Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt theo pháp luật lào và việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.36 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHOULATSAMY PHOUMISAY

ĐẦU TƯ VÀO CAC KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT THEO PHÁP LUẬT
LÀO VÀ VIỆT NAM - DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHOULATSAMY PHOUMISAY

ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT THEO PHÁP LUẬT
LÀO VÀ VIỆT NAM - DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình Sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng
viên chính, PGS.TS. Trần Ngọc Dũng, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHOULATSAMY PHOUMISAY


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.

Hà Nội, ngày … tháng…. năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHOULATSAMY PHOUMISAY


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND:

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CP:

Chính phủ

KCN:

Khu công nghiệp

KKT:

Khu kinh tế

NĐ:

Nghị định

UBND:

Ủy ban nhân dân


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

WTO:

World Trade Organisation
Tổ chức Thương mại Thế giới


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................ 1
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH
TẾ ĐẶC BIỆT VÀ PHÁP LUẬT CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM VỀ ĐẦU
TƯ VÀO KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT.......................................................... 8
1.1. Khu kinh tế đặc biệt và đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt ở Lào và
Việt Nam .................................................................................................... 8
1.2. Pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt
.................................................................................................................. 17
1.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt .......................................................................... 19
1.2.2. Nội dung của pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các
khu kinh tế đặc biệt ................................................................................. 25
Chương 2 SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA LÀO VÀ VIỆT
NAM VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT .................... 27
2.1. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về chủ thể đầu tư vào các
khu kinh tế đặc biệt. ................................................................................ 27

2.2. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về cơ quan cấp giấy
chứng nhận đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt ................................... 31
2.3. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về các ưu tiên, ưu đãi cho
các dự án đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt ....................................... 35
2.4. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về các quyền và nghĩa vụ
của các nhà đầu tư khi đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt ................. 40
2.5. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về tài chính và tín dụng
đối với khu kinh tế đặc biệt..................................................................... 45
2.6. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về xuất cảnh, nhập cảnh,
đi lại và cư trú, tạm trú ở khu kinh tế đặc biệt ...................................... 47


2.7. Quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về quản lý nhà nước đối
với việc đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt .......................................... 50
2.8. Thực tiễn thi hành pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt .......................................................................... 53
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH
TẾ ĐẶC BIỆT ............................................................................................. 58
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu
tư vào các khu kinh tế đặc biệt ............................................................... 58
3.1.1. Xây dựng và ban hành Luật Khu kinh tế đặc biệt của nước
CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào ........................................ 58
3.1.2. Cải cách thủ tục hành chính, áp dụng có hiệu quả cơ chế quản lý
“ một cửa, tại chỗ ”.................................................................................. 62
3.1.3. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Ban quản lý nhà nước đối với khu
kinh tế đặc biệt ........................................................................................ 64
3.1.4. Hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước đối với các khu
kinh tế đặc biệt ........................................................................................ 66
3.1.5. Tăng cường ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư đối với các

nhà đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt ....................................................... 67
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt. ....................................................................................... 68
3.3. Các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt .......................................................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 77


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế cũng như phát triển kinh
tế - xã hội như hiện nay thì việc đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt tại các
quốc gia trên thế giới nói chung, ở CHDCND Lào và Việt Nam nói riêng, là
rất quan trọng. Trong hệ thống các quy định pháp luật có tác động đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia thì quy định của pháp luật về đầu tư
vào khu kinh tế đặc biệt là bộ phận không thể thiếu. Do đó, việc nghiên cứu
và có những thay đổi liên quan đến các quy định pháp luật về đầu tư vào khu
kinh tế đặc biệt để phù hợp với tình hình của mỗi nước góp phần cung cấp
những luận cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật về đầu tư vào khu kinh tế đặc
biệt đạt hiệu quả cao là vô cùng cần thiết.
Hiện nay, trong pháp luật về kinh tế nói chung thì pháp luật đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt được coi là phương tiện để phát huy nguồn lực của
quốc gia, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, việc đầu tư vào các
khu kinh tế đặc biệt đạt hiệu cao phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác
nhau (chủ quan và khách quan) trong đó, việc nhận thức, phát huy đúng bản
chất các quy định pháp luật là rất quan trọng. Do vậy, việc nắm vững và áp
dụng đúng đắn các quy định của pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc
biệt là một trong những yêu cầu cơ bản của hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia. Hệ thống các quy định về đầu tư vào các khu kinh tế

đặc biệt góp phần quan trọng vào việc kiến tạo một xã hội ổn định và một hệ
thống pháp luật kinh tế tốt. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt là một trong những việc làm có tính cấp thiết trong
khoa học Luật Kinh tế hiện nay.
Khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đầu tư vào các khu kinh tế đặc
biệt, không nên chỉ tìm hiểu hệ thống các quy định về đầu tư vào các khu kinh
tế đặc biệt trong phạm vi hẹp một nước mà cần tìm hiểu và chọn lọc những
kinh nghiệm của các nước khác trong việc quy định và thực tiễn áp dụng các
1


quy định về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt. Để từ đó, theo phương pháp
nghiên cứu so sánh luật, có thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư vào khu kinh tế
đặc biệt trong pháp luật kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và của
Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước.
Hơn nữa, cùng với quá trình hội nhập và phát triển đất nước, việc “thực
hiện chính sách hòa bình hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau,
trên cơ sở độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi”1 thì vấn đề
tìm hiểu một cách khoa học các quan niệm khác nhau, cũng như tăng cường
nghiên cứu, phát triển việc so sánh pháp luật của các nước trên thế giới trở
thành một vấn đề cấp thiết.
Trong lĩnh vực pháp luật nói chung và trong lĩnh vực đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt nói riêng, sự so sánh giữa pháp luật các nước sẽ giúp chúng ta
nâng cao kiến thức, nhận biết những điểm mạnh, điểm yếu trong hệ thống
pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt của mỗi nước để hoàn thiện
theo trình độ quốc tế và giữ được vai trò, bản sắc của pháp luật của Lào và
của Việt Nam.

Xuất phát từ đòi hỏi khoa học, yêu cầu thực tiễn và góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt hiện nay của Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào, tác giả chọn vấn đề: “Đầu tư vào các khu kinh tế
đặc biệt theo pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đầu tư vào khu kinh tế nói chung và đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt nói
riêng ở Việt Nam và CHDCND Lào là một trong những hoạt động kinh tế rất
1

Michael Bogdan, Vài suy nghĩ về Luật So sánh, Tạp chí Luật học, số
4/1998, tr. 17.
2


quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Do đó, việc tìm
hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư vào khu
kinh tế đặc biệt ở Việt Nam và CHDCND Lào ngày càng phổ biến. Việc
nghiên cứu này mang lại các giá trị khác nhau cho người nghiên cứu, đồng
thời còn mang lại những hiệu quả tích cực cho xã hội. Tuy vậy, cho đến nay,
việc nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư vào khu kinh tế
đặc biệt ở Việt Nam và CHDCND Lào dường như còn rất ít, chủ yếu các
công trình nghiên cứu còn mang tính chung chung về khu kinh tế đặc biệt,
chưa có nhiều công trình nghiên cứu chi tiết về pháp luật điều chỉnh hoạt
động đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt. Cụ thể, trong thời gian qua các công
trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt
được thể hiện như sau:
Ở Việt Nam có các công trình nghiên cứu như: “Cần có hành lang
pháp lý đảm bảo cho sự phát triển của Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao
Bảo” của Nguyễn Hoàn, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 10/2009, tr. 31 36; “Những thách thức của quản lý nhà nước trong phát triển các khu kinh tế

đặc biệt” của Mai Hữu Bốn, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 3/2015, tr. 42 44; “Quá trình hình thành và phát triển khu kinh tế đặc biệt cấp tỉnh ở vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam” của Mai Hữu Bốn, Tạp chí Quản lý Nhà nước,
số 250, tr. 76 -79; “Vấn đề trao quyền, phân cấp nhằm xây dựng mô hình khu
hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn và khu kinh tế cửa khẩu tự do Móng
Cái Quảng Ninh” của Đặng Thúy Đoan, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
8/2013, tr. 44 - 46; “Quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tại khu kinh
tế thương mại đặc biệt Lao Bảo”, Luận văn Thạc sỹ khoa học Kinh tế của Lê
Chí Thành, Trường Đại học Kinh tế Huế, Huế 2013; “Thương mại và đầu tư
trong tam giác phát triển kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia” của Nguyễn
Văn Hà, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, 2009…
Ở CHDCND Lào, việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư
vào các khu kinh tế đặc biệt dường như còn khá mới mẻ, do đó các công trình
3


nghiên cứu pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt còn ít, chủ yếu là
trong lĩnh vực đầu tư vào các khu kinh tế chung. Cụ thể, đã có các công trình
nghiên cứu được công bố như sau:
“Hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào”, Luận
văn Thạc sỹ của Syvanh Leemaitieeng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013;
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế CHDCND Lào”,
Luận văn Tiến sĩ của Bua của Phăm Thíp Pha Vông, Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001; “Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại CHDCND Lào”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Souliya
Pouangpadith, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội 2012; “Pháp luật về
đảm bảo đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào - Thực trạng và phương
hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Norkeo, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, 2015…
Có thể nói rằng cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách tổng thể, toàn diện từ góc độ so sánh các quy định pháp luật về hoạt

động đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt của CHDCND Lào và của Việt Nam
trong giai đoạn hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt theo pháp luật Lào
và Việt Nam dưới góc độ so sánh” là việc làm hết sức cần thiết nhằm đưa ra
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như góp phần nâng
cao hiệu quả thi hành các quy định của pháp luật của Lào và của Việt Nam về
hoạt động đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và các quy định
của pháp luật về hoạt động đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung chủ yếu vào vấn đề lý luận về
đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu
và khu công nghệ cao ở Lào và Việt Nam. Đồng thời, luận văn còn so sánh
thực trạng pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các khu kinh tế đặc
4


biệt, bao gồm các quy định về: Chủ thể đầu tư; Cơ quan cấp giấy chứng nhận
đầu tư; Các ưu tiên, ưu đãi cho các dự án đầu tư; Các quyền và nghĩa vụ của
các nhà đầu tư khi đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt; Các quy định về tài
chính, tín dụng; Vấn đề xuất cảnh, nhập cảnh, đi lại và cư trú, tạm trú của các
nhà đầu tư; Quản lý nhà nước đối với việc đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt;
Thực tiễn thi hành pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các khu kinh
tế đặc biệt.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả luận văn nghiên cứu đề tài đã chọn trên cơ sở phương pháp luận
biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Ngoài ra, tác giả luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ
thể thích hợp như: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp so sánh luật

học. Cụ thể, phương pháp hệ thống hóa được sử dụng nhiều tại chương 1
nhằm làm rõ hệ thống văn bản pháp luật của Lào và Việt Nam về hoạt động
đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt; phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
luật học và thống kê được sử dụng nhiều tại chương 2 nhằm làm rõ thực trạng
pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt; còn
phương pháp tổng hợp được sử dụng nhiều ở ba chương nhằm tổng hợp lại
các nội dung đã phân tích để làm nổi bật vấn đề.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt. Đồng thời, luận văn đề xuất những giải pháp pháp lý nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt ở
CHDCND Lào và ở Việt Nam từ kinh nghiệm thực tiễn mà Lào và Việt Nam
đã thực hiện.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt và
5


pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt;
- Phân tích, chứng minh thực trạng pháp luật của Lào và Việt Nam về
đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt. Đó là các quy định về chủ thể đầu tư; cơ
quan cấp giấy chứng nhận đầu tư; các ưu tiên, ưu đãi cho các dự án đầu tư;
quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư khi đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt
và các quy định về tài chính, tín dụng; xuất cảnh, nhập cảnh, đi lại và cư trú,
tại trú; quản lý nhà nước vào các khu kinh tế đặc biệt;
- Trình bày thực tiễn thi hành pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư
vào các khu kinh tế đặc biệt.
6. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu toàn diện của đề tài, việc nghiên cứu

của tác giả luận văn phải trả lời được những câu hỏi sau:
1) Khu kinh tế đặc biệt và đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt
Nam là gì?
2) Pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt là gì?
3) Hệ thống văn bản pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các
khu kinh tế đặc biệt được thể hiện như thế nào?
4) Nội dung của pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt bao gồm những vấn đề nào?
5) Các quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về chủ thể đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt có điểm giống và khác nhau như thế nào?
6) Cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt
được pháp luật của Lào và Việt Nam quy định có điểm giống nhau và khác
nhau như thế nào?
7) Pháp luật của Lào và Việt Nam quy định về các ưu tiên, ưu đãi, các
quyền, nghĩa vụ của các nhà đầu tư; vấn đề tài chính, tín dụng; xuất cảnh, nhập
cảnh, đi lại và cư trú, tạm trú; quản lý nhà nước đối với việc đầu tư vào cá khu
kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam giống nhau và khác nhau như thế nào?

6


8) Thực tiễn thi hành pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các
khu kinh tế đặc biệt được thể hiện như thế nào?
9) Việc hoàn thiện pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt cần phải được thực hiện theo phương hướng nào?
10) Để hoàn thiện pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt cũng
như để thực thi có hiệu quả pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt
cần phải có những giải pháp cụ thể nào?
7. Những điểm mới của luận văn
Qua việc nghiên cứu, phân tích, so sánh giữa pháp luật của CHDCND

Lào và của Việt Nam về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt, tác giả luận văn
góp phần làm sáng tỏ nội dung các quy định pháp luật về đầu tư vào khu kinh
tế đặc biệt ở mỗi nước. Đồng thời, luận văn tạo ra khả năng ứng dụng những
kết quả nghiên cứu so sánh trong việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của
Việt Nam nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống các quy định pháp luật Lào
và Việt Nam về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt theo xu hướng chung của
thế giới. Ở một mức độ nhất định, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
cán bộ nghiên cứu và giảng dạy cũng như sinh viên trong các cơ sở đào tạo
luật của Lào và Việt Nam.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt và
pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt
Chương 2. So sánh thực trạng pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư
vào các khu kinh tế đặc biệt
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật của Lào và
Việt Nam về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ
ĐẶC BIỆT VÀ PHÁP LUẬT CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM
VỀ ĐẦU TƯ VÀO KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT
1.1. Khu kinh tế đặc biệt và đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt ở Lào và
Việt Nam
Khu kinh tế đặc biệt hay còn gọi là đặc khu kinh tế (Special Economic
Zone - SEZ) là một trong những mô hình phát triển cao dựa trên mô hình khu

kinh tế cơ bản với các đặc trưng là có không gian riêng biệt, có môi trường
đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư. Đó là một đơn vị
hành chính hoặc vùng lãnh thổ của một quốc gia được thành lập ra vì mục
đích phát triển kinh tế - xã hội rõ hơn những vùng còn lại của quốc gia đó.
Thông thường, tại các quốc gia khu kinh tế đặc biệt được hiểu bao gồm các
khu như: khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu và
khu công nghệ cao.
Trong các khu kinh tế đặc biệt, các ngành nghề và doanh nghiệp hoạt
động sẽ được hưởng các chính sách pháp luật và những ưu đãi đặc biệt hơn so
với những khu vực còn lại của đất nước. Thông thường, tại các quốc gia trên
thế giới nói chung và ở Lào thì các khu kinh tế đặc biệt thường nằm trong
vùng có tiềm năng phát triển nhất của các quốc gia với mục đích gia tăng
thương mại, tăng cường đầu tư, tạo công ăn việc làm cho người lao động
trong nước và ngoài nước. Khi tham gia vào các hoạt động trong các khu kinh
tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam, các doanh nghiệp có thể được hưởng những
ưu tiên, ưu đãi thông qua các quy định pháp luật liên quan đến thuế, hạn
ngạch, lao động và những nội dung pháp luật có liên quan khác… nhằm tạo ra
hàng hóa, dịch vụ có sức cạnh cao tranh trên quy mô khu vực và toàn thế giới.
Các khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam hiện nay thường có những
đặc điểm sau đây:
Một là, về không gian. Các khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam là
8


những khu vực thường có ranh giới địa lý xác định, được phân biệt với các
vùng lãnh thổ khác và không có dân cư sinh sống. Theo đó, các khu công
nghiệp của khu kinh tế đặc biệt thường được xác định ranh giới cụ thể bằng
hệ thống hàng rào khu công nghiệp để phân biệt với các vùng còn lại của lãnh
thổ quốc gia. Trong khu kinh tế đặc biệt, mọi hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh
doanh bên trong hàng rào được điều chỉnh bằng các quy định của pháp luật

hiện hành và các quy chế pháp lý riêng. Đồng thời, các hoạt động đầu tư, sản
xuất kinh doanh trong khu kinh tế đặc biệt thường được hưởng nhiều ưu tiên,
ưu đãi của Nhà nước.
Hai là, về chức năng hoạt động của các khu kinh tế đặc biệt. Trong mỗi
khu của khu kinh tế đặc biệt có những chức năng hoạt động khác nhau. Cụ
thể, đối khu công nghiệp là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, do các tổ chức kinh tế thành
lập.
Ba là, về thủ tục thành lập. Các khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam
hiện nay không phải là những khu kinh tế do cá nhân hay tổ chức tự thành lập
mà việc thành lập các khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam phải được tiến
hành theo quy định của pháp luật dựa trên cơ sở những quy hoạch đã được
phê duyệt trước đó.
Bốn là, về đầu tư cho sản xuất. Đầu tư cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh tại các khu kinh tế đặc biệt luôn là vấn đề quan trọng và được quan tâm
khi khu kinh tế đặc biệt được xây dựng. Theo đó, các hoạt động đầu tư cho
sản xuất tại các khu kinh tế đặc biệt thường cao, do vậy năng suất, kết quả
hoạt động của các khu kinh tế đặc biệt luôn đạt hiệu quả cao.
Năm là, về tính chuyên môn hóa. Tại các khu kinh tế đặc biệt, tính
chuyên môn hóa của hoạt động sản xuất, kinh doanh chiếm tỉ lệ rất lớn. Theo
đó, các khu chế xuất là khu vực có tính chuyên môn hóa cao trong việc chế
tạo các hàng hóa xuất khẩu, kinh doanh dịch vụ xuất khẩu và cung cấp cho
các tổ chức kinh tế với điều kiện tự do thương mại và môi trường pháp lý tự do.
9


Sáu là, về đầu tư cho xuất khẩu. Ở Lào và Việt Nam hiện nay, việc đầu
tư xây dựng các khu kinh tế đặc biệt rất được Nhà nước và các nhà đầu tư
quan tâm. Theo đó, trong các khu kinh tế đặc biệt sẽ có các khu vực hoặc
doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu như: khu chế xuất, doanh

nghiệp chế xuất…
Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế phát triển của thế giới, việc hình
thành các liên minh kinh tế, hoạt động đầu tư vào các khu kinh tế, nhất là khu
kinh tế đặc biệt có vai trò rất quan trọng trong quá trình hội nhập của mỗi
quốc gia. Hoạt động đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt diễn ra với quy mô ngày
càng rộng bởi hoạt động này mang lại nguồn lợi rất lớn cho Nhà nước, cho
các doanh nghiệp và các chủ đầu tư.
Tuy nhiên, bản chất của hoạt động đầu tư là gì? Đầu tư vào khu kinh tế
đặc biệt là gì? thì hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể, khi nghiên
cứu về đầu tư, có quan điểm cho rằng: đầu tư là hoạt động mua sắm các tài
sản cố định nhằm tiến hành hoạt động sản xuất. Với quan niệm này, thì thuật
ngữ “đầu tư” được hiểu là hoạt động tạo ra giá trị tài sản vật chất mới như:
máy móc, thiết bị, nhà xưởng… nhằm thu về những lợi nhuận mới cao hơn so
với giá trị nguồn vốn ban đầu đã bỏ ra. Như vậy, quan niệm này đã phản ánh
được nội dung của thuật ngữ “đầu tư”; đó là kết quả mới của quá trình tài sản
tạo ra giá trị và những kết quả thu được trong quá trình đầu tư lớn hơn tài sản
ban đầu đã bỏ ra. Tuy nhiên, quan niệm này chưa phản ánh được kết quả đầu
tư là dùng một khoản vốn nhất định nhằm đem lại nhiều vốn hơn.
Bên cạnh đó, có quan niệm cho rằng, “đầu tư” là “đánh bạc với tương
lai” hoặc có quan niệm cho rằng đầu tư là sự hy sinh tất cả các nguồn lực của
ngày hôm nay nhằm hy vọng đạt được những lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Theo Từ điển Giải nghĩa Tài chính, Đầu tư, Ngân hàng, Kế toán Anh –
Việt năm 1999 của Nhà xuất bản Khoa học Kinh tế thì thuật ngữ “đầu tư”
được hiểu là: “dùng vốn để có nhiều tiền hơn hoặc thông qua những phương
tiện tạo ra thu nhập như lãi, lợi nhuận hoặc thông qua những hình thức kinh
10


doanh khác mạo hiểm, có nhiều rủi ro để kiếm lãi vốn”. Với quan niệm này,
thuật ngữ “đầu tư” được tiếp cận dưới góc độ vốn nhằm đem lại nhiều vốn

hơn. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng chưa phản ánh được hết kết quả đầu tư
về vật chất đó là tăng thêm năng lực của nền kinh tế.
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại thì thuật ngữ “đầu tư” là thuật ngữ
được dùng phổ biến nhất để mô tả các khoản chi tiêu trong một thời kỳ nhất
định để làm tăng hay duy trì tài sản thực. Như vậy, khái niệm này rất rộng,
bao gồm cả đầu tư vào tài sản vật chất và nhân lực. Còn theo quan điểm của
PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, thì thuật ngữ “đầu tư” là: “quá trình sử dụng
các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết
quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. Các nguồn lực
được sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí
tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất, tài sản tài
chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với
năng suất cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn bộ xã hội”2.
Dưới góc độ khoa học tài chính thì thuật ngữ “đầu tư” được hiểu là một
chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư có thể nhận và một chuỗi các hoạt
động thu của chủ đầu tư. Hay dưới góc độ tiêu dùng thì “đầu tư” được hiểu là
sự hy sinh tiêu dùng tại thời điểm hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều
hơn trong tương lai.
Khoản 5, Điều 3, Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam quy định: “Đầu
tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh
doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực
hiện dự án đầu tư”. Qua quy định này có thể thấy đầu tư kinh doanh là hoạt
động mà nhà đầu tư bỏ một số vốn nhất định để thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh này được thực hiện thông qua việc
thành lập tổ chức kinh tế và đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của
2

PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt (2008), Giáo trình Lập dự án đầu tư, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.


11


tổ chức kinh tế hay đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện các dự án
đầu tư khác.
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về “đầu tư” nhưng nhìn chung,
các quan điểm trên đều có chung nội dung là hoạt động của nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư để tạo ra năng lực sản xuất mới, là quá trình chuyển hóa nguồn vốn
thành các tài sản nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất, là quá trình chi tiêu
cho các dự án. Trong đó, các nguồn lực sản xuất được huy động và sử dụng
nhằm tăng lực lượng sản xuất với mục đích thu được nhiều lợi ích trong
tương lai hơn chi phí ban đầu mà nhà đầu tư bỏ ra.
Qua những định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu đầu tư vào khu kinh tế
đặc biệt là hoạt động của các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào một đơn vị hành
chính hoặc vùng lãnh thổ của một quốc gia để thực hiện các hoạt động kinh
doanh thông qua việc thành lập các tổ chức kinh tế, đầu tư góp vốn hay mua
cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế, đầu tư theo hình thức hợp đồng
hoặc thực hiện các dự án đầu tư.
Hiện nay, ở Lào và Việt Nam, khu kinh tế đặc biệt được hiểu bao gồm
các khu kinh tế như: khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế
cửa khẩu và khu công nghệ cao.
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định và được
thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hiện nay, ở Lào và Việt Nam, khu công nghiệp được phân loại thành
nhiều khu công nghiệp khác nhau. Sự phân loại này chủ yếu dựa và mục đích
sản xuất của khu công nghiệp hay quy mô và chủ đầu tư khu công nghiệp.
Theo đó, dựa vào mục đích sản xuất, có thể chia ra khu công nghiệp và
khu chế xuất. Khu công nghiệp bao gồm các cơ sở sản xuất hàng công nghiệp
để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Còn khu chế xuất cũng là một loại của khu

công nghiệp, tuy nhiên khu này chuyên sản xuất hàng hoá để xuất khẩu.
Dựa vào quy mô sản xuất, khu công nghiệp được được chia làm ba loại
12


là: khu công nghiệp lớn, khu công nghiệp vừa và khu công nghiệp nhỏ. Ở Lào
và Việt Nam, thông thường trên thực tế, các tiêu chí để phân biệt ba loại khu
công nghiệp này là: tổng diện tích của doanh nghiệp, tổng số vốn đầu tư vào
doanh nghiệp, tổng số lao động và tổng giá trị gia tăng mà doanh nghiệp sản
xuất ra. Các khu công nghiệp lớn được thành lập phải có quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Còn thẩm quyền ra quyết định thành lập các khu công
nghiệp vừa và nhỏ thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi khu
công nghiệp đó được xây dựng. Hiện nay, ở Lào và Việt Nam các khu công
nghiệp vừa và nhỏ đang được chú trọng xây dựng và khai thác ngày càng đạt
hiệu quả cao.
Đối với cách phân loại dựa vào chủ đầu tư, khu công nghiệp được chia
làm ba nhóm, đó là: các khu công nghiệp chỉ gồm các doanh nghiệp, dự án
đầu tư trong nước; các khu công nghiệp hỗn hợp và các khu công nghiệp chỉ
gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư có 100% vốn nước ngoài. Theo đó, khu
công nghiệp hỗn hợp là khu công nghiệp bao gồm các doanh nghiệp, dự án
đầu tư của các chủ đầu tư trong nước và của cả các chủ đầu tư nước ngoài.
Khu công nghiệp thường có ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào khu
công nghiệp, phân biệt với các khu còn lại thuộc lãnh thổ của quốc gia. Mọi
hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trng hàng rào không chỉ được điều
chỉnh bằng pháp luật hiện hành mà còn phải tuân thủ quy chế pháp lý riêng và
được hưởng rất nhiều ưu đãi.
Khu công nghiệp thường có chức năng hoạt động chính là: chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong
khu sản xuất công nghiệp không có các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư,
nghiệp và các dịch vụ cho loại hình sản xuất này.

Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa để xuất
khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu,
có ranh giới địa lý xác định và được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Trong khu chế xuất, các tổ chức và hoạt động thương mại được áp dụng quy
13


định đối với khu phi thuế quan. Hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các doanh
nghiệp chế xuất với các doanh nghiệp ở nước ngoài hoặc với doanh nghiệp
chế xuất khác thường thể hiện tính chất thương mại tự do. Cụ thể, các hoạt
động này không phải chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và không phải thực
hiện các thủ tục hải quan. Còn hoạt động trao đổi hàng hóa giữa khu chế xuất
với thị trường trong nước được coi như quan hệ xuất khẩu và nhập khẩu, đồng
thời phải thực hiện các thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật hiện
hành.
Khu chế xuất có đặc tính chuyên môn hóa trong việc chế tạo hàng hóa để
xuất khẩu, kinh doanh phục vụ xuất khẩu và cung cấp cho các tổ chức kinh tế
cư trú trong đó các điều kiện tự do thương mại và môi trường pháp lý tự do.
Mục tiêu thị trường chủ yếu của khu chế xuất là xuất khẩu hàng hóa hoặc
kinh doanh dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu, hướng tới mục tiêu khai thác thị
trường khu vực và quốc tế.
Khu kinh tế là những khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi
trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư. Khu kinh
tế ở Lào và Việt Nam hiện nay luôn có ranh giới địa lý xác định và được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục mà pháp luật của mỗi quốc gia đã
quy định. Các khu kinh tế ở Lào và ở Việt Nam được tổ chức thành các khu
chức năng, bao gồm: khu phi thuế quan, khu bảo thuế, khu chế xuất, khu công
nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và
các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh tế.
Khu kinh tế cửa khẩu của Lào và Việt Nam là khu kinh tế hình thành ở

khu vực biên giới trên đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và
được thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quốc gia
quy định. Ở Việt Nam, thông thường các khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu
được gọi chung là khu kinh tế, trừ trường hợp quy định cụ thể.
Khu công nghệ cao là khu công nghệ được thiết lập theo mô hình kinh
tế với mục tiêu xây dựng năng lực nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công
14


nghệ cao nhằm tạo điều kiện gắn kết giữa đào tạo, nghiên cứu phát triển công
nghệ cao và sản xuất dịch vụ, góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ và “ươm
mầm” các doanh nghiệp công nghệ cao cũng như thương mại hàng hóa công
nghệ cao. Trong khu công nghệ cao, các hoạt động nghiên cứu, phát triển ứng
dụng công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh
sản phẩm công nghệ cao luôn được thực hiện liên tục. Bên cạnh đó, ranh giới
của khu công nghệ cao luôn được xác định rất chi tiết, cụ thể và việc thành
lập khu công nghệ cao ở Lào và Việt Nam thường phải tuân theo các quy định
của pháp luật, do Chính phủ thành lập.
Khu công nghệ cao thường được gọi là khu kinh tế - kỹ thuật đa chức
năng, bởi lẽ, ở khu công nghệ cao có thể thành lập khu công nghiệp, khu chế
xuất… Trong khuôn khổ khu công nghệ cao, các nhà đầu tư vừa có thể sản
xuất công nghiệp, chế tạo hàng xuất khẩu, vừa có thể làm nơi nghiên cứu, ứng
dụng, đào tạo nhân lực hay tạo ra các doanh nghiệp công nghệ cao… Ở Lào
và Việt Nam thì khu công nghệ cao, khu dân cư và hành chính được phép
thành lập nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - kỹ thuật
của khu công nghệ cao, đồng thời nhằm phù hợp với loại hình khu kinh tế đặc
biệt quy mô lớn.
Khu công nghệ cao được thành lập theo quy định của Chính phủ, có ranh
giới xác định và hoạt động theo quy chế pháp lý do chính phủ quy định dựa
trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển các khu công nghiệp đã được xây

dựng.
Việc thành lập những khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam hiện nay
có vai trò rất quan trọng, cụ thể là:
Thứ nhất, việc thành lập các khu kinh tế đặc biệt đã góp phần vào hoạt
động đổi mới môi trường đầu tư, kinh doanh tại Lào và Việt Nam. Theo đó,
việc phát triển các khu kinh tế đặc biệt với ranh giới địa lý xác định cùng với
các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư đã tạo điều kiện phát huy các lợi thế địa
kinh tế và thuận lợi cho áp dụng các quy trình hành chính rút gọn. Qua đó, tạo
15


nên các điểm đầu tư hấp dẫn, góp phần đổi mới môi trường đầu tư, kinh
doanh của Lào và Việt Nam.
Bên cạnh đó, các cơ sở kỹ thuật của khu kinh tế đặc biệt như đường giao
thông, hệ thống thu gom nước thải…đã được đầu tư trước khi nhà đầu tư đi
vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, các khu kinh tế đặc biệt còn có
thể tiếp nhận nhiều lĩnh vực, ngành nghề đầu tư, kinh doanh. Do đó, nó đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu đầu tư đa dạng của các nhà đầu tư. Mặt khác, các khu
kinh tế đặc biệt đều có định hướng phát triển và lợi thế thu hút đầu tư riêng nên
không tạo ra nhiều áp lực cạnh tranh nội bộ trong thu hút đầu tư.
Thứ hai, các khu kinh tế đặc biệt được thành lập sẽ góp phần thu hút
được lượng vốn lớn đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật và sản xuất kinh
doanh của hai nước Lào và Việt Nam. Thông qua hoạt động thu hút vốn đầu
tư trực tiếp phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng bên trong các khu kinh tế đặc
biệt, với sự tác động lan tỏa thông qua các liên kết kinh tế, thị trường, xã hội,
các khu kinh tế đặc biệt còn góp phần quan trọng vào hoạt động đẩy mạnh
việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ngoài hàng rào các khu
kinh tế đặc biệt. Khi các khu kinh tế đặc biệt đã phát triển thì các tác động
gián tiếp này cũng sẽ giúp thu hút được một lượng vốn đầu tư đáng kể vào các
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, sản xuất kinh doanh của hai nước Lào và Việt Nam.

Ba là, việc thành lập các khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam trong
thời gian qua đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, hình
thành một số ngành công nghiệp chủ lực đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm vừa qua, các khu kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt
Nam đã góp phần giải quyết việc làm và phát triển kỹ năng cho người lao
động. Lào và Việt Nam vốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế với xuất phát điểm từ nền kinh tế với ngành nông nghiệp lạc hậu và sản
xuất công nghiệp ở quy mô nhỏ. Với việc hình thành các khu kinh tế đặc biệt
thì những kết quả sản xuất công nghiệp, sự phát triển kinh tế của Lào và Việt
Nam đã có những thay đổi cơ bản. Ngoài ra, các khu kinh tế đặc biệt được
16


thành lập đã trực tiếp tạo ra việc làm cho rất nhiều người lao động.
Đồng thời, các khu kinh tế đặc biệt còn cung cấp một số phương thức,
môi trường để đào tạo, nâng cao kỹ năng cho người lao động. Ví dụ như:
thông qua mối liên kết đào tạo - tuyển dụng giữa các cơ sở sản xuất trong khu
kinh tế đặc biệt với các cơ sở đào tạo nghề bên ngoài. Đây là một hình thức
tương đối phổ biến và có tiềm năng phát triển. Một số khu kinh tế đã thành
lập riêng cơ sở đào tạo nghề phục vụ cho khu kinh tế đặc biệt. Ngoài ra, các
cơ sở nghiên cứu, phát triển do doanh nghiệp trong khu kinh tế đặc biệt được
thành lập cũng là môi trường thuận lợi để người lao động tích lũy kiến thức,
kinh nghiệm để phát triển kỹ năng trong công việc.
1.2. Pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào khu kinh tế đặc
biệt
Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình. Như vậy, pháp luật của Lào và Việt Nam về
đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt là hệ thống những quy định của pháp luật do
Nhà nước Lào và Việt Nam ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động đầu tư

vào các khu kinh tế đặc biệt và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Các quy
định này thể hiện ý chí của các nhà lập pháp ở Lào và Việt Nam, đồng thời
phù hợp với lợi ích của các nhà đầu tư khi đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt.
Đó là các quy định về: Chủ thể đầu tư; Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đầu
tư vào các khu kinh tế đặc biệt; Các ưu tiên, ưu đãi cho các dự án đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt; Các quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư khi đầu tư
vào các khu kinh tế đặc biệt; Các quy định về tài chính, tín dụng đối với khu
kinh tế đặc biệt; Các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, đi lại và cư trú, tạm
trú ở khu kinh tế đặc biệt v.v…
Việc so sánh các quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt có vai trò rất lớn trong giai đoạn hiện nay ở mỗi quốc
17


gia. Hội nhập pháp luật đang là vấn đề thu hút nhiều nhà nghiên cứu khoa học
tham gia. Đó vừa là hệ quả, vừa là hiện tượng song hành cùng quá trình toàn
cầu hóa tại mỗi quốc gia. Tuy nhiên, do những quan hệ quốc tế đầu tư hiện
nay đang ngày càng mở rộng nên Luật Đầu tư của các quốc gia nói chung và
của Lào, Việt Nam nói riêng cần phải có những điều chỉnh, bổ sung mới.
Muốn điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt thì các quốc gia cần phải hiểu biết, học hỏi và tiếp thu
kinh nghiệm của các quốc gia phát triển khác trong việc quy định pháp luật về
đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt. Bên cạnh đó, Lào và Việt Nam đã ký kết và
gia nhập một số Công ước quốc tế về đầu tư vào khu kinh tế đặc biệt, do vậy
việc nghiên cứu và so sánh sự tương thích giữa pháp luật của hai quốc gia là
rất cần thiết.
Việc so sánh các quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về đầu tư vào
các khu kinh tế đặc biệt góp phần làm hài hòa các quy định pháp luật của hai
quốc gia với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam. Ngoài ra, mục đích của việc hợp tác đầu

tư vào khu kinh tế đặc biệt chỉ có thể đạt được khi có sự hiểu biết sâu sắc về
hệ thống các quy định pháp luật về đầu tư vào các khu kinh tế đặc biệt của các
quốc gia có liên quan.
Đồng thời, yêu cầu của việc hài hòa pháp luật trong xu thế hội nhập, phát
triển đất nước luôn khiến các luật gia trong lĩnh vực đầu tư nói chung và đầu
tư vào các khu kinh tế đặc biệt nói riêng có trách nhiệm phải suy nghĩ, tìm tòi
những mô hình phù hợp với điều kiện của quốc gia mình, nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển mọi mặt của đất nước và xu thế chung của thế giới.
Luật Đầu tư nói chung và các quy định pháp luật về đầu tư vào các khu
kinh tế đặc biệt ở Lào và Việt Nam nói riêng chỉ có thể đáp ứng được những
đòi hỏi của xu thế hội nhập khi các quy định này vừa thể hiện được tinh thần
của các văn bản pháp luật quốc tế trong lĩnh vực đầu tư mà hai quốc gia đã
gia nhập, vừa phù hợp với pháp luật đầu tư của hai quốc gia trong quan hệ
18


×