Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Vị trí, vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ TRÍ THÀNH

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ TRÍ THÀNH

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số: 60380102


Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quý Tỵ

HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu do tự bản thân
thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của cá nhân, tổ chức
khác.
Các số liệu, thông tin được trích dẫn trong Luận văn có nguồn gốc rõ
ràng và tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn. Kết quả trình bày trong Luận văn
là trung thực và chưa từng được ai công bố trước đây.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của
Luận văn.

Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2017
Xác nhận của giảng viên hướng

Tác giả luận văn

dẫn

Đỗ Trí Thành
PGS.TS. Vũ Thu Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,

tác giả đã nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ của nhiều cá nhân.
Với tấm lòng chân thành và sự biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin được gửi
lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến sĩ Phạm Quý Tỵ – Nguyên Thứ trưởng Bộ Tư
pháp – người đã theo dõi và hướng dẫn sát sao, giúp tác giả có những định
hướng và kỹ năng nghiên cứu đúng đắn trong quá trình triển khai đề tài.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới ông Đặng Bình Giang - Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang; ông Đặng Quốc Phú - Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện Vị Xuyên - thủ trưởng đơn vị tác giả đang công tác
đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện về mọi mặt để tác giả hoàn thành chương trình
cao học một cách thuận lợi nhất.
Tác giả xin gửi lời tri ân tới các thầy cô tham gia giảng dạy chương trình
đào tạo Thạc sĩ định hướng nghiên cứu Khóa 23 Trường Đại học Luật Hà Nội
đã trang bị cho tác giả những kiến thức nền tảng trong suốt hai năm đào tạo.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia
đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành Luận văn này.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

8


1.1.

Khái quát sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát trong
bộ máy nhà nước

Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
1.2.1. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2.2. Chức năng, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà

8

1.2.

20
20

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2.2.2. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

38


CHƯƠNG 2
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT
2.1. Vị trí, vai trò của Cơ quan công tố trong bộ máy nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa theo Hiến pháp năm 1946 – tiền thân
của Viện kiểm sát nhân dân ngày nay.
2.1.1. Cơ quan công tố trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
năm 1945 đến năm 1958
2.1.1.1. Cơ quan Công tố của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
năm 1945 đến năm 1950

25
31

39

39
39
39


2.1.1.2. Cơ quan công tố của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
năm 1950 đến năm 1954
2.1.1.3. Cơ quan Công tố của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
sau khi hòa bình lập lại (giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1958)
2.1.2. Viện Công tố trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
năm 1958 đến năm 1959
2.2. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Namtheo Hiến pháp năm

1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992
2.2.1. Viện kiểm sát nhân dân giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
2.3. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Namtheo Hiến pháp năm
1992 sửa đổi năm 2001 và Hiến pháp năm 2013.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VỀ VỊ TRÍ, VAI
TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY
NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. Những hạn chế về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1.1. Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
3.1.2. Về cơ cấu tổ chức bộ máy và nguyên tắc hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân
Phương hướng, giải pháp để củng cố vị trí và tăng cường vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước đáp ứng
yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
3.2.1. Tăng cường chức năng cho Viện kiểm sát nhân dân
3.2.2. Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN

43
45
46

50
50

54

57
67

68
68
69
76

3.2.

79
79
82
87
88


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, thiết chế Viện công tố, sau này là Viện kiểm sát nhân dân
ra đời và phát triển cùng với quá trình thành lập và phát triển của nhà nước
cách mạng. Kể từ khi thành lập đến nay, Viện kiểm sát nhân dân luôn được
khẳng định là cơ quan nhà nước độc lập trong bộ máy nhà nước. Trong thời
kỳ đầu của Chính quyền dân chủ nhân dân, theo Hiến pháp năm 1946, Viện
công tố vẫn tồn tại trong hệ thống tòa án; đến năm 1958 hệ thống cơ quan
Công tố được thành lập trực thuộc Chính phủ nên chưa hình thành hệ thống

Viện kiểm sát nhân dân độc lập như ngày nay, song về hoạt động luôn thể
hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện kiểm sát nhân dân chính thức ra đời
theo Hiến pháp năm 1959 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân luôn được Hiến
pháp xác định là cơ quan nhà nước có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước
nhà nước. Viện kiểm sát nhân dân là thiết chế du nhập từ mô hình tổ chức
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan độc lập thực
hiện chức năng công tố và kiểm sát chung. Vị trí này được xác định trong
các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực
tiễn đổi mới tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) đã
giới hạn chức năng của Viện kiểm sát nhân dân: công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp. Những thảo luận gần đây tiếp tục đặt ra đối với việc đổi mới
thiết chế Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến các vấn đề như chuyển từ mô
hình Viện kiểm sát nhân dân thành Viện Công tố, xây dựng Viện kiểm sát
nhân dân theo khu vực; sự ảnh hưởng của Viện kiểm sát trong hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân thông qua chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp...
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII đã
thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản
Hiến pháp này, chế định Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận tại Chương
VIII (cùng với Tòa án nhân dân) gồm 3 điều (Điều 107, 108, 109), quy định
về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, nguyên tắc cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, sự giám sát của các cơ quan


2

dân cử đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Các quy định về Viện
kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý mang tính nền
tảng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân qua đó khẳng định được vị trí, vai
trò quan trọng của hệ thống cơ quan này. Quy định về Viện kiểm sát nhân

dân đảm bảo phù hợp với chủ trương của Đảng đã được nêu trong Cương
lĩnh, các văn kiện khác của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII và các
Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới, bảo đảm
ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục khẳng định vai trò, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc hoạt động của
Kiểm sát viên khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; sửa
đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương
cải cách tư pháp. Do đó, việc nghiên cứu tổng thể và có hệ thống về chế định
Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp 2013 hiện nay có ý nghĩa cả về
phương diện lý luận và phương diện thực tiễn, qua đó có cái nhìn toàn diện về
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân
trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Chính vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Vị
trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học cấp Nhà
nước, cấp Bộ, Luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư
pháp Việt Nam có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân như Đề tài khoa học
"Nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của Viện Công tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp" năm 2006, "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các
thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà


3


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" năm 2006; Luận
văn Thạc sĩ luật học: "Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư
pháp", của Phạm Thị Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011,
Luận án Phó tiến sỹ Luật học: “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam” của Khuất Văn Nga, năm
1993; sách chuyên khảo: "Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", của GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Tư
pháp, 2006; "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước", của GS.TS.
Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải, 2002; "Hệ thống tư pháp và
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", của tập thể các tác giả do GS.TS.
Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2002; “Cơ quan công tố một số
nước: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Indonesia, Thái Lan” của TS. Lê Hữu Thể... Bên cạnh đó còn có các bài viết
liên quan đến chế định Viện kiểm sát nhân dân cũng như những nội dung đổi
mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp
chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền", của TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002;
"Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp", của Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; Tạp chí
kiểm sát số 13 (tháng 7/2012) số chuyên đề: tổng kết thi hành và nghiên cứu
và đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992…
Các công trình khoa học, những bài viết đã nghiên cứu, đánh giá về
những khía cạnh khác nhau trong chế định Viện kiểm sát nhân dân, tuy nhiên
đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện, sâu sắc về vị trí, vai trò Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc công trình nghiên cứu đã quá cũ,
không còn phù hợp với thực tiễn theo Hiến pháp và pháp luật cũng như các

vấn đề đặt ra trong việc sửa đổi Hiến pháp 2013 về chế định Viện kiểm sát


4

nhân dân. Do vậy đề tài “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" không trùng lặp với bất
kỳ đề tài khoa học, luận văn, luận án nào. Mặc dù vậy, các công trình khoa
học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu
và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Việt Nam theo các bản Hiến pháp
Việt Nam từ các quy định Hiến pháp đến tổ chức thực thi Hiến pháp. Đồng
thời luận văn cũng đi sâu đánh giá những quan điểm, đề xuất và những vấn
đề mới đặt ra trong bản Hiến pháp năm 2013.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát
nhân dân qua các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 có tham chiếu với
quy định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp ở một số nước trên thế giới, từ đó
có sự đánh giá toàn diện và lịch sử về vị trí hiến định của Viện kiểm sát nhân
dân trong các bản Hiến pháp này, làm cơ sở đối chiếu, so sánh.
Thứ hai: luận văn làm rõ về những quy định của Hiến pháp về vị trí,
chức năng nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được
quy định cụ thể trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời đánh
giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát hiện nay.
Thứ ba: trên cơ sở lý luận, thực tiễn thực thi các quy định của Hiến
pháp về Viện kiểm sát nhân dân, luận văn đánh giá các quan điểm, đề xuất

và những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi cũng như chấp hành Hiến
pháp 2013.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Nghiên cứu


5

quá trình hình thành, phát triển của Viện kiểm sát các nước trên thế giới,
trong khu vực và ở Việt Nam. Nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát ở nước ta. Cùng với những quan điểm của Đảng và những
yêu cầu đổi mới Viện kiểm sát, xây dựng mô hình và giải pháp thực hiện
việc đổi mới Viện kiểm sát.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề rất rộng và liên quan đến
nhiều lĩnh vực. Do vậy phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn là
những quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp được cụ thể
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, có sự so sánh, đánh giá với các
bản Hiến pháp trong lịch sử quy định về cơ quan Viện kiểm sát từ đó có
những quan điểm nhằm hoàn thiện các quy định về Viện kiểm sát.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu về vị trí,
vai trò Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Việt Nam theo Hiến
pháp Việt Nam. Ngoài ra, các lý luận liên quan đến chế định Viện kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn trước đây đã được tổng hợp, đúc kết sẽ được sử
dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu đề tài cùng với vận dụng kết quả

nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến vị trí, vai trò, chức
năng, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát cũng như các những quan
điểm trong việc sửa đổi chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp
đã được nêu trong các bài viết, hội thảo khoa học để làm sâu sắc thêm các
luận điểm.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu,
logic, bình luận...
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ
khoa học về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn… của Viện kiểm


6

sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
- Khái quát quá trình hình thành, phát triển của Viện kiểm sát nhân
dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam và mô hình Viện kiểm sát nói chung
trên thế giới để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm vận dụng trong
việc đổi mới Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu của
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đánh
giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo quy định
của các bản Hiến pháp qua các thời kỳ.
- Phân tích các quan điểm, đề xuất hoàn thiện những điểm mới của
Hiến pháp 2013 về Viện kiểm sát nhân dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trong quá trình Hiến pháp năm 2013 đang
được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của luận văn

sẽ góp phần làm sáng tỏ vị trí Hiến định của Viện kiểm sát nhân dân trong
Hiến pháp Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức về vị trí của Viện kiểm sát
nhân dân trong Bộ máy nhà nước; về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
Qua phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của Viện kiểm sát
hiện nay, luận văn khẳng định tính tất yếu của chủ trương cải cách tư pháp
hiện nay của Đảng, đóng góp những đề xuất cho việc hoàn thiện chế định
Viện kiểm sát trong Hiến pháp hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên, học viên cao học và những người quan tâm trong việc
nghiên cứu chế định Viện kiểm sát nhân dân trong bối cảnh Hiến pháp năm
2013 vừa mới ra đời.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chương được kết cấu như sau:


7

Chương 1. Cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương 2. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật.
Chương 3. Phương hướng tiếp tục hoàn thiện về vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.


8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1.

Khái quát sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát trong bộ
máy nhà nước
Nhà nước ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và
sau ba lần phân công lao động xã hội, là bộ máy chuyên chính của một giai
cấp. Nói cách khác, nhà nước ra đời khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia
giai cấp và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được. Trong lịch sử nhà
nước và pháp luật, quyền lực nhà nước được tổ chức dưới nhiều hình thức
khác nhau, nó phụ thuộc vào loại hình chính thể nhà nước và điều kiện của
từng quốc gia. Có nhiều loại hình chính thể, nhưng tựu chung có ba loại hình
chính thể: Chính thể tập quyền, chính thể phân quyền và chính thể hỗn hợp.
Loại hình chính thể tập quyền chủ yếu tồn tại và gắn với một nền chính
trị chưa phát triển (chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến). Trong
chính thể tập quyền, quyền lực nhà nước tập trung trong tay Vua. Vua vừa là
nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp, hay nói cách khác Vua là vị quan tòa cao
nhất. Tuy nhiên, để thực hiện quyền lực của mình, Vua vẫn phải tổ chức bộ
máy từ trung ương đến địa phương. Đối với hoạt động tư pháp, dù ở loại hình
chính thể nào cũng bao gồm các hoạt động giám sát, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà tổ chức và hoạt
động tư pháp có một số vấn đề khác nhau. Như vậy, cùng với sự xuất hiện của
Nhà nước, chức năng giám sát (Kiểm sát việc tuân theo pháp luật) và chức
năng buộc tội (Công tố) của Viện kiểm sát ngày nay cũng đã xuất hiện từ rất
sớm chỉ có điều tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau (có thể do một hay
nhiều chủ thể khác thực hiện), song Viện kiểm sát chính thức thực hiện chức

năng này kể từ khi được hình thành.
Ở phương Tây, ngay trong nhà nước chiếm hữu nô lệ của đế quốc Ba
Tư thời Đa – ri – út (hơn 500 năm TCN), Vua dùng một số chức quan để


9

giám sát công việc địa phương gọi là “Tai mắt của vua”. Trong thời kỳ cổ đại,
phải kể đến ba nhà nước tiêu biểu đó là Hy Lạp, Aten và La Mã. Trong nhà
nước Hy Lạp, Hội đồng Năm quan giám sát được thành lập, có quyền giám
sát vua; có quyền giải quyết mọi công việc ngoại giao, tài chính, tư pháp. Đối
với nhà nước Aten, trong số các cơ quan như: Hội nghị công dân, Hội đồng
500 người, Hội đồng 10 tướng lĩnh và Tòa bồi thẩm là cơ quan quyền lực tối
cao của nhà nước. Hội nghị công dân có quyền lực tối cao của nhà nước,
quyết định những vấn đề lớn như: chiến tranh và hòa bình, giám sát các cơ
quan nhà nước và xét duyệt những việc quan trọng nhất của Tòa án. Tòa bồi
thẩm là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất. Đối với nhà nước La Mã
(nhà nước Cộng hòa Quý tộc chủ nô), Hội đồng nguyên lão cũng giống như
Hội nghị công dân của nhà nước Aten là cơ quan quyền lực của nhà nước, có
quyền quyết định những vấn đề lớn của đất nước như: phê chuẩn bổ nhiệm
quan lại cao nhất, thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, có quyền thành
lập tòa án, điều tra sơ bộ các vụ án quan trọng, có quyền giải thích và kiến
nghị xây dựng luật mới. Hội đồng quan án chuyên giải quyết các vấn đề hình
sự, dân sự. Ngoài ra, còn có Viện giám sát (hay còn gọi là Viện bảo dân) do
đại hội nhân dân bầu ra, ban đầu có hai người, sau tăng lên bảy người, cuối
cùng là mười người có quyền phủ quyết những quyết nghị của Hội đồng
nguyên lão, có quyền bắt giữ và lấy phúc cung của quan lại hoặc nhân viên
nhà nước. Trong thời kỳ Cộng hòa hậu kỳ, các quan chức hành chính cũng
được trao quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự. Thẩm phán vừa làm công
việc điều tra, xét hỏi, vừa kết tội và tuyên bố hình phạt1.

Cũng như phương Tây, các nhà nước phương Đông cổ đại như: Ai Cập,
các nhà nước ở Lưỡng Hà, nhà nước Ấn Độ, nhà nước Trung Quốc… chức
năng giám sát và chức năng công tố xuất hiện rất sớm. Trong nhà nước Ai
Cập, người đứng đầu nhà nước là nhà vua (Pharaoh). Vua có quyền bổ nhiệm,
bãi nhiệm, trừng phạt, quyết định mọi công việc của đất nước và là người xét
xử cao nhất. Cơ quan chuyên môn xét xử gồm 06 viện, đứng đầu là một Viên
1

Nông Xuân Trường (2005), “Vài nét về hệ thống tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố Anh – Mỹ”,
Thông tin khoa học pháp lý – một số chuyên đề về Cơ quan công tố một số nước, (3+4), tr. 88


10

Chưởng lý 2. Trong nhà nước Lưỡng Hà, Vua là người đứng đầu nhà nước,
nắm cả thần quyền và thế quyền, dưới vua là các đại thần giúp việc, có cơ
quan tư pháp chuyên trách, có hội đồng thẩm phán, có tòa án tối cao do Vua
điều khiển. Giống nhà nước Ai Cập và Lưỡng Hà, nhà nước Ấn Độ cổ đại là
nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền nên Vua là người đứng đầu và có
quyền uy rất lớn đồng thời dưới vua là một bộ máy quan lại từ trung ương đến
địa phương. Có thể nói, bộ máy nhà nước Ấn Độ cổ đại khá hoàn thiện và tiến
bộ. Đối với nhà nước cổ đại Trung Quốc, thời kỳ này là điển hình cho hình
thức nhà nước quân chủ chuyên chế phương Đông. Nhìn chung, nhà nước
phương Đông cổ đại được tổ chức theo hình thức quân chủ chuyên chế, vua là
người đứng đầu nhà nước, có quyền lực cao nhất về mọi mặt từ thần quyền,
thế quyền đến mọi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều tập trung trong
tay nhà Vua.
Trong chế độ phong kiến, để đảm bảo cho sự tập quyền và đảm bảo cho
sự bền vững quyền lực của mình trong hoạt động tư pháp, ngoài việc thực
hiện hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, Vua đã tiếp tục xây dựng những

thiết chế kiểm tra, giám sát như một “cánh tay nối dài” hay “tai mắt của vua”
để nắm bắt và xử lý kịp thời trong quản lý điều hành cũng như những vấn đề
lớn xảy ra trên khắp cả nước. Do vậy, các tổ chức và cá nhân thực hiện chức
năng kiểm tra, giám sát có một vị trí, vai trò to lớn trong bộ máy nhà nước
phong kiến.
Nhà nước phong kiến Trung Quốc là một trong nhà nước tiêu biểu cho
nhà nước phong kiến nói chung và nhà nước phong kiến phương Đông nói
riêng. Sau khi thống nhất đất nước (năm 221 TCN), Tần Thủy Hoàng tiến
hành xây dựng bộ máy nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế. Hoàng
đế là người đứng đầu bộ máy và nắm mọi quyền hành. Dưới Hoàng đế là là
bộ máy quan lại được tổ chức một cách chặt chẽ. Bộ máy quan lại ở trung
ương gồm Tam Công và Cửu Khanh. Tam Công gồm Thừa tướng, Thái úy và
Ngự sử đại phu. Ngự sử đại phu là người nắm giữ các văn thư quan trọng và
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới, NXB. CAND, Hà
Nội, tr. 65


11

giám sát quan lại. Triều đại nhà Hán (năm 206 TCN đến năm 265 SCN) đã có
một cơ quan mang tên YU SHI có nhiệm vụ giám sát các quan chức trong
triều.Về sau, YU SHI còn được giao nhiệm vụ giám sát tư pháp và hoạt động
xét xử 3. Nhà Đường (năm 618 – năm 907) lập ra Tam Sảnh gồm Thượng Thư
Sảnh, Trung Thư Sảnh và Môn Hạ Sảnh. Thượng Thư Sảnh gồm sáu bộ: Lại
– Hộ - Lễ - Binh – Hình – Công (trong đó bộ Hình quản lý việc xét xử).
Ngoài ra nhà Đường còn lập một số cơ quan khác như: Đại lý tự - cơ quan xét
xử tối cao; Ngự Sử đài – kiểm sát tối cao. Đến nhà Minh (1368 – 1644), đã
tiến hành cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước. Ngự Sử đài được đổi

tên thành Đô Sát viện có chức năng kiểm soát quan lại và xét xử án kiện4.
Nhà Minh không tập trung quyền hành vào một chức quan mà tản ra nhiều cơ
quan như Lục bộ, Tam ti. Tam ti gồm Thừa Tuyên bố Chính sứ ti nắm quyền
quản lý hành chính, Đề Hình án Sát sứ ti nắm quyền tư pháp và Đô Chỉ huy
sứ ti nắm quyền chỉ huy quân sự. Tam ti do triều đình trực tiếp chỉ huy và
thường xuyên chịu sự giám sát của Đô Sát viện.
Ở Việt Nam, hệ thống kiểm tra và giám sát cũng được tổ chức từ rất
sớm. Ngay từ thời nhà Trần (1226 – 1400) đã lập chức quan Ngự sử đài để
thực hiện việc kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện những sai phạm để tâu lên
vua. Nhà Lê (1428 – 1527), Lê Thánh Tông đổi sáu bộ thành sáu viện và đi
liền với nó là sáu khoa chuyên trách kiểm tra, giám sát các Viện, đồng thời
còn có chức quan Ngự sử đài giống như đời nhà Trần. Đến nhà Nguyễn (1802
– 1858), năm 1804, Vua Gia Long thành lập Đô sát viện có chức năng như
Ngự sử đài trước đây, song về cơ cấu tổ chức thì Đô sát viện như là một bộ do
chức quan Đô ngự sử đứng đầu. Theo TS. Khuất Văn Nga: “Cách tổ chức Đô
sát viện năm 1804 cho phép nghĩ đến một hình thức cơ quan công tố nhà
nước chuyên trách lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta, làm cả chức năng giám
sát việc thực hiện quyền lực nhà nước.”5
3

Trần Văn Trung (2006), “Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân
nước CHND Trung Hoa”, Thông tin khoa học kiểm sát, (4+5), tr.3
4
Nguyễn Minh Tuấn (2007), Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới”, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
152-155
5
Khuất Văn Nga (1993), Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, tr. 39



12

Cuối thời kỳ phong kiến, quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành
và phát triển. Giai cấp tư sản muốn xóa bỏ nhà nước phong kiến và xây dựng
nhà nước tư bản, được tổ chức dựa trên nguyên tắc phân quyền với ba cơ
quan có vị trí độc lập nhau đó là: Cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ
quan tư pháp. Do vậy, loại hình chính thể phân quyền gắn liền với nhà nước
tư bản. Tư tưởng phân quyền không phải chỉ có trong nhà nước tư bản mà trái
lại phải khẳng định rằng tư tưởng phân quyền đã có từ trong thời kỳ cổ đại
nhưng phải đến nhà nước tư bản mới được phát triển mạnh mẽ trở thành học
thuyết tổ chức bộ máy nhà nước. Tư tưởng phân quyền bắt nguồn từ thời cổ
đại và được tổ chức trong bộ máy của nhà nước Hy Lạp, La Mã. Trong thời
kỳ này, Aristote (384 – 322 TCN) và Plolybe (201 – 120 TCN) là những nhà
tư tưởng phân quyền đầu tiên trong lịch sử. Các tư tưởng về chính thể phân
quyền tuy mới chỉ sơ khai nhưng đã thể hiện việc chia tách các chức năng lập
pháp, chức năng hành pháp và chức năng tư pháp, được thực hiện bởi các cơ
quan độc lập khác nhau và không vượt quyền nhau. Tuy nhiên, các nhà tư
tưởng này vẫn chưa giải thích lý do tại sao phân quyền, chưa làm rõ mối quan
hệ của ba nhánh, đặc biệt là sự kiềm chế và đối trọng như các nhà tư tưởng
sau này. Đến thời kỳ phong kiến, loại hình chính thể phân quyền không được
nhắc đến, không được tổ chức thực hiện mà chỉ tập trung thực hiện loại hình
chính thể tập quyền. Từ khoảng thế kỷ XVII - XVIII cùng với sự phát triển
của phương thức sản xuất tư bản, giai cấp tư sản đại diện cho phương thức
sản xuất mới đã “phục hưng” tư tưởng phân quyền nhằm xóa bỏ chế độ tập
quyền, hạn chế quyền lực của nhà vua, tiến đến xóa bỏ nhà nước phong kiến.
Tại thời điểm này, nhiều học giả, những nhà tư tưởng lớn đã đưa ra các luận
điểm cần phải phân chia quyền lực thành nhiều loại khác nhau, đề cao vai trò
của pháp luật và sự tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước mà đại diện cho các tư tưởng này gồm có Locke, Montesquieu,
Rousseau, Kant. Kế thừa, phát triển và hoàn thiện tư tưởng của Locke không

ai khác đó là Montesquieu. Theo đó, ông thừa nhận mỗi chính quyền đều có
ba loại quyền lực, song quyền thứ ba không phải là quyền liên bang mà là
quyền tư pháp. Điểm nổi bật và khác biệt của ông so với Locke và các nhà tư


13

tưởng khác là ông xây dựng quan hệ giữa ba nhánh quyền lực theo cơ chế
“kiềm chế và đối trọng” hay “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Đồng thời ông
còn lý giải và đề cập khá đầy đủ, toàn diện, dứt khoát về chủ thể nắm giữ và
mối quan hệ giữa các quyền. Tiếp theo Montesquieu cũng có một số nhà tư
tưởng lớn cũng đề cập đến sự phân quyền như Rousseau, Kant. Phải thừa
nhận rằng, chưa có nhà tư tưởng nào trình bày, lý giải một cách đầy đủ, toàn
diện, cụ thể như Montesquieu. Do vậy, tư tưởng của ông trở thành hạt nhân
của học thuyết “Tam quyền phân lập”. Xuyên suốt các tư tưởng về phân
quyền đã hình thành nên học thuyết “Tam quyền phân lập”, đã cho thấy cốt
lõi của chính thể phân quyền đó là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp do
các cơ quan nhà nước khác nhau đảm nhiệm tạo nên cơ chế kiềm chế đối
trọng và giám sát lẫn nhau. Như vậy, nếu trong loại hình chính thể tập quyền
thì hoạt động tư pháp nói chung và các hoạt động như chức năng của Viện
kiểm sát ngày nay (hoạt động giám sát và công tố) tập trung vào tay một
người thì đến loại hình chính thể phân quyền đã hình thành nên cơ chế kiềm
chế và đối trọng nên sự kiểm tra, giám sát được thực hiện bằng chính cơ chế
phân quyền đó và giữa các bộ phận quyền lực với nhau. Việc phân quyền
ngoài mục đích không để quyền lực tập trung vào một cơ quan hay một cá
nhân nào mà phân quyền còn tạo nên sự kiểm soát, chế ước lẫn nhau nhằm
tạo nên sự cân bằng giữa các nhánh quyền lực đồng thời “chuyên môn hóa”
các quyền. Chính vì vậy, trong loại hình chính thể phân quyền, không có một
cơ quan nào chuyên trách đứng ra để thực hiện chức năng giám sát như chức
năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát trong loại hình chính thể hỗn hợp. Do

đó, Viện kiểm sát trong loại hình chính thể này chủ yếu thực hiện chức năng
công tố nên dù là chính thể quân chủ đại nghị hay chính thể cộng hòa thì Viện
kiểm sát cũng thuộc cơ quan hành pháp hay chính xác hơn chúng ta phải gọi
với cái tên Viện Công tố. Dù cùng là loại hình chính thể nhưng tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội, truyền thống pháp luật của từng quốc gia
mà vị trí, vai trò, tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ của cơ quan Viện kiểm
sát có điểm khác nhau. Ở các nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục
địa như Pháp, Đức, Italia, hệ thống cơ quan thực hiện chức năng công tố được


14

đặt cạnh và tương ứng hệ thống Tòa án nhưng hoạt động độc lập, không phụ
thuộc vào Tòa án. Cơ quan công tố được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung thống nhất dưới sự quản lý, lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Cơ quan công tố có thể hiện vai trò của mình thông qua các chức năng điều
tra, công tố và giám sát các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ở
các nước theo truyền thồng luật án lệ như Anh, Mỹ thì hệ thống Viện Công tố
đặt dưới sư lãnh đạo của Tổng trưởng công tố (Tổng trưởng công tố do Tổng
thống bổ nhiệm) và có chức năng điều tra, chỉ huy điều tra và công tố. Điều
đáng lưu ý là trong thể chế phân quyền thì cơ quan lập pháp có quyền giám
sát Chính phủ nhưng không có quyền trực tiếp giám sát Viện kiểm sát. Do
vậy, Douglas K. Stevenson đã viết về cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực
ở Mỹ như sau: “Hiến pháp quy định sao cho ba nhánh quyền lực riêng rẽ và
khác biệt nhau. Quyền lực của mỗi nhánh được cân bằng một cách thận trọng
bởi hai nhánh quyền lực kia. Hệ thống cân bằng quyền lực này là để không
cho bất kỳ một nhánh quyền lực nào giành được quá nhiều quyền hoặc sử
dụng không đúng quyền lực của mình.”6
Nếu loại hình chính thể phân quyền gắn liền với chủ nghĩa tư bản thì
loại hình chính thể hỗn hợp (gồm phân quyền và tập quyền) lại gắn liền với

chủ nghĩa xã hội. Loại chính thể này là bước phát triển tiếp theo của nhân
loại, do vậy những quốc gia tổ chức bộ máy theo loại hình chính thể này tìm
cách chắt lọc những hạt nhân tích cực, những yếu tố hợp lý đồng thời loại bỏ
những yếu tố tiêu cực của chính thể tập quyền và chính thể phân quyền để xây
dựng chính thể hỗn hợp. Khác với loại hình chính thể phân quyền, tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước trong thể chế hỗn hợp dựa trên cơ sở học
thuyết Mác – Lênin, được trình bày trong tác phẩm nổi tiếng “Bàn về chế độ
trực thuộc song trùng và pháp chế”. Vấn đề Lênin nêu ra không chỉ áp dụng
cho riêng nước Nga mà đây là vấn đề nêu ra áp dụng cho tất cả các nước mà
tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở học thuyết Mác – Lênin, trong đó có cả
nước ta. Với nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung thống nhất, không phân
chia nhưng có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan. Ở đây, quyền lực
6

Douglas K. Stevenson (2000), Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 76-77


15

nhà nước tập trung thống nhất nơi nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước. Tính thống nhất bao gồm cả sự phân công và sự phân
công đó đương nhiên nằm trong một thể thống nhất của quyền lực thống nhất
(Quốc hội cử ra Chính phủ, cử ra Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Như vậy, dù là quyền lập pháp, hành
pháp hay tư pháp cũng đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền nên có chung
mục tiêu vì nhân dân. Tuy nhiên, để tổ chức thực hiện quyền lực của mình,
nhân dân giao quyền lực cho cơ quan quyền lực cao nhất do mình bầu ra đó là
Quốc hội. Quốc hội không thể thực hiện được tất cả quyền lực mà thông
thường thực hiện một số quyền như: Lập ra các cơ quan nhà nước, giám sát
tối cao, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đối với

việc giám sát, ngoài những nội dung trực tiếp thực hiện, còn lại giao quyền
một cơ quan tổ chức thực hiện và có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội.
Như vậy đây là một trong những nguyên nhân cơ bản cho sự ra đời của Viện
kiểm sát.
Ở nước ta, tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và Viện kiểm sát nói
riêng xuất hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể. Nhà nước ta không thừa nhận việc phân quyền nhưng cũng không phủ
nhận những giá trị tích cực của sự phân công và kiểm soát quyền lực theo mô
hình tổ chức bộ máy nhà nước tư bản. Nhà nước ta không đặt vấn đề “cân
bằng quyền lực” giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp mà chỉ xây
dựng và đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất, có sự
phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền nói trên. Nét đặc trưng của sự phân công quyền lực ở nước ta là: “Sự
phân công chuyên môn hóa lao động quyền lực, bảo đảm sự độc lập trong tổ
chức của các cơ quan và sự phối hợp giữa chúng, nhưng đồng thời giữa các
cơ quan cần có sự kiểm soát, giám sát lẫn nhau để phát hiện và ngăn chặn sự
lạm quyền, vượt quyền, làm cho các hoạt động quyền lực đều đặt trong khuôn
khổ pháp luật”7. Khác hẳn với nhà nước tư bản, nhà nước ta không chấp nhận
7

GS. TSKH. Đào Trí Úc (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà
nước – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 116.


16

chế độ đa nguyên đa đảng mà thực hiện nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo duy nhất, tuyệt đối và toàn diện đối với nhà nước. Do
vậy, cũng giống như các quốc gia khác trong loại hình chính thể hỗn hợp,
Viện kiểm sát nước ta hình thành trên cơ sở nguyên tắc tập trung, thống nhất

quyền lực và nguyên tắc đảng lãnh đạo.
Qua xem xét, phân tích ba loại hình chính thể nêu trên, có thể phác họa
nên con đường hình thành và phát triển của Viện kiểm sát. Trong loại hình
chính thể tập quyền (Nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến) hệ
thống tổ chức kiểm tra, giám sát (gọi chung là Ngự sử đài) có tên gọi, cách
thức tổ chức, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn về cơ bản
giống nhau; tùy thuộc từng thời kỳ, từng quốc gia, từng triều đại mà có những
nét đặc trưng riêng. Trong thời kỳ nhà nước chiếm hữu nô lệ chỉ có một chức
quan thực hiện việc giám sát gọi là “Tai mắt của Vua”. Ở thời kỳ phong kiến,
Ngự sử đài làm “Cánh tay nối dài của Vua” chịu trách nhiệm kiểm tra, giám
sát quan lại từ trung ương đến địa phương; nhận đơn kiện và xét xử những
đơn kiện; kiểm tra định kỳ việc giải quyết các vụ án đã giải quyết, phúc duyệt
các án tử hình; làm giám thị trường thi; đặc biệt can ngăn Vua và thực hiện
nhiệm vụ khác do vua phân công. Ngự sử đài luôn có vị trí, vai trò độc lập,
không chịu sự kiểm soát của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước mà chỉ
hoạt động trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Vua. Cơ qaun này đã thể hiện tính
sáng tạo và có ý nghĩa sâu sắc trong tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước. Ngự
sử đài là một thiết chế kiểm tra, giám sát nhằm bảo vệ lợi ích của Vua nhưng
thực chất chỉ do một người nắm giữ nên cũng còn nhiều hạn chế. Như vậy,
qua xem xét vị trí, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, có thể xem đây là
một hình thức phôi thai của cơ quan Viện kiểm sát ngày nay.
Đối với loại hình chính thể phân quyền hầu hết được áp dụng ở nước tư
bản cho nên vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Viện kiểm
sát cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế - văn hóa – xã hội cũng
như truyền thống pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau dẫn tới có đôi chút
khác biệt chủ yếu ở mức độ, hình thái can thiệp để giám sát lẫn nhau. Nhà
nước tư bản tổ chức bộ máy trên nguyên tắc phân quyền, áp dụng triệt để cơ


17


chế “kiềm chế đối trọng”, dùng quyền lực hạn chế quyền lực. Đồng thời, do
thực hiện chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng, các đảng phái chính trị ở các
nước tư bản giữ vai trò rất lớn trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước và nhân viên nhà nước. Với cơ chế này, các nhà nước tư bản không
tổ chức và không cần tổ chức cơ quan giám sát chuyên trách theo mô hình cơ
quan Viện kiểm sát như ở các nước xã hội chủ nghĩa mà chỉ cần tổ chức cơ
quan công tố chủ yếu thực hiện chức năng công tố 8 (chức năng công tố thực
chất là hoạt động áp dụng pháp luật). Mặt khác, sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và mô hình tố tụng cũng là nguyên nhân của sự ra đời và vị trí của Viện
công tố trong bộ máy nhà nước tư bản. Thật vậy, tại một số quốc gia theo hệ
thống án lệ, tố tụng hình sự chủ yếu ở giai đoạn xét xử - tranh tụng tại phiên
tòa. Viện công tố - cơ quan hoạt động công tố trực thuộc chính phủ (hệ thống
hành pháp) và quyền công tố cũng chỉ là một bộ phận thuộc về lĩnh vực hành
pháp. Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, tố tụng bao gồm
khởi tố, điều tra, truy tố (cả công khai tại phiên tòa). Viện công tố - cơ quan
hoạt động công tố được tổ chức nằm trong hệ thống tòa án nhưng dưới sự
lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Và đồng thời quyền công tố luôn gắn
liền với sự buộc tội nên nó được thực hiện trong lĩnh vực duy nhất là tố tụng
hình sự. Cùng với quan điểm này, PGS. TS Nguyễn Thái Phúc cho rằng:
“Viện công tố là cơ quan nhà nước hoạt động chủ yếu trong phạm vi đấu
tranh chống tội phạm, thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự,
tham gia buộc tội nhân danh nhà nước trước tòa án như một bên tranh tụng
bình đẳng với bên bào chữa”9. Với những lý do đã nêu, hầu hết Viện công tố
của các nước tư bản trong loại hình chính thể phân quyền trực thuộc hệ thống
hành pháp là điều dễ hiểu.
Đối với chính thể hỗn hợp, nét nổi bật nhất của loại chính thể này đó là
khắc phục được sự lấn át quyền lực của cơ quan hành pháp đối với các cơ
quan khác trong bộ máy nhà nước, đồng thời khắc phục được những khuyết
8


Lê Hữu Thể (2000), Về vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta, Tạp chí
nhà nước và pháp luật, (7), tr. 10
9
Nguyễn Thái Phúc (2007), Viện kiểm sát hay Viện công tố, Kỷ yếu đền tài khoa học cấp Bộ: Nghiên cứu
những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện công tố ở Việt
Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện khoa học kiểm sát, Hà Nội, tr. 75


18

điểm cố hữu trong chính thể phân quyền và tập quyền. Điểm khác cơ bản giữa
loại hình chính thể tập quyền và chính thể hỗn hợp là trong chính thể hỗn hợp
quyền lực tập trung, thống nhất nhưng không phải do một cá nhân nắm giữ
mà do một tập thể đảm nhiệm. Quyền lực mà tập thể nắm giữ và có được do
nhân dân ủy quyền, chịu trách nhiệm trước nhân dân nên tập thể này có quyền
lực cao nhất trong bộ máy nhà nước, đó chính là Quốc hội. Quốc hội là cơ
quan duy nhất do nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra đồng thời có quyền giám
sát việc sử dụng quyền lực nhà nước của tất cả các cơ quan nhà nước khác và
trên phạm vi toàn quốc. Quốc hội thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình trực
tiếp hoặc gián tiếp thông qua cơ quan mà Quốc hội giao quyền. Cơ quan đó
chính là Viện kiểm sát. Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát
việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Như vậy, dù ở loại hình
chính thể nào, quốc gia nào trên thế giới việc ngăn chặn vi phạm pháp luật,
chống lại sự lạm quyền của các cơ quan công quyền, căn bệnh bản vị, cục bộ
địa phương… nhằm giữ gìn, duy trì và bảo vệ pháp chế là một yêu cầu cấp
thiết và khách quan. Và sẽ không quá nếu cho rằng nhu cầu bảo vệ pháp chế
thống nhất trở thành nguyên nhân ra đời của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, mỗi
quốc gia có những cơ chế giám sát khác nhau, không có sự sao chụp mà phải
dựa trên điều kiện cụ thể về mọi mặt của quốc gia đó để hình thành nên cơ

chế và cơ quan giám sát. Giống như các nhà nước trong loại hình chính thể
hỗn hợp, cùng với việc khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung
thống nhất, không phân chia và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam (nhà nước ta không chấp nhận chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng)
cũng đủ khẳng định sự ra đời, vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ, thẩm
quyền của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước ta. Sự ra đời của Viện kiểm
sát chủ yếu được quyết định bởi bốn sự thay đổi của chế độ pháp luật và hoạt
động tư pháp của nhà nước: Viện kiểm sát ra đời từ sự biến đổi từ “Tòa án
toàn năng” thành “Tòa án phán xử”; từ “Chế độ tư tố” sang “Chế độ công tố”;
từ “Tư pháp tùy ý” thành “Tư pháp trình tự” và từ “Pháp chế phân tán” thành
“Pháp chế thống nhất”10. Về chức năng, Viện kiểm sát cơ bản giống nhau,
10

GS. TS Long Tống Trí (2002), Giáo trình công tác kiểm sát”, Học viện Cán bộ kiểm sát quốc gia Trung


19

song tùy thuộc vào loại hình chính thể, giai đoạn lịch sử, điều kiện cụ thể từng
quốc gia mà việc tổ chức cơ quan hay cá nhân thực hiện chức năng giám sát
và công tố có khác nhau. Qua nghiên cứu nhận thấy có ba mô hình Viện kiểm
sát khác nhau, có mô hình Viện kiểm sát mà chức năng chủ yếu là giám sát,
mô hình khác công tố lại là chức năng chủ yếu và có mô hình Viện kiểm sát
vừa thực hiện chức năng giám sát vừa thực hiện chức năng công tố từ đó vị
trí, vai trò và thẩm quyền của cơ quan này cũng khác nhau. Như vậy, những
yếu tố hợp lý về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Viện
kiểm sát; những quan điểm tiến bộ về mô hình Viện kiểm sát là những giá trị
chung có tính phổ biến. Những giá trị chung này đã nói lên được những đặc
trưng cơ bản vốn có của cơ quan Viện kiểm sát nhằm làm tiền đề, cơ sở cho
sự phát triển bền vững đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Cùng với những

giá trị chung có tính phổ biến đó, những điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội;
truyền thống pháp luật, đặc biệt là yêu cầu của cuộc cách mạng ở nước ta đã
góp phần tạo nên tính đặc thù của mô hình Viện kiểm sát. Kể từ khi thành lập
cho đến nay, Viện kiểm sát nước ta luôn thể hiện trực tiếp bản chất của nhà
nước, là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước;
luôn khẳng định vị trí độc lập và khẳng định vai trò to lớn trong bộ máy nhà
nước:
Thứ nhất, Viện kiểm sát là bộ phận cấu thành trong bộ máy nhà nước,
là cơ quan nhà nước được sắp xếp độc lập, thiết lập riêng biệt, tự trở thành hệ
thống chứ không phải là cơ cấu phụ thuộc hoặc dưới quyền của cơ quan hành
chính hay cơ quan xét xử. Quan hệ của Viện kiểm sát với các cơ quan nhà
nước khác (ngoài cơ quan quyền lực) là quan hệ ngang hàng về Hiến pháp và
pháp luật;
Thứ hai, Viện kiểm sát có quan hệ vị trí trên dưới với các cơ quan
quyền lực, tức là cơ quan quyền lực lập ra và giám sát Viện kiểm sát, cũng có
thể nói, địa vị có tính hợp pháp của Viện kiểm sát là do cơ quan quyền lực

Quốc, NXB. Bắc Kinh, Trung Quốc, tr. 30-33


×