Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Minh bạch trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất thực trạng ở huyện đông anh, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.89 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN ĐIỆP

ĐỀ TÀI
MINH BẠCH TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH,
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT - THỰC TRẠNG Ở HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN ĐIỆP

ĐỀ TÀI
MINH BẠCH TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH,
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT - THỰC TRẠNG Ở HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI


Chuyên ngành

: Luật hiến pháp và luật hành chính

Mã số

: 60380102

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hiền.

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn của TS. Trần Thị Hiền. Các nội dung nghiên cứu trong luận văn
là trung thực và chưa được công bố trong các công trình nghiên cứu khác.
Nếu không đúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Điệp


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

1. Bảng 2.1.3.a. Thống kê diện tích đất đai đến 31/12/2016
2. Bảng 2.1.3.b. Thống kê diện tích đất nông nghiệp đến 31/12/2016
3. Bảng 2.2.2. Diện tích các loại đất phân bổ trong năm 2017



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được khóa học thạc sỹ, ngay từ khi bước vào trường đến
nay, em luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của các thầy, các
cô, cũng như của gia đình và toàn thể các bạn học. Với những tình cảm trân
trọng đó, em xin gửi tới toàn thể các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt những
kinh nghiệm và kiến thức quý báu của mình, cùng toàn thể các bạn học viên
đã cùng nhau nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến trong các buổi hội thảo
để bài học, bài luận luôn đạt được kết quả tốt nhất. Trong quá trình nghiên
cứu, triển khai thực hiện đề tài do kiến thức lý luận về lĩnh vực minh bạch còn
chưa nhiều, mặt khác kinh nghiệm thực tiễn còn có chỗ hạn chế nên không
thể tránh khỏi có nội dung còn chưa đầy đủ, em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo để em có thể hoàn thành tốt luận văn.


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................ 3
4. Mục đích nghiên cứu đề tài ........................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn ...................................................... 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .............................................. 4
7. Bố cục luận văn .......................................................................................... 5

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TÍNH MINH BẠCH
TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH, QUY HOẠCH

SỬ DỤNG ĐẤT ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................... 6
1.1.1. Khái niệm kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................................... 6
1.1.2. Đặc điểm kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất .................................... 8
1.1.3. Mối quan hệ giữa kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất ................. 11
1.2. Tính minh bạch và tiêu chí đánh giá tính minh bạch trong xây
dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................................... 13
1.2.1. Khái niệm tính minh bạch trong xây dựng và thực hiện kế
hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................................................................. 13


1.2.2. Tiêu chí đánh giá tính minh bạch trong xây dựng và thực hiện
kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ............................................................. 19
1.3. Lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................................................... 21
1.3.1. Các nguyên tắc lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................... 21
1.3.2. Căn cứ lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................................ 22
1.3.3. Nội dung kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ................................... 24
1.4. Thẩm quyền xét duyệt và điều chỉnh kế hoạch, quy hoạch sử dụng
đất ................................................................................................................. 28
1.4.1. Thẩm định kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất................................. 28
1.4.2. Thẩm quyền quyết định, phê duyệt kế hoạch, quy hoạch sử
dụng đất .................................................................................................... 29
1.4.3. Thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ............ 30
1.5. Quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ..... 31
1.5.1. Quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng
đất cấp tỉnh ............................................................................................... 31
1.5.2. Quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng
đất cấp huyện ........................................................................................... 41
1.6. Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng và thực
hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ......................................................... 50

1.6.1. Trách nhiệm của tổ chức lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất.... 50
1.6.2. Trách nhiệm xác định nhu cầu sử dụng đất trong việc lập,
điều chỉnh kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất ........................................... 50
Chương 2: THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH,
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT Ở HUYỆN ĐÔNG ANH ............................ 52


2.1. Đặc điểm xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ........................................................ 52
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ........ 52
2.1.2. Nguồn lực phát triển chủ yếu của huyện Đông Anh ...................... 59
2.1.3. Tình hình sử dụng đất huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ......... 61
2.2. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội ...................................................................... 67
2.2.1. Xây dựng và thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội............................................................................. 67
2.2.2. Xây dựng và thực hiện kế hoạch sử dụng đất huyện Đông Anh .... 73
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH MINH BẠCH TRONG
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH, QUY HOẠCH SỬ DỤNG
ĐẤT .................................................................................................................. 77
3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng ............................ 77
3.2. Thực hiện công khai thông tin về xây dựng và thực hiện kế hoạch,
quy hoạch sử dụng đất và lấy ý kiến góp ý của nhân dân ............................ 79
3.3. Đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước ......... 80
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 82


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là một tài nguyên đặc biệt, cần được khai thác và sử dụng một
cách có hiệu quả nhất nhằm góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tếxã hội, văn hóa, quốc phòng- an ninh… của quốc gia.
Việc khai thác và sử dụng đất đai cần có kế hoạch chi tiết, cụ thể để bảo
đảm tài nguyên đất được sử dụng có hiệu quả nhất, đúng mục đích sử dụng
đất, không gây lãng phí tài nguyên đất.
Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo
không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc
phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở
tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực, địa phương
đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời
gian xác định.
Nhà nước thống nhất quản lý trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến đất
đai. Đối với kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải có chiến lược không
chỉ trước mắt mà cả lâu dài nhằm sử dụng tài nguyên đất một cách có hiệu
quả cho cả thế hệ hiện tại và tương lai sau này. Nhà nước xây dựng kế hoạch,
quy hoạch sử dụng đất; căn cứ vào kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất các địa
phương, các ngành, lĩnh vực, đơn vị kinh tế… sẽ đầu tư, xây dựng, phát triển
đảm bảo đúng mục đích sử dụng góp phần quan trọng việc phát triển chung
của quốc gia, đưa Việt Nam sớm trở thành nước phát triển về mọi mặt.
Minh bạch trong kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất sẽ giúp nhà nước quản
lý đất đai một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, đặc biệt khi triển khai công tác bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng là một nội dung quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Khi minh bạch trong kế hoạch, quy


2

hoạch sử dụng đất sẽ giúp người dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ mục tiêu của nhà

nước là phát triển chung, vì một mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh. Từ đó, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực liên quan đến đất đai.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc minh bạch trong kế hoạch,
quy hoạch sử dụng đất, tác giả chọn đề tài “Minh bạch trong xây dựng và
thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất - Thực tiễn ở huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật hành
chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi đất nước mới được hòa bình, đời sống của nhân dân còn nhiều khó
khăn, người dân chưa quan tâm nhiều đến vấn đề đất đai, đặc biệt là vấn đề
liên quan đến quyền sử dụng đất, mục đích yêu cầu đối với từng vị trí đất, khi
đó cũng chưa có luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên,
hiện nay nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Do vậy, vấn đề sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh,… đang là vấn đề nóng và được nhà
nước cũng như mọi tổ chức, người dân quan tâm đặc biệt.
Để quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất có hiệu quả, nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản như: Luật đất đai năm 2013; Luật quy hoạch đô thị
năm 2015; Luật quy hoạch năm 2016; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất
đai; Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và
môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất;… nhằm đưa việc khai thác, sử dụng đất đạt hiệu quả nhất, phù hợp với
chủ trương phát triển chung của Quốc gia.
Trong những năm gần đây, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề tài nguyên đất đai, qua đó cũng cho thấy nhiều tác giả cũng đã quan tâm


3


đến lĩnh vực nghiên cứu này. Tuy nhiên, những vấn đề nghiên cứu còn tập
trung ở các lĩnh vực như: quyền được tiếp cận thông tin đất đai; tính công
khai, minh bạch trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;…
Thực tế vấn đề minh bạch trong kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất cũng
đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến, nhưng còn chưa đi sâu vào từng vấn
đề cụ thể. Trong luận văn này, em xin được tìm hiểu và làm rõ hơn các vấn đề
liên quan đến đề tài: “Minh bạch trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy
hoạch sử dụng đất - Thực tiễn ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”. Với
mong muốn có những hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề lý luận và thực trạng
hiện nay để từ đó có những kiến nghị và giải pháp phù hợp giúp cho việc
quản lý sử dụng đất hiệu quả nhất.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Cơ sở lý luận và pháp lý về tính minh bạch và
những nội dung liên quan đến kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng diện tích tự nhiên huyện Đông Anh, vấn
đề minh bạch trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng
đất trên địa bàn huyện Đông Anh hiện nay.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Giúp mọi tổ chức, cá nhân và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hiểu
được tầm quan trọng của việc minh bạch kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất.
Thực hiện tốt việc minh bạch sẽ giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
hoàn thành tốt nhiệm vụ trong công tác quản lý, sử dụng đất đai cho nhiệm vụ
phát triển đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng thu hồi đất;
giúp người dân hiểu được việc làm đúng đắn của cơ quan Nhà nước và sẽ
chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn


4


Để đảm bảo hoàn thành tốt các nội dung nghiên cứu tính minh bạch
trong kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất hiện nay, luận văn đã sử dụng phương
pháp nghiên cứu khoa học và các quy định của luật như:
Phương pháp lịch sử: Tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến tính
minh bạch, vấn đề về xây dựng kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất để nắm rõ
nguyên tắc cơ bản nhất trong lĩnh vực này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ những nghiên cứu, luận văn sẽ
phân tích, tổng hợp những vấn đề cơ bản nhất; đồng thời cũng có những nhận
xét, đánh giá trên cơ sở khách quan nhất nhằm đưa ra những kiến nghị và có
giải pháp phù hợp cho vấn đề minh bạch trong kế hoạch, quy hoạch sử dụng
đất.
Phương pháp so sánh: Luận văn cũng so sánh những vấn đề về đất đai ở
mỗi thời kỳ quản lý khác nhau.
Phương pháp thống kê xã hội học: Căn cứ vào kết quả điều tra, khảo sát
thực tế để phục vụ cho việc hoàn thành luận văn.
Nguồn tài liệu nghiên cứu để hoàn thành luận văn là những vấn đề lý
luận về tính minh bạch, các văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và các chủ trương của Đảng liên quan đến vấn đề phải thực hiện minh
bạch; các tạp chí của Đảng, nhà nước; luận văn đã hoàn thành, các website
liên quan,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn nhằm đóng góp vào việc làm rõ hơn những vấn đề về lý luận
và thực tiễn trong vấn đề minh bạch kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất; đồng
thời cũng đưa ra một số giải pháp phù hợp với tình hình đất nước hiện nay,
giúp người dân hiểu được mục đích, yêu cầu và tầm quan trọng của việc sử
dụng đất cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng - an
ninh quốc gia,…


5


7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì luận văn gồm ba chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TÍNH MINH BẠCH
TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH, QUY HOẠCH SỬ
DỤNG ĐẤT
Chương 2: THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH,
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT Ở HUYỆN ĐÔNG ANH
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH MINH BẠCH TRONG
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH, QUY HOẠCH SỬ DỤNG
ĐẤT


6

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TÍNH MINH
BẠCH TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH, QUY
HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm, đặc điểm của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời
gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất. Kế hoạch sử dụng đất được
phê duyệt sẽ là điều kiện để các tổ chức, người dân căn cứ vào đó để tiến
hành sử dụng theo đúng quy định, đồng thời qua đó người dân sẽ thực hiện
được quyền của mình trong việc giám sát các tổ chức sử dụng đất không đúng
mục đích để kiến nghị, yêu cầu nhà nước có những giải pháp phù hợp hay thu
hồi quyền sử dụng đất theo quy định, hạn chế được tình trạng sử dụng đất sai
mục đích, công chức tham ô, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp của nhà nước (thể

hiện đồng thời 3 tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp chế) về tổ chức sử dụng
và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất, thông qua
việc phân bổ quỹ đất đai và tổ chức sử dụng đất đai như tư liệu sản xuất,
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội tạo điều kiện bảo vệ đất đai và
môi trường.
Như vậy, quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết
định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào mục đích sử dụng bền vững để mang
lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời 2 chức năng: điều chỉnh các mối quan
hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất và môi trường.
Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự


7

nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi
vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành nhằm định hướng
cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập quy hoạch sử dụng đất đai chi tiết cho
mình; xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về
đất đai; làm cơ sở để tiến hành giao, cấp đất và đầu tư phát triển sản xuất, đảm
bảo an ninh lương thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hóa - xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất đai còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà
nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất đai, hạn chế sự chồng chéo gây lãng
phí tài nguyên đất, tránh tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất tuỳ tiện, làm
giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông, lâm, ngư nghiệp (đặc biệt là diện tích
trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh
chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi
trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội và các hậu quả khó lường về tình hình bất ổn định chính trị,

an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển
sang nền kinh tế thị trường.
Như vậy, có thể định nghĩa kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo
không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng
đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh
tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định.
Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất là việc thay đổi các chỉ tiêu sử dụng
đất trong quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyêt do thay đổi mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh… làm thay đổi cơ cấu sử
dụng đất.
Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời
gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất.


8

Điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất là việc thay đổi về khả năng thực hiện
kế hoạch sử dụng đất hoặc khi có sự điều chỉnh về quy hoạch sử dụng đất.
1.1.2. Đặc điểm kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất thuộc loại kế hoạch, quy hoạch có tính
lịch sử xã hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài
hạn, là bộ phận quan trọng hợp thành của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội
và phát triển quốc dân nên nó có một số đặc điểm chính sau:
Một là, tính lịch sử xã hội của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
Qua mỗi giai đoạn lịch sử lại có các chế độ cai trị khác nhau, lịch sử phát
triển của mỗi loại giai đoạn khác nhau. Chính vì thế, ta có thể nói rằng lịch sử
phát triển xã hội chính là lịch sử phát triển của kế hoạch, quy hoạch sử dụng
đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương thức sản xuất thể

hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự
nhiên trong quá trình sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất). Trong quy hoạch sử dụng đất đai, luôn nảy
sinh mối quan hệ giữa người với đất đai. Các công việc của con người như
điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế… đều liên quan chặt chẽ với đất đai,
nhằm đưa đất đai vào sử dụng sao cho đầu đủ, hợp lý và hiệu quả cao nhất.
Kế hoạch, quy hoạch đất đai thể hiện đồng thời là yếu tốt thúc đẩy phát triển
lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất, vì nó
luôn là một bộ phận của phương thức sản xuất xã hội.
Mặt khác, ở mỗi nước khác nhau đều có luật đất đai riêng của mình. Vì
vậy, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai của các nước cũng có nội dung khác
nhau. Ở nước ta, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai phục vụ nhu cầu sử
dụng đất và quyền lợi của toàn xã hội. Theo luật đất đai thì đất đai nước ta
thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý và nhà nước giao cho
các hộ gia đình và tổ chức sử dụng. Điều đó, đã góp phần tích cực thay đổi
quan hệ sản xuất ở nông thôn, tạo điều kiện cho người dân làm chủ mảnh đất,


9

tự tin trong sản xuất và đầu tư, giúp cho việc bảo vệ đất và nâng cao hiệu quả
sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch, quy hoạch sử
dụng đất đai góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh
tế xã hội và môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu
thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau.
Hai là, tính tổng hợp của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
Đất đai có vai trò quan trọng đối với đời sống của con người và các hoạt
động xã hội, nên kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai mang tính tổng hợp rất
cao, đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế, xã hội như: khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội dân số và đất đai, sản xuất công nghiệp, môi trường

sinh thái… Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai thường động chạm đến việc
sử dụng đất của một số loại đất chính đó là: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp,
đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng…; cũng như ảnh hưởng
đến toàn nhu cầu sử dụng đất đai của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu
cầu sử dụng đất, nó phân bố, bố trí và điều chỉnh các nhu cầu đất đai; điều
hòa các mâu thuẫn về đất đai các ngành, lĩnh vực xác định điều phối phương
hướng, phương thức phân phối sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã
hội, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ
cao và ổn định.
Ba là, tính dài hạn của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
Tính dài hạn của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất đai được thể hiện rất
rõ trong phương hướng, kế hoạch sử dụng đất. Thường thời gian của quy
hoạch sử dụng đất đai trên 10 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Căn cứ vào
các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế xã hội quan
trọng như: sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ khoa học kỹ thuật, đô thị hóa,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Từ đó, xác
định kế hoạch, quy hoạch trung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra các


10

phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa
học cho xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm và ngắn hạn.
Để đáp ứng được nhu cầu đất cho phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, quy
hoạch sử dụng đất đai phải có tính dài hạn. Nó tạo cơ sở vững chắc, niềm tin
cho các chủ đầu tư, tạo môi trường pháp lý ổn định.
Bốn là, tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô của kế hoạch, quy hoạch sử
dụng đất
Với đặc tính trung hạn và dài hạn, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất chỉ

dự kiến trước được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và
phân bố sử dụng đất. Nó chỉ ra được tính đại thể, không dự kiến được các
hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi. Vì vậy, quy hoạch sử
dụng đất đai là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch
mang tính chỉ đạo vĩ mô, tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất của
các ngành như: phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của sử
dụng đất trong vùng; cân đối tổng quát các nhu cầu sử dụng đất của các
ngành; điều chỉnh cơ cấu sử dụng và phân bố đất đai trong vùng; phân định
ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất đai trong vùng; đề xuất
các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của phương hướng sử
dụng đất.
Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất có tính dài hạn, khoảng thời gian dự
báo tương đối dài, mà trong quá trình dự báo chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược hóa
quy hoạch sẽ càng ổn định. Do đó, quy hoạch thường có giá trị trong thời
gian, tạo nền tảng và định hướng cho các ngành khác sử dụng đất đai, tạo nền
tảng và định hướng cho các ngành khác sử dụng đất đai theo phương hướng
đã vạch ra.
Năm là, tính chính sách của kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất


11

Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và
chính sách xã hội. Mỗi đất nước có các thể chế chính trị khác nhau, các
phương hướng hoạt động kinh tế xã hội khác nhau nên chính sách quy hoạch
sử dụng đất đai cũng khác nhau. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các
chính sách và quy định có liên quan đến đất đai của đảng và nhà nước, đảm
bảo cụ thể mặt bằng đất đai của các mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân, phát
triển ổn định kinh tế chính trị xã hội; tuân thủ các chỉ tiêu, các quy định

khống chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái. Nó là chính sách cứng,
cái khung cho mọi hoạt động diễn ra trong đó. Vì vậy, kế hoạch, quy hoạch sử
dụng đất đai thể hiện tính chính sách rất cao. Nhưng không phải thế mà quy
hoạch sử dụng đất là vĩnh viễn, không thay đổi.
Sáu là, tính khả biến của quy hoạch sử dụng đất
Với xu hướng đi lên của xã hội, mọi sự vật hiện tượng luôn thay đổi. Vì
vậy, dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó định trước, đoán trước, theo
nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất chỉ là một trong những
giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp hơn
cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Càng ngày xã hội càng
phát triển, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, đời sống của con người đòi hỏi
càng cao, các nhu cầu luôn biến đổi, cùng với những thay đổi đó các chính
sách của nhà nước và tình hình kinh tế cũng thay đổi theo. Do đó, các dự kiến
quy hoạch là cần thiết; điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch, quy
hoạch sử dụng đất luôn là quy hoạch động.
1.1.3. Mối quan hệ giữa kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất
Kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất là những thuật ngữ thường đi kèm
với nhau. Chúng được sử dụng để biểu đạt một trong những phương thức thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước, cũng như
một trong những phương thức quản lý nhà nước đối với đất đai. Nguyên tắc
lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất là “Quy hoạch sử dụng đất phải đảm bảo


12

tính đặc thù, liên kết của các vùng kinh tế - xã hội; quy hoạch sử dụng đất cấp
huyện phải thể hiện nội dung sử dụng đất của cấp xã”.
Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất phải đảm bảo một trong những nguyên
tắc là không chỉ khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
mà còn đáp ứng đòi hỏi của thích ứng với biến đổi khí hậu.

Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất trực tiếp tác động đến việc sử dụng đất
của người dân và tiền ẩn nguy cơ làm đảo lộn cuộc sống, sản xuất của họ; bởi
lẽ, do kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất là cơ sở để Nhà nước phân định mục
đích sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Vì vậy, để đảm bảo việc
lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất phù hợp với mong muốn, lợi ích hợp
pháp của người dân, qua đó tạo sự đồng thuận xã hội, pháp luật đất đai đề cập
nội dung lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trong việc lập kế hoạch, quy
hoạch sử dụng đất. Kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất được thể hiện trên các
khía cạnh cơ bản sau:
Một là, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất là một trong những phương
thức thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước.
Chỉ Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai mới có
quyền quyết định kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất nhằm phân bổ và khoanh
vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội; quốc phòng - an ninh; bảo vệ môi trường… nghĩa là thông qua kế hoạch,
quy hoạch sử dụng đất, Nhà nước xác định mục đích sử dụng cụ thể cho từng
loại đất, đáp ứng các nhu cầu sử dụng đất khác nhau trong xã hội.
Hai là, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất là một trong những nguyên tắc
sử dụng đất, nó định hướng cho việc sử dụng đất phù hợp với các mục tiêu
phát triển của đất nước hoặc ở mỗi địa phương, ngăn ngừa tình trạng sử dụng
đất đai bừa bãi, lãng phí và kém hiệu quả. Ngoài ra, thông qua kế hoạch, quy
hoạch sử dụng đất, đất đai trở thành nguồn lực quan trọng, nguồn vốn to lớn
để phát triển đất nước.


13

Ba là, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất cùng với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch không gian vùng, quy hoạch xây dựng và quy
hoạch đô thị… tạo thành hệ thống quy hoạch đồng bộ, thống nhất, phục vụ

cho việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội 05 năm của cả nước và từng địa
phương. Điều này có nghĩa là kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất góp phần thực
hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong 05 năm của cả nước và ở
từng địa phương.
1.2. Tính minh bạch và tiêu chí đánh giá tính minh bạch trong xây
dựng và thực hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
1.2.1. Khái niệm tính minh bạch trong xây dựng và thực hiện kế
hoạch, quy hoạch sử dụng đất
Về mặt lịch sử, quản trị không phải là một khái niệm chính trị, pháp lý
mới, mà nó đã được đề cập đến từ rất lâu trên thế giới. Ngay từ thời Hy Lạp La Mã cổ đại, một số nhà tư tưởng như Aristotle đã nói đến vấn đề này thông
qua những luận điểm về các mô hình, vai trò và cách thức quản lý xã hội của
nhà nước. Quản trị cũng là cách thức để thể hiện quyền lực của mỗi quốc gia
trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.... Thông quá cách thức
quản trị của cơ quan quyền lực ở mỗi quốc gia sẽ đánh giá được tính hiệu quả
trong công tác quản trị, mang lại sự hài lòng cho người dân, nghĩa là người
dân thấy được thoải mái với các thức quản trị đó.
Tuy nhiên, đến những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và đặc
biệt là một trong hai thập kỷ gần đây thì vấn đề quản trị trong quản lý xã hội
của nhà nước mới được bàn nhiều và quan tâm đặc biệt, đồng thời thuật ngữ
“quản trị1” cũng dần thay thế thuật ngữ “cai trị”. Việc chuyển từ thuật ngữ
1

Max Weber (1864 - 1920) là một nhà xã hội học người Đức, có nhiều đóng góp vào lý thuyết quản
trị thông qua việc phát triển một tổ chức quan liêu bàn giấy là phương thức hợp lý tổ chức một công ty phức
tạp. Khái niệm quan liêu bàn giấy được định nghĩa là hệ thống chức vụ và nhiệm vụ được xác định rõ ràng,
phân công, phân nhiệm chính xác, các mục tiêu phân biệt, hệ thống quyền hành có tôn ti trật tự. Cơ sở tư
tưởng của Weber là ý niệm thẩm quyền hợp pháp và hợp lý, ngày nay thuật ngữ “quan liêu” gợi lên hình ảnh
một tổ chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ tục hành chính phiền hà và nó hoàn toàn xa lạ với tư
tưởng ban đầu của Weber. Thực chất những đặc tính về chủ nghĩa quan liêu của Weber là: Phân công lao



14

“cai trị” sang thuật ngữ “quản trị” trong quản lý nhà nước được khá nhiều học
giả phân tích, trong đó hầu hết cho rằng đây là xu hướng của thế kỷ 21 và
phản ánh sự thay đổi lớn trong nhận thức, cách thức thực thi quyền lực chính
trị ở các quốc gia.
Sự chuyển đổi này cho thấy vai trò của nhà nước trong thế kỷ 21 đang và
sẽ thay đổi, vị trí độc tôn của bộ máy nhà nước đang bị thách thức bởi những
thiết chế và chủ thể dân chủ mới. Nguyên nhân của sự thay đổi này được cho
là bởi mô hình quản lý cũ, cả trong khu vực công và khu vực tư, đều ngày
càng cho thấy sự thiếu hiệu quả. Vì vậy, nhân loại cần có những hình thức
quản trị nhà nước mới mà trong đó có sự tham gia chủ động của một phạm vị
các chủ thể rộng lớn hơn rất nhiều.
Mặc dù vậy, trong một thời gian, khi mà khái niệm “quản trị” bị lấn át
bởi khái niệm “cai trị” (government) thì vấn đề quản trị tốt cũng ít được nhắc
đến. Gần đây, cùng với khái niệm quản trị, khái niệm quản trị tốt được đề cập
động với thẩm quyền và trách nhiệm được quy định rõ và được hợp pháp hóa như nhiệm vụ chính thức; Các
chức vụ được thiết lập theo hệ thống chỉ huy, mỗi chức vụ nằm dưới một chức vụ khác cao hơn; Nhân sự
được tuyển dụng và thăng cấp theo khả năng qua thi cử, huấn luyện và kinh nghiệm; Các hành vi hành chính
và các quyết định phải thành văn bản; Quản trị phải tách rời sở hữu; Các nhà quản trị phải tuân thủ điều lệ và
thủ tục. Luật lệ phải công bằng và được áp dụng thống nhất cho mọi người.
Daniel Kaufmann, Aart Kraay, Massimo Mastruzzi, quản trị là “các truyền thống và thể chế mà dựa
vào đó để thực hiện quyền lực của một quốc gia”.
Ngân hàng thế giới (WB), quản trị là “… cách thức mà quyền lực được thực thi thông qua các thể chế
chính trị, kinh tế, xã hội của một quốc gia”.
Cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP), quản trị là “việc thực thi quyền lực chính trị, hành chính,
kinh tế để quản lý các vấn đề của quốc gia ở mọi cấp độ. Nó bao gồm các cơ chế, quy trình và thiết chế mà
thông qua đó, các công dân và các nhóm biểu thị sự quan tâm và thực hiện các quyền hợp pháp và nghĩa vụ
của mình, cũng như cho thấy sự khác biệt của họ”.

Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), quản trị là “cách thức mà nhờ đó quyền lực được thực hiện để
quản lý các nguồn lực kinh tế, xã hội cho sự phát triển của một quốc gia. Nó đề cập đến chất lượng hoạt động
của các thể chế có nhiệm vụ xây dựng, thực hiện và bảo đảm thực thi các chính sách tốt dựa trên cách thức
hiệu lực, hiệu quả, công bằng và toàn diện”. Theo nghĩa rộng, “quản trị nói đến môi trường thể chế mà ở đó
các công dân tương tác với nhau và với các cơ quan, quan chức nhà nước”.
Hội đồng quản trị toàn cầu (Commission on Global Governance), thì quản trị là “Tập hợp của rất
nhiều cách thức mà trong đó các cá nhân và thiết chế, kể cả công và tư, giải quyết các vấn đề chung của họ.
Đó là một quá trình liên tục mà thông qua đó những lợi ích đa dạng và xung đột với nhau có thể được giải
quyết và các hành động hợp tác có thể được thực hiện. Nó bao gồm các thiết chế và cơ chế chính sách được
trao quyền để bảo đảm sự tuân thủ cũng như những thỏa thuận không chính thức mà người dân và các tổ
chức đã nhất trí hoặc chấp nhận để đạt được lợi ích của họ”.


15

đến ngày càng nhiều. Nguyên nhân được lý giải là bởi thực trạng quản trị kém
(bad governance) mà các dấu hiệu đặc trưng là tình trạng tham nhũng, chính
quyền vô trách nhiệm, vi phạm nhân quyền ngày càng nghiêm trọng trên thế
giới, dẫn đến nhu cầu cần tìm ra biện pháp giải quyết. Trong bối cảnh đó,
quản trị tốt trở thành một yếu tố quan trọng trong các chương trình nghị sự về
chính trị và kinh tế ở cả cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia; một trong những
yếu tố căn bản trong các nền dân chủ kiểu phương Tây.
“Quản trị tốt2” về bản chất cũng không phải là một khái niệm mới, vì
một số quan điểm về vấn đề này đã được đề cập bởi một số nhà tư tưởng Hy
Lạp - La Mã cổ đại. Ví dụ, Aristotle, trong Chính trị luận (politice), bằng việc
phân tích đặc điểm, các nguyên tắc hoạt động của các dạng chế độ chính trị,
cách thức tổ chức quốc gia và các mô hình dân chủ thực chất đã tạo lập những

2


Cơ quan Cao ủy nhân quyền liên hợp quốc: “quản trị tốt liên quan đến các tiến trình và kết quả chính
trị và thể chế mà cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển. Đó là một tiến trình mà các cơ quan công
quyền giải quyết các vấn đề công cộng, quản lý các nguồn lực công và bảo đảm việc thực hiện các quyền con
người theo cách thức hoàn toàn không có sự tham nhũng, lạm dụng và thực sự tuân thủ nguyên tắc pháp
quyền… Tùy thuộc vào bối cảnh và mục đích sử dụng, thuật ngữ quản trị tốt có thể được dùng để nói đến các
vấn đề như: tôn trọng đầy đủ các quyền con người (full respect of rights), nguyên tắc pháp quyền (the rule of
law), sự tham gia hiệu quả của người dân (effective participation), sự cộng tác của nhiều chủ thể (multi-actor
partnerships), đa nguyên chính trị (political pluralism), các tiến trình và thể chế minh bạch và trách nhiệm
giải trình (transparent and acccountable processes and institutions), khu vực công hiệu lực, hiệu quả (effcient
and effective public sector), tính hợp pháp (legitimacy), tiếp cận với kiến thức, thông tin và giáo dục (access
to knowledge, information and education), trao quyền chính trị của người dân (political empowerment of
people), sự công bình (equity), sự ổn định (sustainability), thái độ và các giá trị giúp thúc đẩy trách nhiệm, sự
đoàn kết và sự khoan dung (attitudes and values that foster responsibility, solidarity and tolerance).
Ngân hàng Thế giới (WB): “Quản trị tốt là tập hợp các thể chế minh bạch, có trách nhiệm giải trình,
có năng lực và kỹ năng, cùng với ý chí quyết tâm làm những điều tốt đẹp… Tất cả giúp cho một nhà nước
cung cấp những dịch vụ công cho người dân một cách hiệu quả”.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB): “Quản trị tốt thể hiện hiện qua bốn yếu tố cơ bản: trách nhiệm
giải trình (accountability); sự tham gia (participation); tính chất có thể dự đoán (predictability) và sự minh
bạch (transparency)”.
Hội đồng châu Âu (EC): “Quản trị tốt dựa trên 5 nguyên tắc: công khai (openness); sự tham gia
(participation); trách nhiệm giải trình (accountability); tính hiệu quả (effectiveness) và sự gắn kết
(coherence)”.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Quản trị tốt” thể hiện qua các yêu tố như sự minh bạch trong hoạt động
của nhà nước, tính hiệu quả trong việc quản lý các nguồn lực công và tính ổn định, minh bạch của môi
trường pháp lý và kinh tế…”.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): “Các yếu tố chủ yếu của quản trị tốt bao gồm: trách
nhiệm giải trình (accountability); sự minh bạch (transparency); tính hiệu quả (effectiveness) và hiệu lực
(effect); tính kịp thời (responsiveness), tầm nhìn (forward vision), pháp quyền (rule of law)”.



16

nền tảng lý luận về quản trị tốt. Quản trị tốt sẽ được hiểu theo cách thức hoàn
toàn không có sự tham nhũng, lạm dụng và thực sự tuân thủ nguyên tắc pháp
quyền, có sự tham gia hiệu quả của người dân, tại đây người dân được tiếp
cận mọi thông tin liên quan khi có nhu cầu. Ví dụ: nếu người dân mong muốn
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất mình đang sử dụng thì
người dân chỉ cần đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ thực hiện việc kiểm tra các thông tin liên quan như
thông tin quy hoạch, thông tin thửa đất đang sử dụng, tình hình nộp thuế theo
quy định… để thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Xuất phát từ “quản trị tốt” thì vấn đề “quản trị nhà nước tốt 3” cần phải
đảm bảo các yếu tố như: minh bạch, sự tham gia của người dân, quyền được
cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước… Quản trị
tốt có mối liên hệ chặt chẽ với thể chế chính trị, cơ chế bảo đảm sự tham gia,
tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và khả năng đáp ứng các nhu cầu của
mọi tầng lớp nhân dân. Trong khu vực công, quản trị liên quan đến cách thức
thiết lập và thực hiện mục tiêu, các hoạt động đảm bảo uy tín của chính phủ,
thiết lập hệ thống cung ứng dịch vụ công bằng, công chức có hành vi ứng xử
đúng, giảm các nguy cơ tham nhũng.
Hiện nay cho thấy, nước ta đang dần dần chuyển từ nền “hành chính cai
trị” sang “nền hành chính phục vụ”, lấy tổ chức và người dân làm trung tâm
để phục vụ. Để làm được điều đó, phải thực hiện tốt các yếu tố như: đảm bảo
sự tham gia, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và khả năng đáp ứng các
nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh tính
“minh bạch4”. Trước hết tất cả các thông tin phải thật minh bạch. Chỉ trong
3

Theo Tổ chức Nhân quyền Liên Hợp quốc (UNHR): “Quản trị nhà nước tốt gồm 5 yếu tố cơ bản:
minh bạch, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình, sự tham gia và sự đáp ứng nhu cầu của người dân”.

Theo cơ quản phát triển Liên hợp quốc (UNDP): “Quản trị nhà nước tốt là việc thực hiện quyền lực
về kinh tế, chính trị và hành chính để quản lý các công việc của nhà nước. Quản trị nhà nước bao gồm các
thành tố: sự tham gia, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hiệu quả và công bằng, thúc đẩy pháp quyền”.
4

Học thuyết về tính hạn chế của thông tin do nhà kinh tế học Stiglitz xây dựng thì tính minh bạch có
thể nâng cao hiệu quả thị trường và giảm chi phí. Học thuyết kinh tế nước đó cho rằng sự hoạt động của thị


17

điều kiện minh bạch mới có thể chứng tỏ rằng thông tin là thật. Nếu không có
một hệ thống tiêu chuẩn minh bạch thì không ai dám tin vào các dữ liệu và
thông tin cần được công bố thường xuyên.
Minh bạch là đảm bảo sự rõ ràng, không chỉ đáp ứng được tính công
khai (tức là sự sẵn sàng chia sẻ thông tin) mà còn đảm bảo khả năng tiếp cận
được thông tin, sẵn sàng tham gia trao đổi một cách thẳng thắn, trung thực về
quá trình ban hành các chính sách và quyết định.
Minh bạch luôn gắn liền với trách nhiệm, đòi hỏi chính phủ và đội ngũ
cán bộ, công chức phải công khai quá trình thực hiện công việc cho các bên
quan tâm. Ở góc độ này, minh bạch có mối quan hệ chặt chẽ với trách nhiệm,
vì có trách nhiệm mới có xu hướng công khai và đảm bảo các điều kiện cho
công khai.
Một nghiên cứu của Bok (1997) đã cho rằng, công dân thiếu sự tin tưởng
vào các cơ quan nhà nước không phải xuất phát từ những sự thật khách quan
hay những khiếm khuyết trong hoạt động của những cơ quan này, mà chính là
do những ý kiến chủ quan về hoạt động của các cơ quan nhà nước và họ
không được cung cấp đầy đủ thông tin để đánh giá chính xác về hoạt động
của các cơ quan nhà nước. Nếu thiếu thông tin về hoạt động của chính phủ,
niềm tin của công dân sẽ giảm sút hoặc ở mức độ thấp và ngược lại, nếu có

đầy đủ thông tin về hoạt động của chính phủ thì niềm tin của công dân sẽ tăng
lên. Điều này có được khi chính phủ có sự công khai, minh bạch về các hoạt

trường là có hiệu quả và sự can thiệp của Chính phủ cần được giảm tới mức tối thiểu. Sau đó mọi người nhận
ra rằng có sự hạn chế thông tin nghiêm trọng trên tất cả các thị trường, nhiều người không thể tiếp cận các
thông tin mong muốn.
Bok, D. (1997), minh bạch đòi hỏi quá trình hoạch định chính sách, thực hiện và các điều chỉnh phải
được công khai một cách hợp lý. Theo cách hiểu này, công khai là một khía cạnh của minh bạch. Tuy nhiên,
không phải cứ công khai là đảm bảo được minh bạch. Nói cách khác, muốn có minh bạch thì mức độ công
khai phải đầy đủ, rõ ràng để các tổ chức, công dân và các chủ thể quan tâm khác trong xã hội có thể biết và
hiểu được những lý do tại sao chính phủ và các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước lại có quyết
định hay thực hiện những hành động đó.
Từ điển tiếng Việt năm 2015, minh bạch là rõ ràng, rành mạch, không khuất tất, mờ ám.


×