập;
Giai đoạn từ 3 - 6 tuổi. Trong giai đoạn này trẻ em ở độ tuổi hình thành
năng lực làm chủ những sự lựa chọn mới, tình cảm của trẻ em trong độ tuổi này
dễ yêu, dễ giận. Đồng thời, với khả năng thực hiện phẩm chất tự chủ thì trẻ em
đã có ý thức hình thành cá tính và đã biết lựa chọn, chủ động sáng tạo trong các
tình huống;
5
Giai đoạn từ 6 - 12 tuổi. Giai đoạn này trẻ em có cảm giác thích sẵn sàng
học nhiều cái mới và bắt đầu đến trường. Trong giai đoạn này, thái độ của người
lớn và môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của trẻ em;
Giai đoạn từ 13 - 18 tuổi. Đây là giai đoạn chưa thành niên nhưng ý thức về
mình bắt đầu được hình thành. Trong giai đoạn này trẻ em thường cố khẳng định
mình là một người độc lập, sẵn sàng hành động như người lớn.
Như vậy, qua việc phân chia các giai đoạn phát triển của trẻ em căn cứ vào
sự phát triển của thể chất, trí tuệ, tâm lý như trên đã giúp cho cha mẹ, nhà trường
và xã hội có thể hiểu rõ hơn về trẻ em nhằm có những biện pháp giáo dục cho
phù hợp. Do vậy, theo các nhà tâm lý học, giai đoạn kết thúc của trẻ em là ở độ
tuổi 18. Bởi, đối với độ tuổi này thì trẻ em đã có sự phát triển đầy đủ về thể chất,
trí tuệ, tâm hồn và đã bắt đầu làm chủ được những suy nghĩ của mình nhằm phù
hợp với những hành vi xử sự của xã hội, đạo đức và pháp luật của Nhà nước.
Dưới góc độ pháp lý, quan điểm “trẻ em” được hiểu đó là những người
chưa trưởng thành và có thời điểm bắt đầu là khi sinh ra và có giai đoạn kết thúc
là dưới 18 tuổi.
Như vậy, dưới góc độ tâm lý hoặc pháp lý thì tuổi 18 vẫn được coi là hình
thức tiêu chuẩn của trẻ em. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý thì việc tiếp cận trẻ
em với tư cách là chủ thể có địa vị pháp lý, là con người, được hưởng quyền như
con người; có bổn phận và là đối tượng bảo vệ của pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia. Đối với quốc gia, trẻ em được coi là công dân của quốc gia và
được pháp luật quốc gia giới hạn tuổi, việc xác lập địa vị pháp lý trẻ em thường
được dựa vào những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của từng
quốc gia. Do đó, giới hạn tuổi và địa vị pháp lý của trẻ em ở các quốc gia khác
nhau cũng sẽ không giống nhau. Đây là một thực tế khách quan, bởi điều đó phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia.
Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 có quy định: “trẻ em do còn non
nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự
bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Quy định này
6
chúng ta có thể thấy, Tuyên ngôn đã xác định lúc bắt đầu của trẻ em khi còn là
bào thai trong bụng mẹ và được bảo vệ về mặt pháp lý. Tuy nhiên, theo pháp
luật quốc tế đây là Tuyên ngôn mang tính chất khuyến nghị đối với các quốc gia
trên thế giới và không có tính chất ràng buộc. Do vậy, pháp luật quốc gia không
bị ràng buộc bởi quy định của Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959.
Tuy nhiên, theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 thì trẻ em chính thức
có quyền và được bảo vệ từ thời điểm sinh ra với quyền được đăng ký khai sinh.
Theo đó, Điều 17 của Công ước quy định như sau: “1. Trẻ em phải được đăng
ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ
khi chào đời, và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình và được
cha mẹ mình chăm sóc. 2. Các Quốc gia thành viên phải bảo đảm việc thực hiện
những quyền đó phù hợp với pháp luật quốc gia, với những nghĩa vụ của họ
theo các văn kiện quốc tế có liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt trong trường
hợp mà nếu không làm như thế thì đứa trẻ sẽ không có quốc tịch”. Như vậy,
theo quy định trên, quyền khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng định mỗi trẻ em
là một cá nhân riêng biệt trong xã hội. Xét về mặt pháp lý thì thời điểm bắt đầu
của trẻ em được xác định theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cũng giống
với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, sau khi ra đời, trẻ em được chăm
sóc, nuôi dưỡng, được pháp luật bảo vệ và trong từng giai đoạn phát triển: Trẻ
sơ sinh, Nhi đồng, Thiếu niên, Vị thành niên. Trẻ sơ sinh được hiểu đó là những
đứa trẻ ở giai đoạn đầu tiên sau khi được sinh ra và còn non nớt về nhiều
phương diện; Nhi đồng được hiểu đó là trẻ em ở trong độ tuổi từ 4 đến 10 tuổi,
thuật ngữ này được đề cập đến trong Năm quốc tế của giới trẻ năm 1985; Thiếu
niên được hiểu là trẻ em ở độ tuổi từ 10 đến 14 tuổi; Vị thành niên được hiểu là
những người dưới 18 tuổi, cách hiểu này được ghi nhận tại Quy tắc tối thiểu của
Liên hợp quốc về bảo vệ quyền tự do không bị tước đoạt của trẻ em vị thành
niên. Như vậy chúng ta có thể thấy, Liên hợp quốc đã đặt trẻ em trong đối tượng
bảo vệ của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với vai trò bảo vệ quyền của
trẻ em và người thành niên trong cuộc sống hằng ngày ở gia đình và xã hội cũng
như quyền của trẻ em khi vi phạm pháp luật. Bởi, trẻ em là những người chưa
7
trưởng thành do đó trẻ em không thể tự quyết định và hành động các công việc
đạt hiệu quả cao.
Đối với thời điểm kết thúc gia đoạn của trẻ em. Đây là vấn đề mà pháp luật
của các quốc gia có quy định khác nhau, bởi lẽ do quan niệm của các quốc gia
về sự phát triển thể chất, trí tuệ và năng lực của trẻ em khi tham gia các quan hệ
pháp luật không giống nhau. Tuy nhiên, đa số pháp luật các quốc gia quy định
tuổi kết thúc của giáo dục bắt buộc của trẻ em là 14 và giới hạn độ tuổi pháp lý
tối thiểu cho việc kết hôn của trẻ em; tuổi 15 là tuổi trẻ em được tham gia vào
các quan hệ pháp luật lao động theo quy định của Tổ chức Lao động quốc tế. Ở
CHDCND Lào, Luật Giáo dục Lào năm 2015 quy định tuổi kết thúc của giáo
dục là 15 tuổi; còn theo quy định của Luật Lao động Lào năm 2013 thì tuổi
tham gia quan hệ lao động của trẻ em là 14 tuổi. Như vậy, theo quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia thì trẻ em được tham gia một số quan hệ
pháp luật nhưng để tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật với tư cách là
người có đầy đủ năng lực hành vi thì các quốc gia quy định không giống nhau.
Tại Điều 1 Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 quy định như sau: “trẻ em là
những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quy định tuổi trưởng thành
sớm hơn”. Qua quy định này chúng ta có thể hiểu, mặc dù pháp luật của các
quốc gia có quy định về trẻ em là khác nhau nhưng tựu chung lại là trường hợp
những người dưới 18 tuổi, trừ những trường hợp ngoại lệ như pháp luật quy
định tuổi trưởng thành sớm hơn. Như vậy, pháp luật quốc tế định nghĩa quyền
trẻ em là kết quả của sự thỏa thuận đó là nhận tố quyết định, gắn chặt quyền của
trẻ em và những bù đắp về pháp luật có thể sử dụng được cho trẻ em với tư cách
họ là một bộ phận không thể thiếu trong xã hội.
1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em đã được các quốc gia và cộng đồng quốc tế công nhận tại các
văn kiện pháp lý quốc tế. Tuy nhiên, khái niệm quyền trẻ em thường không
giống nhau. Cụ thể:
Dưới góc độ tình thương, trẻ em được coi như là những công dân phải được
hưởng tình thương của xã hội và luôn được hưởng những hành động nhân ái,
8
kêu gọi ý thức trách nhiệm và bảo vệ khi bị đói nghèo, bệnh tật. Tuy nhiên,
những hành động này không mang tính thường xuyên, liên tục. Do đó, trẻ em
mặc dù là những chủ thể được hưởng sự ưu ái của xã hội nhưng thường mang
tính thụ động, phụ thuộc vào những người lớn tuổi và xã hội. Đồng thời, nếu
hiểu theo cách này thì những nguyên nhân ảnh hưởng đến cuộc sống của trẻ em
và những giải pháp để giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em không được đề
cập đến.
Dưới góc độ nhân đạo, trẻ em được hiểu là đối tượng cần phải bảo vệ, đặc
biệt khi trẻ em rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm. Với cách hiểu này, quan niệm trẻ
em có phần giống quan điểm ở góc độ tình thương bởi đây là những quan niệm
giải quyết trong trường hợp khẩn cấp, nhằm giúp trẻ em không bị nguy hiểm,
chấm dứt tức thời những nỗi đau trong cuộc sống mà trẻ em phải gánh chịu.
Còn đối với quan niệm phát triển thì cho rằng: trẻ em có các điều kiện thích
hợp để có thể phát triển và trưởng thành, trở thành những công dân có ích cho xã
hội, có năng lực phục vụ nhu cầu phát triển của đời sống, xã hội ngày nay. So
sánh với những quan điểm trên chúng ta có thể thấy điểm khác biệt và đó cũng
chính là điểm tích cực mà quan điểm này đã chỉ ra đó là: cần phải có và phải tạo
điều kiện, tạo môi trường cho sự phát triển của trẻ em để trẻ em có thể phát huy
hết các khả năng của mình.
Tuy nhiên, với cách tiếp cận của sự sống còn và phát triển thì quyền trẻ em
bao gồm các yếu tố nhân đạo và các quan niệm phát triển. Như vậy, qua việc
phân tích trên chúng ta có thể thấy: mặc dù được tiếp cận ở những góc độ khác
nhau nhưng mỗi cách tiếp cận đều có những yếu tố hợp lý. Cụ thể, với cách tiếp
cận tình thương và nhân đạo thì đã phản ánh giá trị nhân văn của xã hội loài
người, đây là mối quan hệ thể hiện tình thương giữa con người với con người, là
sư ưu ái của những người lớn tuổi giành cho trẻ em vì trẻ em là đối tượng cần
phải được bảo vệ. Trong cuộc sống thì quan niệm này có vai trò rất quan trọng,
tuy nhiên quan niệm này chưa làm rõ được tính tích cực của chủ thể cần bảo vệ
mà chỉ nhìn nhận được trẻ em là những chủ thể chủ động tiếp nhận tình thương
từ người lớn giành cho.
9
Với quan niệm sống còn và phát triển thì thể hiện sự tích cực và hợp lý hơn.
Bởi lẽ, trẻ em trước tiên cần phải có sự sống còn và sự sống còn của trẻ em đó là
cơ sở để trẻ em phát triển, trưởng thành. Quan niệm này đã chỉ ra được cách
thức cho sự phát triển của trẻ em, nhìn nhận trẻ em là những chủ thể tích cực
trong việc hưởng quyền lợi. Tuy nhiên, quan điểm này cũng tồn tại một số hạn
chế đó là; xem xét quyền của trẻ em từ nhu cầu của người lớn tuổi và hướng sự
phát triển của trẻ em theo nhu cầu đó.
Theo tác giả luận văn, trẻ em là lứa tuổi dễ bị tổn thương trong xã hội vì
chưa đủ năng lực hành vi, yếu ớt về thể chất và cần phải được bảo vệ thông qua
các cách tiếp cận khác nhau. Bởi, đa số trẻ em thường hạn chế tính độc lập như
người lớn tuổi và ít có khả năng, có cơ hội để quyết định những vấn đề ảnh
hưởng đến cuộc sống, tâm lý. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò tích cực
của trẻ em trong xã hội trong việc thể hiện năng lực và giá trị.
Với những cách tiếp cận khác nhau, dưới góc độ luật pháp quốc tế, việc đưa
ra quan điểm về quyền trẻ em được xem xét thông qua bản chất và nội dung của
quyền trẻ em. Theo đó, quyền con người là yếu tố cấu thành bản chất của con
người, do vậy mọi người đều có quyền giống nhau. Vì thế, quyền con người
không chỉ giành cho người lớn do quan điểm quyền trẻ em cũng là quyền con
người từ thực tế khách quan đó là: trẻ em cũng là con người, là thành viên của
xã hội là công dân của quốc gia nên có quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người,
của công dân.
Trong giai đoạn phát triển đặc biệt của con người - giai đoạn tuổi thơ thì trẻ
em cần có sự quan tâm, chăm sóc và hỗ trợ rất lớn từ những người thân xung
quanh. Xét về góc độ quyền con người, quan niệm này được hiểu đó là việc bảo
đảm các quyền con người của trẻ em trên thực tế phải dựa vào các đặc điểm và
nhu cầu phát triển của trẻ em. Bởi, trẻ em là công dân đặc biệt trong xã hội nên
đặc điểm nổi bật của quyền trẻ em là bản thân trẻ em chưa thể tự thực hiện và
bảo vệ quyền lợi của mình, sống chủ yếu phụ thuộc vào người lớn. Do vậy, gia
đình và xã hội phải tạo những điều kiện tốt nhất để bảo vệ trẻ em. Hơn nữa, trẻ
10
em còn có một số quyền đặc thù khác so với người lớn tuổi, ví dụ như: không
được áp dụng mức hình phạt cao nhất đối với trẻ em hoặc so với người lớn thì trẻ
em có các quyền như quyền được học tập và được bảo vệ đặc biệt. Do vậy, quyền
của trẻ em thường được quy định riêng trong các văn bản pháp luật quốc tế.
Mặc dù, trẻ em được hưởng các quyền con người nhưng do yếu tố thể chất,
trí tuệ và năng lực hành vi của trẻ em chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện nên
trẻ em chưa được hưởng đầy đủ các quyền của con người như: quyền tham gia
ứng cử, bầu cử hay quyền đăng ký kết hôn. Giới hạn này không phải là xự phân
biệt đối xử giữa trẻ em và người lớn, mà giới hạn này xuất phát từ những
nguyên nhân khách quan về thể chất và tinh thần của trẻ em, bên cạnh đó giới
hạn này còn nhằm đảm bảo cho sự phát triển đầy đủ, toàn diện của trẻ em cũng
như sự vận động của toàn xã hội. Như vậy, qua việc phân tích trên chúng ta có
thể thấy: bản chất quyền của trẻ em đó là quyền của con người, quyền này được
cụ thể hóa nhằm phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển của trẻ em.
Tuy nhiên, xét về mặt nội dung, nếu xem xét quyền của trẻ em gắn liền với
bối cảnh nền chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia trên thế giới
thì chúng ta có thể thấy mức độ quan tâm đến trẻ em ngày càng tăng dần lên và
thường gắn với các cách thức xã hội thể hiện quan tiểm về trẻ em và những kết
quả của sự tác động giữa các lực lượng chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia.
Hiện nay, quan điểm về quyền của trẻ em xuất phát từ những nhận thức như: trẻ
em có sự đóng góp vào việc tái tạo xã hội, đặc biệt là mặt sinh học, tổ chức và
văn hóa. Do vậy, trẻ em có yêu cầu chính đang được chia sẻ với người lớn trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Trẻ em là tương lai của nhân loại. Việc
quy định quyền trẻ em nhằm mục đích đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người
tiếp thu thụ động của người lớn mà phải trở thành những chủ thể của quyền, có
khả năng tạo dựng cuộc sống.
Qua việc phân tích ở trên, xuất phát từ bản chất và nội dung chúng ta có thể
hiểu quyền trẻ em như sau: quyền trẻ em là tất cả những quyền để trẻ em được
sống và phát triển lành mạnh và an toàn được ghi nhận và bảo đảm bằng hệ
11
thống pháp luật. Với cách hiểu này, khái niệm quyền trẻ em đã bảo quát được
các khía cạnh quan trọng liên quan đến quyền trẻ em. Cụ thể:
Một là, trẻ em là nhóm xã hội dễ bị tổn thương và được cộng đồng xã hội,
pháp luật bảo vệ. Do vậy, những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến trẻ em và có
những giải pháp nào tốt nhất nhằm đảm bảo thực hiện quyền của trẻ em sẽ được
xã hội, pháp luật xem xét và ghi nhận nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho trẻ em.
Hai là, trẻ em luôn được gia đình, xã hội chăm sóc, nuôi dưỡng và tạo mọi
điều kiện tốt nhất để phát triển. Đặc biệt, dưới góc độ pháp lý thì việc tiếp cận
đối với trẻ em thì phải dựa trên cơ sở quyền của trẻ em.
Ba là, nhằm đảm bảo quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em được sống và phát
triển một cách an toàn, lành mạnh thì luôn phải có cơ chế pháp lý trên phương
diện quốc gia và quốc tế. Bởi, quyền trẻ em luôn được cộng đồng quốc tế thừa
nhận, tuy nhiên việc thực hiện nhằm đảm bảo quyền của trẻ em lại diễn ra tại
nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Do đó, cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ
em ở từng quốc gia cũng luôn phải phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa của mỗi quốc gia.
1.1.3. Quyền trẻ em trong mối quan hệ với quyền phụ nữ
Giống như trẻ em, phụ nữ là một trong những nhóm xã hội dễ bị tổn
thương, tuy nhiên quyền của người phụ nữ không được quan tâm trong suốt thời
gian dài của lịch sử. Bởi, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, do quan niệm xã
hội nên địa vị của người phụ nữ luôn thấp hơn so với nam giới vì lý do họ là phụ
nữ, không làm chủ và làm được những việc lớn trong gia đình, xã hội. Tuy
nhiên, ngày nay xã hội ngày càng phát triển hiện đại, địa vị pháp lý của phụ nữ
không ngừng được nâng cao và đã được đảm bảo bằng cơ sở pháp lý, đó là các
quy định của pháp luật.
Ngoài điểm giống nhau là cùng nhóm xã hội dễ bị tổn thương, phụ nữ và trẻ
em còn có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau về nhiều mặt. Cụ thể như sau:
Một là, trong Công ước về quyền trẻ em, trẻ em được hiểu là những người
dưới 18 tuổi. Với cách hiểu này thì phạm vi những người được coi là trẻ em bao
12
gồm cả trẻ em trai và trẻ em gái. Đối với trẻ em gái thì ngoài những đặc trưng
yếu ớt về thể chất, tinh thần chưa phát triển hoàn thiện còn mang đặc trưng riêng
về Giới và Giới tính của phụ nữ. Giới tính có thể hiểu đó là khái niệm nhằm chỉ
sự khác biệt về y - sinh học giữa nam và nữ. Còn Giới là khái niệm thể hiện mối
quan hệ tương quan về địa vị giữa nam giới và nữ giới trong bối cảnh xã hội cụ
thể. Do vậy, trẻ em gái đồng thời phải được bảo đảm cả về quyền của trẻ em và
cả về quyền bình đẳng của phụ nữ.
Hai là, sinh sản là chức năng của người phụ nữ. Tuy nhiên nếu trong thời
gian mang thai, người mẹ không được đảm bảo các quyền con người về chăm
sóc các dịch vụ y tế; thời gian làm việc, nghỉ ngơi trong lao động hay về chế độ
dinh dưỡng trong ăn uống… thì trẻ em được sinh ra khó có thể phát triển bình
thường và khỏe mạnh trong cuộc sống. Bởi, các nghiên cứu khoa học đã từng
chỉ ra rằng: nếu xét tổng quát những người mẹ có việc làm và thu nhập ổn định,
trình độ văn hóa cao thì sẽ chăm sóc con cái tốt hơn các bà mẹ có trình độ văn
hóa thấp và điều kiện kinh tế khó khăn.
Ba là, vì trẻ em là những thực thể còn non nớt về cả thể chất và tinh thần
nên trẻ em chưa thể tự tạo lập cuộc sống riêng và tự bảo vệ mình trong mọi tình
huống, đặc biệt là trẻ em tuổi còn nhỏ. Do vậy, sự sống còn phát triển của trẻ em
phụ thuộc rất lớn và sự chăm sóc của nhà nước, gia đình, nhà trường, các cơ
quan chức năng có thẩm quyền, đặc biệt là người mẹ.
Như vậy, qua việc phân tích trên chúng ta có thể thấy khẳng định quyền trẻ
em trong mối quan hệ với quyền phụ nữ có mối quan hệ khá chặt chẽ, không thể
tách rời. Bởi lẽ, không thể bảo đảm các quyền của trẻ em một cách toàn diện và
hiệu quả nếu như không đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ. Đây còn là cơ sở
cho mối quan hệ giữa Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 và Công ước
về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979. Bởi, hai
Công ước này là công cụ pháp lý quốc tế rất quan trọng nhằm góp phần bảo vệ
và thúc đẩy các quyền con người của trẻ em và phụ nữ.
13
1.2 Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em
Quyền trẻ em là một trong những loại quyền rất quan trọng cần được xã hội
bảo vệ, bởi đó là quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Mặt khác, bản thân
lứa tuổi của trẻ em chưa có đủ khả năng để có thể thực hiện tất cả các quyền của
mình, do vậy quá trình thực hiện quyền trẻ em phụ thuộc rất nhiều vào các yếu
tố khác như: các quy định của pháp luật, các cơ chế đảm bảo thực hiện hay mức
quan tâm của xã hội… Do đó, để đảm bảo cho quyền của trẻ em trở thành hiện
thực trong cuộc sống thì mỗi quốc gia cần phải có cơ chế pháp lý bảo vệ quyền
trẻ em.
“Cơ chế” là một trong những thuật ngữ thường được sử dụng rất nhiều
trong đời sống hằng ngày, đặc biệt trong nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu về
thuật ngữ “cơ chế” có rất nhiều các quan điểm khác nhau được đưa ra, bởi khi
nghiên cứu các thuật ngữ này, các nhà khoa học thường nghiên cứu ở những góc
độ không giống nhau. Cụ thể:
Trong tiếng Anh, thuật ngữ “cơ chế” - mechanism được hiểu là hệ thống
các bộ phận hoạt động cùng nhau trong một cỗ máy. Theo quan niệm khác, cơ
chế được hiểu là một quá trình tự nhiên hoặc thiết lập, nhờ quá trình đó mà một
hoạt động cụ thể nào đó được tiến hành hoặc được thực hiện. Theo Từ điển
Tiếng Lào thì thuật ngữ “cơ chế” được hiểu là cách thức thực hiện một quá trình
nào đó.
Mặc dù thuật ngữ “cơ chế” được hiểu theo nhiều cách và nhiều nghĩa không
giống nhau nhưng tựu chung lại cơ chế là cách thức tổ chức của một hệ thống cụ
thể nào đó. Qua việc phân tích trên chúng ta có thể thấy, thuật ngữ này bao gồm
hai nội dung đó là: cấu trúc của một chỉnh thể gồm nhiều bộ phân khác nhau
cùng hợp lại, có mối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức hoạt động của
chỉnh thể đó nhằm đạt được một kết quả nhất định nào đó.
Trong khoa học pháp lý quốc tế, xét về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế
và pháp luật quốc gia thì đó là hai hệ thống pháp luật độc lập và có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Theo đó, pháp luật quốc tế luôn được các chủ thể, các
14
quốc gia thực hiện trên phạm vi lãnh thổ của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua pháp luật của quốc gia.
Trong khoa học lý luận về Nhà nước và pháp luật thì pháp luật quốc gia do
chính quốc quốc gia xây dựng nhằm điểu chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm
vi lãnh thổ quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước vừa là chủ thể luật quốc gia vừa là
chủ thể ban hành luật. Do vậy, điều chỉnh pháp luật nhằm sử dụng pháp luật để
tác động vào các quan hệ xã hội một cách có hiệu quả thông qua hai phương
pháp chính đó là: mệnh lệnh - phục tùng và phối hợp bình đẳng. Như vậy, thông
qua hoạt động ban hành luật, nhà nước không chỉ là cơ quan có vai trò quan
trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật vận hành mà đó còn là cơ quan định
hướng cho các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội thực hiện pháp luật một cách
có hiệu quả.
Đối với pháp luật quốc tế, nét đặc trưng là đối tượng điều chỉnh của hệ
thống pháp luật này. Xét về hình thức, đây là quan hệ của các chủ thể pháp luật
quốc tế. Xét về nội dung, quan hệ pháp luật quốc tế được pháp luật điều chỉnh
đó là những quan hệ của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng. Do vậy, trong
pháp luật quốc tế thuật ngữ “cơ chế” được sử dụng với nhiều trường hợp khác
nhau như: cơ chế xây dựng pháp luật quốc tế, cơ chế thực hiện, cơ chế cưỡng
chế… hay trong pháp luật quốc tế về quyền trẻ em thuật ngữ “cơ chế” cũng xuất
hiện như: cơ chế quốc tế, cơ chế giám sát, cơ chế quốc gia…
Đối với thuật ngữ “cơ chế quốc tế” đó được hiểu là các quy định của pháp
luật quốc tế là các quy định của pháp luật quốc tế, các quy định này ra đời nhằm
mục đích trợ giúp và giám sát việc thực hiện cac quy định của pháp luật quốc tế
nói chung và các Điều ước quốc tế nói riêng. Trong lĩnh vực quyền trẻ em, cơ
chế quốc tế được chia thành các phần, bao gồm: cơ chế Hiến chương, cơ chế
Điều ước và cơ chế ngoài Điều ước. Còn cơ chế quốc gia chúng ta có thể hiểu
đó là cách thức quốc gia thực hiện nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ quốc tế liên
quan đến quyền trẻ em.
15
Qua việc phân tích trên chúng ta có thể thấy, thuật ngữ về “cơ chế” được sử
dụng trong pháp luật quốc tế thường liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau
trong hoạt động xây dựng, thực hiện và cưỡng chế của pháp luật quốc tế hoặc
quy định về tổ chức, cơ cấu, chức năng của các thiết chế. Quyền con người nói
chung và quyền của trẻ em nói riêng là vấn đề rất quan trọng, liên quan đến
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, do đó cần phải có cơ chế pháp lý nhằm
khái quát được tất cả các yếu tố liên quan đến việc bảo vệ trẻ em, góp phần giúp
cho quyền trẻ em được bảo đảm thực hiện trên thực tiễn.
Do vậy, có thể hiểu: cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em đó là hệ thống các
nguyên tắc; các quy phạm pháp luật bao gồm: pháp luật quốc tế, pháp luật của
quốc gia; các thiết chế: thiết chế quốc tế, thiết chế quốc gia) và mối quan hệ giữa
các hệ thống này nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền của trẻ em.
Như vậy, cách hiểu này đã bao quát được các khía cạnh khác nhau của pháp
luật quốc tế trong việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền của trẻ em trên
thực tế. Đồng thời, với cách hiểu này đã chỉ ra cơ cấu của cơ chế pháp lý bảo vệ
quyền trẻ em rất chi tiết, đó là: cơ chế pháp lý quốc tế và cơ chế pháp lý quốc
gia. Cơ chế pháp lý quốc tế có thể hiểu đó là hệ thống các văn bản pháp luật
quốc tế xác lập quyền của trẻ em và nghĩa vụ của các quốc gia; các thiets chế
quốc tế ra đời nhằm góp phần giám sát và trợ giúp quá trình thực hiện quyền trẻ
em ở các quốc gia. Cơ chế pháp lý quốc gia bao gồm hệ thống pháp luật của
quốc gia liên quan đến quyền trẻ em và các thiết chế quốc gia ra đời nhằm góp
phần thực hiện quyền trẻ em được bảo đảm trên thực tế.
Mối quan hệ giữa cộng đồng quốc tế và các quốc gia trong hoạt động thúc
đẩy và bảo vệ quyền trẻ em ở mỗi quốc gia nói chung và trên thế gới nói riêng
rất chặt chẽ. Bởi, hoạt động công nhận và bảo vệ quyền trẻ em là mục tiêu của
cộng đồng quốc tế thông qua cơ chế quốc tế. Tuy nhiên, để bảo đảm và thực
hiện quyền của trẻ em có đạt hiệu quả cao hay không lại phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế- xã hội cũng như cơ chế của các quốc gia có tốt hay không ?.
16
1.3 Vai trò của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em
Quyền con người nói chung và quyền của trẻ em nói riêng luôn được xã hội
bảo vệ và ghi nhận tại các quốc gia trên thế giới từ rất sớm. Tuy nhiên, ngày nay
quyền con người và quyền của trẻ em được các quốc gia bảo vệ, ghi nhận ngày
càng chặt chẽ hơn. Hoạt động bảo đảm thực hiện trực tiếp các quyền của trẻ em
diễn ra ở từng quốc gia và điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán
tại các quốc gia có ảnh hưởng rất lớn tới tiến độ thực hiện các quyền liên quan
đến trẻ em. Do vậy, sự ràng buộc về khía cạnh pháp lý đối với các quốc gia là
một trong những yếu tố góp phần bảo đảm thực hiện tốt các quyền của trẻ em.
Và đó là vai trò của cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em. Hiện nay, cơ chế pháp
lý bảo về quyền trẻ em có vai trò rất quan trọng trong hoạt động thực hiện các
quyền của trẻ em. Cụ thể:
Một là, nếu xét về phương diện quốc tế thì cơ chế pháp lý được coi là một
trong những điều kiện thiết yếu để các quốc gia thực hiện việc hội nhập quốc tế
ở các cấp độ khác nhau. Nó dường như trở thành cầu nối cho sự hiểu biết và mối
quan hệ giữa các dân tộc của các quốc gia trên thế gới trong xu hướng toàn cầu
hóa hiện nay. Qua đó, sự khác biệt và bất bình đẳng giữa các dân tộc trong các
tiêu chí và chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em mà các quốc gia đã thỏa thuận
trong nội dung các quy phạm pháp luật quốc tế. Đồng thời, các quyền lợi riêng
biệt của các quốc gia sẽ được điều chỉnh thích hợp hơn trong tương quan với lợi
ích của cộng đồng các quốc gia trên thế giới.
Hai là, xét về phương diện quốc gia. Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em là
một trong những hoạt động pháp lý cơ bản thuộc lĩnh vực thực thi chủ quyền của
mỗi quốc gia. Do đó, cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em nói chung và cơ chế quốc
gia đều có vai trò chung là thúc đẩy quyền trẻ em ở mỗi quốc gia và trên toàn thế
giới.
Ba là, cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em là cơ sở để mỗi quốc gia phát
triển và hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật quốc gia. Những quy
định của pháp luật quốc gia liên quan đến quyền trẻ em sẽ tạo ra khung pháp
17
luật ổn định và phù hợp cho việc triển khai thực hiện các quyền trẻ em. Đồng
thời, trên cơ sở đó hệ thống thiết chế bảo vệ quyền của trẻ em được hình thành
nhằm góp phần bảo đảm cho quyền của trẻ em được thực hiện trên thực tế ngày
càng đạt kết quả cao hơn.
Như vậy, việc hình thành cơ chế pháp lý với các nguyên tắc, quy phạm
pháp luât quốc tế bảo vệ quyền trẻ em, tạo ra công cụ nhằm điều chỉnh quan hệ
quốc tế trong lĩnh vực này là rất quan trọng. Bởi, đó còn là cơ sở cho hoạt động
tổ chức và hoạt động của các thiết chế quốc tế đạt hiệu quả tốt nhằm thúc đẩy
quyền trẻ em. Trong một chừng mực nhất định, quyền trẻ em luôn gắn chặt với
quyền lợi riêng và thiết thực của từng quốc gia. Do đó, việc đảm bảo quyền trẻ em
không chỉ ràng buộc quốc gia vào các nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà đó còn xuất
phát từ chính sự sống còn và nhu cầu phát triển của từng quốc gia. Cơ chế pháp lý
bảo vệ quyền trẻ em không chỉ bảo đảm cho quyền của trẻ em được thực hiện mà
đó còn là cầu nối giữa các quốc gia và cộng đồng quốc tế xây dựng một thế giới
hòa bình và phát triển.
18