Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Quyền hưởng dụng theo bộ luật dân sự việt nam năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.65 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------------------

ĐÀO THỊ TÚ UYÊN

QUYỀN HƢỞNG DỤNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------------------

ĐÀO THỊ TÚ UYÊN

QUYỀN HƢỞNG DỤNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ HUỆ



Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, đƣợc trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài: ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 4
3.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. ......................................................................... 4
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.......................................................................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu: ............................................................................ 4
5. Nội dung, và phƣơng pháp nghiên cứu...................................................... 5
5.1. Nội dung nghiên cứu: .......................................................................... 5
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:.................................................................... 5

6. Ý nghĩa khoa học của luận văn .................................................................. 6
7. Bố cục của luận văn ................................................................................... 6
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN HƢỞNG DỤNG ....... 7
1.1. Một số khái niệm .................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm Vật quyền........................................................................ 7
1.1.1.1. Định nghĩa vật quyền ................................................................. 7
1.1.1.2. Đặc điểm của vật quyền ........................................................... 13
1.1.1.3. Hệ quả của vật quyền ............................................................... 14
1.1.1.4. Phân loại vật quyền .................................................................. 15
1.1.2. Khái niệm quyền khác đối với tài sản ............................................ 21
1.1.3. Khái niệm Quyền hƣởng dụng ....................................................... 23
1.2. Quy định về quyền hƣởng dụng của một số quốc gia trên thế giới ... 28
1.2.1. Pháp luật Dân sự Thái Lan: ............................................................ 29
1.2.2. Pháp luật Dân sự Philippines ......................................................... 30


1.2.3. Pháp luật Dân sự Pháp ................................................................... 31
1.2.4. Theo pháp luật một số bang của Hoa Kỳ: ...................................... 33
1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền hƣởng dụng. .................................... 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 40
Chƣơng 2 ......................................................................................................... 41
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HƢỞNG DỤNG TRONG BỘ
LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..................... 41
2.1. Quyền hƣởng dụng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 ........... 41
2.1.1. Căn cứ xác lập quyền hƣởng dụng ................................................. 41
2.1.1.1. Theo quy định của pháp luật:................................................... 42
2.1.1.2. Theo thỏa thuận của các bên:................................................... 45
2.1.1.3. Theo di chúc:............................................................................ 46
2.1.2. Hiệu lực của quyền hƣởng dụng .................................................... 46
2.1.3. Thời hạn của quyền hƣởng dụng .................................................... 48

2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời hƣởng dụng .................................... 52
2.1.4.1. Quyền của ngƣời hƣởng dụng ................................................. 53
2.1.4.2. Nghĩa vụ của ngƣời hƣởng dụng ............................................. 56
2.1.5. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản ..................................... 61
2.1.6. Chấm dứt quyền hƣởng dụng ......................................................... 65
2.2. So sánh quyền hƣởng dụng với quyền sử dụng. ................................... 66
2.3. Đánh giá những quy định quyền hƣởng dụng trong BLDS năm 2015 71
2.3.1. Những ƣu điểm ............................................................................... 71
2.3.2. Những hạn chế................................................................................ 73
2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật............................ 79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 1


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Luật La Mã ra đời rất sớm vào khoảng thế kỉ VI – IV TCN khi Nhà
nƣớc La Mã hình thành. Tuy nhiên, thời kì cộng hòa trở đi là giai đoạn phát
triển hƣng thịnh nhất của luật La Mã. Vào thời kì này, lãnh thổ đế quóc La Mã
đƣợc mở rộng nhất và nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh. Luật La Mã lúc
này có những phát triển vƣợt bậc nhƣ: đƣa ra nhiều khái niệm có tính khái
quát, có giá trị pháp lí cao, kĩ thuật lập pháp chuẩn xác, từ ngữ rõ ràng, trong
sáng. Thêm đó, Luật La Mã điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng,
phổ biến, đặc biệt là quan hệ trọng lĩnh vực dân sự về quyền sở hữu và hợp
đồng.
Vật quyền từ xƣa tới nay trên thế giới vẫn đƣợc xem là phạm vi truyền
thống của luật tài sản. Thế nhƣng, vật quyền lại ít đƣợc nhắc đến tên trong các

văn bản pháp luật Việt Nam và ngay cả trong các giáo trình dạy luật dân sự,
mặc dù nội dung của nó đã xuất hiện không ít (tuy chƣa đầy đủ) trong Bộ luật
Dân sự 2005 và trong một số đạo luật khác.
BLDS năm 2015 đã có những thay đổi mới, đặc biệt là quy định về
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo hƣớng tách bạch giữa quan hệ
thực tế của ngƣời chiếm hữu với tài sản và quan hệ giữa chủ sở hữu với chủ
thể có quyền khác đối với tài sản khi có lợi ích trên cùng một tài sản. Bên
cạnh việc kế thừa có sửa đổi quy định về quyền sở hữu, Bộ luật bổ sung chế
định quyền khác đối với tài sản với nội hàm là quyền của chủ thể trực tiếp
nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm 3
quyền: Quyền đối với bất động sản liền kề; Quyền hưởng dụng; Quyền bề
mặt. Sự bổ sung này có ý nghĩa quan trọng nhằm thể chế hóa các nghị quyết
của Đảng và nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân,
sở hữu tƣ nhân; về xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế và điều tiết nền kinh
tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trƣờng; về việc Nhà nƣớc khuyến
khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác


2

yên tâm đầu tƣ, sản xuất, kinh doanh; về nguyên tắc tài sản hợp pháp của mọi
tổ chức, cá nhân đều đƣợc pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa...
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và những ghi nhận về
quyền hƣởng dụng trong BLDS năm 2015, mặc dù hiện vẫn cần thời gian áp
dụng quy định vào thực tiễn để có thể thấy đƣợc cái nhìn cụ thể hơn về việc
áp dụng quy định này có phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam hay
không, song việc nghiên cứu, tìm hiểu về quyền hƣởng dụng trong BLDS
năm 2015 hiện nay vẫn là việc rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 chính thức có hiệu lực vào ngày

01/01/2017 đã ghi nhận quyền của ngƣời không phải là chủ sở hữu đối với tài
sản trong đó có quyền hƣởng dụng. Tuy nhiên, trên thế giới việc quy định và
nghiên cứu về quyền hƣởng dụng đã có từ rất lâu đời. Việt Nam cũng đã có
những công trình nghiên cứu tìm hiểu quy định về quyền hƣởng dụng với
mục đích đƣa vào giảng dạy tại các trƣởng đại học nhƣ Giáo trình Luật La Mã
của TS. Nguyễn Ngọc Điện - trƣờng Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật La Mã
của trƣởng Đại học Luật Hà Nội, Lịch sử văn minh thế giới do Vũ Dƣơng
Ninh chủ biên... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về quyền hƣởng dụng
trong các Giáo trình vẫn thiên nhiều về tính lịch sử và mang tính chất giới
thiệu.
Trƣớc khi BLDS 2015 ra đời thì đã có rất nhiều bài báo, tạp chí của
nhiều tác giả nghiên cứu về quyền hƣởng dụng, trong số đó, nổi bật nhất cần
kể các bài viết của tác giả Ngô Huy Cƣơng – Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội – ngƣời đã có nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề này, tạo tiền đề nghiên
cứu cho các công trình nghiên cứu sau này nhƣ: “Ý tưởng về chế định quyền
hưởng dụng trong BLDS tương lai của Việt Nam”; “Tham luận 1:Tổng luận
về chế định tài sản trong Dự thảo BLDS 2005 sửa đổi”... Các công trình
nghiên cứu đã Lƣợc giải về các vật quyền và xác định vị trí của quyền hƣởng
dụng, và chỉ ra những quy định về quyền hƣởng dụng theo Luật La Mã và của


3

một số quốc gia trên thế giới chỉ ra các nội dung về khái niệm quyền hƣởng
dụng, quyền và nghĩa vụ của ngƣời hƣởng dụng, quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu, thời hạn quyền hƣởng dụng, căn cứ phát sinh và chấm dứt của quyền
hƣởng dụng... Xong vì các bài viết này đƣợc ra đời trƣớc khi BLDS năm 2015
ra đời, do đó, có những nội dung cần nghiên cứu sâu hơn để phù hợp với quy
định trong BLDS năm 2015 hiện nay.
Sau khi BLDS năm 2015 đƣợc ban hành, đã có nhiều tác giả có công

trình nghiên cứu về vật quyền và đề cập đến quyền hƣởng dụng nhƣ:
- Tác giả Ngô Thùy Dƣơng (2016), Hệ thống vật quyền trong BLDS
năm 2015, Luận văn thạc sĩ luật học. Luận văn có giá trị tham khảo lớn khi đã
có cái nhìn tổng quát về hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015, đồng thời
luận văn cũng có những phân tích, đánh giá về từng loại vật quyền, trong đó
có quyền hƣởng dụng. Song, với vị trí là một quyền thuộc trong hệ thống các
vật quyền khác (vật quyền hạn chế), nên đối với quyền hƣởng dụng luận văn
mới chỉ dừng lại ở những phân tích và đánh giá ban đầu, chƣa có cái nhìn sâu
sắc hơn đối với riêng vấn đề này.
-

Tác giả Bùi Lê Thu (2016), Những điểm mới trong chế định quyền

sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong BLDS năm 2015 phục vụ hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, Luận văn thạc sĩluật học. Cũng
giống nhƣ luận văn “Hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015” của tác giả
Ngô Thùy Dƣơng, luận văn của tác giả Bùi Lê Thu cũng đã có những đề cập
về quyền hƣởng dụng với tƣ cách là một trong các quyền khác đối với tài sản.
Song, luận văn cũng chƣa có sự phân tích, đánh giá cụ thể đối với vấn đề này.
Có thể thấy, hiện nay chƣa có một công trình nghiên cứu nào có nghiên
cứu độc lập về quyền hƣởng dụng đƣợc quy định trong BLDS năm 2015.
Cùng với sự ra đời của BLDS năm 2015 với những ghi nhận về quyền hƣởng
dụng trong Bộ luật đòi hỏi có những công trình nghiên cứu một cách cụ thể về
các quy định về quyền hƣởng dụng bởi đây là một quyền mới đƣợc đƣa vào
BLDS năm 2015 và đƣợc đánh giá là còn khá lạ lẫm đối với ngƣời dân.


4

Do đó, với mong muốn đóng góp vào việc nghiên cứu quy định quyền

hƣởng dụng một cách cụ thể và sâu sắc, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quyền
hưởng dụng theo Bộ luật dân sự Việt Nam năm2015” làm đề tài luận văn
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để thấy rõ đƣợc vị trí của quyền hƣởng dụng trong hệ
thống các vật quyền khác (hay còn gọi là vật quyền hạn chế). Đồng thời phân
tích các quy định về quyền hƣởng dụng trong BLDS năm 2015 để từ đó có
những đánh giá, kiến nghị về các quy định về quyền hƣởng dụng trong
BLDS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền hƣởng dụng, hiểu
đƣợc bản chất pháp lý của quyền hƣởng dụng. Tìm hiểu quy định về quyền
hƣởng dụng trong Luật La Mã, luật một số quốc gia trên thế giới. Phân tích
các quy định của quyền hƣởng dụng trong BLDS năm 2015. Có những so
sánh với quy định trong pháp luật Việt Nam. Từ đó rút ra những mối liên hệ,
những bài học về việc áp dụng các quy định về quyền hƣởng dụng trong
BLDS năm 2015 vào thực tiễn.
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
-

Quy định của pháp luật dân sự về quyền hƣởng dụng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Các quy định về quyền hƣởng dụng trong pháp luật La Mã cổ đại:
khái niệm, đặc điểm, nội dung, lƣợc sử về quy định quyền hƣởng dụng trong
pháp luật La Mã.
-


Quy định về quyền hƣởng dụng của pháp luật một số quốc gia trên

thế giới (nhƣ Pháp, Thái Lan, Hoa Kỳ,...)


5

-

Đối với pháp luật Việt Nam: Quy định về tài sản, quyền sở hữu và

quyền liên quan trong Bộ luật Dân sự (năm 2005, 2015).
5. Nội dung, và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu khái niệm, bản chất pháp lý về vật quyền, vật quyền khác
và quyền hƣởng dụng
- Nghiên cứu quyền hƣởng dụng trong Luật La Mã và Luật của một số
quốc gia trên thế giới
- Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về quyền hƣởng dụng
- So sánh quyền hƣởng dụng với quyền sử dụng.
- Đánh giá những quy định về quyền hƣởng dụng trong BLDS năm
2015
- Có những kiến nghị để nâng cao khả năng thực thi pháp luật cũng nhƣ
hoàn thiện các quy định của pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của triết học Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, luận văn dự kiến sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
- Phƣơng pháp phân tích: Dựa vào hoàn cảnh kinh tế, xã hội, những
quy định pháp luật La Mã để rút ra nhận xét và kết luận về quan điểm lập

pháp của các nhà làm luật La Mã; dựa vào những quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam để rút ra quan điểm pháp lý về vấn đề quyền hƣởng dụng
của các nhà làm luật Việt Nam;
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh quy định của pháp luật La Mã và các
quốc gia trên thế giới về quyền hƣởng dụng, thấy đƣợc những nét tƣơng đồng
và khác biệt. So sánh những quy định về quyền hƣởng dụng với quy định về
quyền sử dụng.
- Phƣơng pháp tổng hợp: Từ những phân tích và so sánh để rút ra kết
luận về sự ảnh hƣởng của pháp luật La Mã đối với pháp luật Việt Nam. Rút ra


6

những đánh giá về sự áp dụng quyền hƣởng dụng trong pháp luật dân sự Việt
Nam hiện đại.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về vật quyền, quyền khác
đối với tài sản và quyền hƣởng dụng; phân tích thực trạng quy định về
quyền hƣởng dụng trong BLDS năm 2015; đánh giá những ƣu điểm và
hạn chế còn tồn tại, và từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy
định của pháp luật hiện hành về quyền hƣởng dụng.
7. Bố cục của luận văn
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về quyền hƣởng dụng
Chƣơng 2: Thực trạng quy định về quyền hƣởng dụng trong BLDS năm
2015 và Kiến nghị hoàn thiện


7

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN HƢỞNG DỤNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm Vật quyền
1.1.1.1. Định nghĩa vật quyền
Con ngƣời từ thời kì sơ khai, khi mà ý thức xã hội vẫn còn hạn chế thì
ngƣời nguyên thủy đã biết chiếm giữ những vật chất trong tự nhiên nhƣ hoa
quả, săn bắt thú rừng, sáng tạo ra công cụ lao động tham gia vào quá trình sản
xuất, tạo ra của cải, vật chất để phục vụ cho những nhu cầu cơ bản nhất của
mình. Xã hội loài ngƣời không ngừng phát triển, con ngƣời để chống lại sức
ép của tự nhiên và tìm kiếm sự an toàn, họ buộc phải liên kết với nhau bằng
sự thỏa hiệp tƣơng hỗ hình thành nên một liên minh gọi là Nhà nƣớc1. Khi
con ngƣời từ bỏ trạng thái tự nhiên thì pháp quyền xuất hiện. Sự ra đời của
Nhà nƣớc và pháp luật đã buộc những chủ thể trong quan hệ xã hội phải từ bỏ
các quyền mà họ giữ ở trạng thái tự nhiên để đƣợc hƣởng các quyền khác.
Trong quan hệ tài sản, con ngƣời cần sự công nhận từ xã hội để xác lập quyền
sở hữu của họ lên những của cải mà họ làm ra, cần đƣợc pháp luật bảo vệ và
đƣợc tôn trọng từ các chủ thể khác trong xã hội là một tất yếu khách quan
trong đời sống xã hội dân sự. Nhà nƣớc bằng công cụ quản lý xã hội của mình
là pháp luật, phải thừa nhận khi một ngƣời có tài sản thì họ đƣợc xử sự với tài
sản của mình nhƣ thế nào? Họ đƣợc thực hiện những quyền gì trên tài sản đó?
Có những cơ chế nào bảo vệ địa vị chủ sở hữu của họ đối với tài sản? Với vị
trí quan trọng, vấn đề sở hữu luôn là vấn đề then chốt trong pháp luật dân sự
không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với tất cả các nƣớc khác trên thế giới.
Soi chiếu trong chiều dài lịch sự pháp luật thế giới, các học giả pháp
luật của bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng thƣờng quay về tìm hiểu những
chế định pháp luật xa xƣa từ thời La Mã cổ đại. Bởi lẽ Luật La Mã đƣợc xem
là một biểu tƣợng cổ điển nhất về mặt pháp luật của những biến động trong
1

Nguyễn Thị Hồi (2006), Một số quan điểm về nguồn gốc của Nhà nước , Hội thảo khoa học bàn về Sự ra đời của Nhà nƣớc, tr.5



8

đời sống kinh tế - chính trị của ngƣời La Mã. Nói về luật La Mã, Gomsten
cho rằng: “Nghiên cứu luật pháp phải bắt đầu từ luật La Mã, bởi vì nếu
không nghiên cứu luật La Mã thì tốn phí biết bao công sức một cách vô ích để
tìm thấy cái người ta đã tìm thấy từ lâu”. Cũng không nằm ngoài sức ảnh
hƣởng của Luật La Mã, nhiều quốc gia trên thế giới cho đến ngày nay cũng
chịu ảnh hƣởng sâu sắc về việc quy định các cách thức xử sự gắn với nhóm
hành vi cụ thể tác động lên tài sản.
Khái niệm vật quyền xuất hiện trong Luật La Mã và đƣợc biết đến dƣới
tên gọi jus in re (quyền trên vật), Luật La Mã cũng không đƣa ra đƣợc một
định nghĩa hoàn chỉnh về vật quyền nhƣ đối với trái quyền (jus ad rem). Song,
lý thuyết vật quyền đã đƣợc hoàn thiện trong học thuyết pháp lý Latin vào đầu
thế kỉ XIX, sau khi Bộ luật Napoleon - Bộ luật dân sự đầu tiên trên thế giới ra
đời, song song với sự hoàn thiện của lý thuyết về trái quyền. Tại Bộ luật
Napoleon (1984) vật quyền đƣợc quy định ngay trong phần thứ 2. Trong
BLDS của Nhật Bản vật quyền đƣợc quy định tại phần hai (trái quyền tại
phần ba). BLDS của Đức gồm 5 quyển và vật quyền đƣợc quy định tại Quyển
3. Theo luật vật quyền Trung Quốc định nghĩa: Vật quyền là việc độc quyền
được hưởng thụ hưởng trực tiếp và kiểm soát các thuộc tính cụ thể bao gồm
cả quyền sở hữu, hưởng hoa lợi và an toàn ngay trong quyền sở hữu2.
Do lý thuyết về vật quyền xuất phát từ Luật La Mã nên để hiểu khái
niệm vật quyền ta phải đi từ cách hiểu về “vật” của các luật gia La Mã. Thuật
ngữ “vật” (res) đƣợc sử dụng trong ngôn ngữ pháp lý Latin để chỉ một vật tồn
tại theo tính chất của nó, một vật có biểu hiện vật chất và cụ thể. Mặc khác,
“res” cũng đƣợc hiểu nhƣ một quyền trừu tƣợng mà con ngƣời có đƣợc đối
với vật3. Nếu vật là đối tƣợng của quyền thì con ngƣời là chủ thể của quyền.
Chính trong quan hệ đó mà vật đƣợc coi là tài sản. Do vậy, hiểu theo cách cắt

nghĩa chung nhất thì vật quyền là quyền đối với tài sản.
Bùi Lê Thu (2016), Những điểm mới trong chế định quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong BLDS năm 2015 phục vụ
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, Luận văn thạc sĩluật học, Hà Nội, tr.36
3
Nguyễn Ngọc Điện (2009), Giáo trình Luật La Mã, NXB.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.11 trích trong tài liệu: Ngô Thùy Dƣơng
(2016), Hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.6
2


9

Trong khoa học pháp lý, vật quyền đƣợc hiểu theo hai góc độc khác
nhau:
Thứ nhất: vật quyền đƣợc hiểu là quyền thực hiện trực tiếp và ngay lập
tức trên một vật. Ngƣời có vật quyền thực hiện các quyền của mình mà không
cần sự hợp tác từ ngƣời khác4.
Mặc dù trong Luật La Mã không đƣa ra khái niệm vật quyền một cách
hoàn chỉnh, tuy nhiên lý thuyết vật quyền lại đƣợc xây dựng từ kết quả phân
tích các đặc điểm của quyền sở hữu trong Luật La Mã5. Khái niệm quyền sở
hữu xuất hiện với ý nghĩa ghi nhận quyền năng của con ngƣời đối với tài sản
của họ. Nó có nhiệm vụ xác lập và bảo vệ quyền của chủ sở hữu trong việc
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tƣợng tài sản thuộc quyền sở hữu của
chính mình. Còn theo nghĩa hẹp thì quyền sở hữu đƣợc hiểu là mức độ xử sự
mà pháp luật cho phép một chủ thể đƣợc thực hiện các quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt với những điều kiện nhất định.
Các luật gia La Mã đã nhận xét về bản chất của các quan hệ tài sản do
tính xác định của các quan hệ đó. Để đáp ứng một nhu cầu nào đó, một chủ
thể có thể tạo ra một tài sản hoặc mua một tài sản, trên cơ sở đó họ là chủ sở
hữu đối với tài sản đã tạo ra, đã mua. Khi đã trở thành chủ sở hữu tài sản, họ
có toàn quyền đối với tài sản đó, thực hiện tất cả những hành vi tác động lên

tài sản để thỏa mãn yêu cầu của mình và không phụ thuộc vào ý chí cũng nhƣ
hành vi của ngƣời khác. Ngoài ra, họ cũng có thể thỏa thuận với ngƣời khác
(ngƣời là chủ sở hữu của tài sản) để sử dụng tài sản trong một thời hạn nhất
định, trong trƣờng hợp này họ sử dụng tài sản trong khuôn khổ đã thỏa thuận
và phải trả lại tài sản khi hết thời hạn sử dụng.
Trong trƣờng hợp thứ nhất, họ là ngƣời có quyền tuyệt đối với tài sản,
quyền tài sản dạng này đƣợc gọi là vật quyền (quyền đối vật). Ở trƣờng hợp
thứ hai, quyền tài sản bị hạn chế bởi sự thỏa thuận và chỉ tồn tại trong một
4

5

Nguyễn Ngọc Điện (2010),”Sự cần thiết của việc vận dụng lý thuyết về vật quyền bảo đảm vào quá trình sửa đổi Bộ luật dân sự”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (02), tr.39
Ngô Thùy Dƣơng (2016), Hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015, Luận văn thạc sĩ luật học,Hà Nội, tr.9


10

thời hạn nhất định, họ thực hiện quyền của mình phụ thuộc vào hành vi của
ngƣời khác hoặc bị chi phối bởi hành vi của ngƣời khác, quyền tài sản dạng
này đƣợc gọi là trái quyền (quyền đối nhân).
Từ sự phân biệt trên ngƣời ta nhận thấy sự khác nhau giữa vật quyền và
trái quyền đƣợc thể hiện ở chỗ đối tƣợng của vật quyền là một vật xác định,
chủ thể quyền trực tiếp tác động lên vật (“attached to a thing”). Còn trái
quyền chính là hành vi chủ thể quyền, có quyền yêu cầu phía bên kia thực
hiện hay không đƣợc thực hiện một hành vi nào đó. Quyền đối vật đƣợc bảo
vệ tuyệt đối, bất cứ ai có hành vi cản trở ngƣời có quyền thực hiện của họ đều
bị coi là bất hợp pháp.
Thứ hai, vật quyền đƣợc hiểu là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy

định về vật với tƣ cách là đối tƣợng của vật quyền, nội dung của các loại vật
quyền, căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện,
bảo vệ vật quyền, các hạn chế mà ngƣời có vật quyền phải tuân thủ khi thực
hiện các quyền năng của mình 6... Nói cách khác, theo góc độ này thì vật
quyền chính là pháp luật về vật, về các quyền của chủ sở hữu và ngƣời không
phải là chủ sở hữu đối với vật.
Trong pháp luật dân sự Việt Nam, xét trong mối quan hệ giữa chế định
quyền tài sản (vật quyền, trái quyền) với bản thân khái niệm tài sản, nếu việc
xây dựng chế định vật quyền dựa trên lý thuyết quyền trực tiếp đối với vật sẽ
không phù hợp trong điều kiện tài sản hiện nay không chỉ gồm vật mà còn
gồm tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản. Đồng thời, nếu xác định quyền sở hữu
là vật quyền trung tâm, thì giới hạn của quyền sở hữu càng không thể chỉ ở sở
hữu đối với vật.
Quyền tài sản là một cách nhìn nhận tài sản nhƣ một khái niệm pháp lý.
Về mặt pháp lý, tài sản có thể đƣợc nhận biết nhƣ là một vật hoặc một quyền.
Việc phân loại tài sản chỉ đƣợc thực hiện sau khi việc lựa chọn cách tiếp cận –
vật hay quyền – đã ngã ngũ. Tài sản đƣợc phân loại theo những cách khác
6

Dƣơng Đăng Huệ (2015), “Nên sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc
hội, số 13 (293), Tr. 5.


11

nhau tuỳ theo nó đƣợc hiểu là vật hay quyền7:
– Là vật, tài sản đƣợc phân loại theo tiêu chí vật lý: vật có thể nhận biết
đƣợc bằng giác quan tiếp xúc gọi là vật hữu hình; trong trƣờng hợp ngƣợc lại
ta có vật vô hình.
– Là quyền, theo đó, quyền tài sản đƣợc chia thành hai lọai quyền là

quyền đối vật và quyền đối nhân. Quyền đối vật là các quyền đƣợc thực hiện
trên các vật cụ thể và xác định; quyền đối nhân bao gồm các quyền tƣơng ứng
với các nghĩa vụ tài sản mà ngƣời khác phải thực hiện vì lợi ích của ngƣời có
quyền (quyền của một ngƣời đƣợc phép yêu cầu ngƣời khác thực hiện một
nghĩa vụ tài sản). Các quyền này đƣợc bảo đảm thực hiện bằng những cách
thức khác nhau. BLDS Việt Nam không chia các quyền tài sản thành vật
quyền và trái quyền. Bộ luật cũng không sử dụng những thuật ngữ nhƣ
“quyền đối vật”, “quyền đối nhân”.
Trong pháp luật dân sự Việt Nam không coi quyền và vật nhƣ là những
cách quan niệm khác nhau, cách hình dung khác nhau về tài sản, mà chỉ coi
đây là các loại tài sản khác nhau.
Cũng do đặt quyền tài sản đối lập với vật mà luật Việt Nam cũng không
có điều kiện tiếp nhận và vận dụng các khái niệm quyền đối vật và quyền đối
nhân nhƣ trong luật Latinh. Nói rõ hơn, Việt Nam không xây dựng khái niệm
quyền thực hiện trực tiếp trên vật: quyền trong luật Việt Nam đƣợc hiểu là
một mối quan hệ giữa một chủ thể và một hoặc nhiều chủ thể khác mà trong
đó một chủ thể đƣợc hƣởng một lợi ích (có hoặc không có tính chất tài sản) và
các chủ thể khác phải tôn trọng sự thụ hƣởng đó. Đặc biệt, việc hoàn thiện
một số quyền tài sản có tính chất của quyền đối vật trong luật Latinh, trong
điều kiện quyền đối vật không tồn tại trong luật Việt Nam, đã đƣợc thực hiện
theo một cách rất riêng và trở nên không dễ tiếp cận bằng các phƣơng pháp
kinh điển.
Đến BLDS năm 2015, trong suốt quá trình xây dựng BLDS, việc nên
7

Nguyễn Ngọc Điện (2005), tlđd chú thích 23, tr.17


12


hay không nên đƣa khái niệm “vật quyền” vào BLDS năm 2015 vẫn còn rất
nhiều tranh cãi.
Nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội, ý kiến của Nhân dân, các chuyên
gia, nhà khoa học cho rằng, các quy định về vật quyền, quyền địa dịch, quyền
hƣởng dụng, quyền bề mặt… rất khó hiểu mà nội hàm không khác nhiều so
với các quy định hiện hành. Do đó, không nên sử dụng các thuật ngữ mới nếu
những thuật ngữ trong BLDS hiện hành đã trở nên thông dụng, không có gì
vƣớng mắc8.
Có ý kiến cho rằng vấn đề của BLDS năm 2015 không phải là có sử
dụng thuật ngữ vật quyền hay không, mà là tinh thần của vật quyền, với ý
nghĩa là một quyền năng rất mạnh của chủ thể đối với tài sản, đó là quyền có
thể đƣợc thực hiện trực tiếp và ngay tức khắc trên một vật mà không phụ
thuộc vào ý chí của ngƣời khác, có đƣợc thể hiện trong BLDS năm 2015 hay
không và ở mức độ nào?9 Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng: “Mặc dù có
không ít ý kiến cho rằng, khái niệm vật quyền mang tính chất vay mượn từ
nước ngoài và gây ra sự khó hiểu, xa lạ đối với người dân, song đây là thuật
ngữ pháp lý đòi hỏi tính chuẩn mực. Do vậy, cách thay đổi tên gọi như dự
thảo là phù hợp, bao quát được nhiều loại quyền đối với vật đang tồn tại
trong nền kinh tế thị trường”10.
Mặc dù có sự tranh cãi rất gay gắt về việc nên hay không nên đƣa thuật
ngữ “vật quyền” vào BLDS hay không, nhƣng đến khi Bộ luật đƣợc ban hành
vẫn không sử dụng thuật ngữ vật quyền nhƣng dựa vào khái niệm, tính chất
cũng nhƣ các quy định về quan hệ tài sản trong BLDS năm 2015 so sánh với
học thuyết vật quyền và luật của các nƣớc áp dụng học thuyết này ta có thể
xác định hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015.
Việc xây dựng hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015 đƣợc thực
8 Trƣơng Thị Diệu Thúy (2017), “Một số suy nghĩ về quy định liên quan đến vật quyền trong BLDS năm 2015”, Nghiên cứu lập pháp,
(03), tr. 38
9 Trƣơng Thị Diệu Thúy (2017), tlđd chú thích 25, tr.38
10 Theo Luật sƣ Lê Duy Lãm, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp - />


13

hiện dựa trên tiêu chí đối tƣợng của vật quyền có thuộc sở hữu của ngƣời có
quyền hay không. Quyền sở hữu vẫn đƣợc xây dựng là vật quyền trung tâm
của hệ thống vật quyền. Còn các vật quyền khác của ngƣời không phải là chủ
sở hữu đƣợc xây dựng trên cơ sở kế thừa của BLDS năm 2005 và tiếp thu từ
BLDS của các nƣớc trên thế giới. Các vật quyền này có tính phái sinh từ
quyền sở hữu và có nội dung hẹp hơn quyền sở hữu.
Nhƣ vậy, mặc dù BLDS Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “vật
quyền” nhƣng điều ấy không có nghĩa là pháp luật dân sự Việt Nam phủ nhận
giá trị cũng nhƣ ƣu điểm của học thuyết vật quyền. Trong BLDS Việt Nam
năm 2005 phần “Tài sản và quyền sở hữu” và phần “Quyền sở hữu và các
quyền tài sản khác” trong BLDS Việt Nam năm 2015 để thể hiện đƣợc tinh
thần của vật quyền, theo đó, vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam đƣợc
quy định theo hƣớng: là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về căn cứ
phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nội dung vật quyền, nguyên tắc thực
hiện, bảo vệ vật quyền, các hạn chế mà ngƣời có vật quyền phải tuân thủ khi
thực hiện các quyền năng của mình.
1.1.1.2. Đặc điểm của vật quyền
Thứ nhất, tính đối vật hay có nghĩa là vật quyền đƣợc thực hiện trực
tiếp lên trên đối tƣợng: Các chủ thể thực hiện vật quyền bằng những hành vi
tác động trực tiếp lên tài sản nhƣ nắm giữ, khai thác công dụng, bảo quản, giữ
gìn tài sản. Đặc điểm này khiến vật quyền khác với trái quyền bởi trong quan
hệ trái quyền thì chủ thể đƣợc thực hiện quyền của mình không phải bằng
hành vi tác động trực tếp lên đối tƣợng mà phải thông qua việc yêu cầu ngƣời
khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định.
Ví dụ: ông A có một chiếc xe máy, ông A có quyền sở hữu với chiếc xe
máy, nhƣ vậy quyền sở hữu của ông A đối với xe máy, một khi đƣợc xác lập,
sẽ hòa nhập vào xe máy, chiếc xe máy đó là của ông A. Để xác lập quyền sở

hữu của mình, chỉ cần có ông A và chiếc xe máy, ông A có toàn quyền trong
việc chiếm hữu chiếc xe máy, sử dụng, khai thác công dụng chiếc xe máy


14

(cho thuê, chở ngƣời, chở đồ…), thậm chí là định đoạt số phận của chiếc xe
máy ấy (mua bán, phá hủy, tháo dỡ, lắp ráp…)
Thứ hai, tính tuyệt đối (theo tiếng Latinh là “erga omnes”): vật quyền
đƣợc bảo vệ một cách tuyệt đối khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể nào
khác. Vật quyền có hiệu lực với tất cả mọi ngƣời. Trong quan hệ vật quyền thì
chủ thể trung tâm là ngƣời có vật quyền, mọi ngƣời khác đều có nghĩa vụ tôn
trọng quyền của ngƣời mang vật quyền. Pháp luật cho phép ngƣời mang vật
quyền đƣợc kiện chống lại hành vi xâm phạm của bất kì chủ thể khác. Ở
nhiều quốc gia trên thế giới đều có quy định về việc bảo vệ quyền sở hữu của
chủ sở hữu tài sản trong trƣờng hợp tài sản bị một ngƣời thứ ba lấy khỏi chủ
sở hữu, mà hành vi lấy tài sản này nằm ngoài ý chí và sự mong muốn của chủ
sở hữu bằng phƣơng thức trái pháp luật nhƣ trộm, cắp, lừa đảo...
Và để đối kháng với ngƣời thứ ba, thì vật quyền phải đƣợc tồn tại một
cách rõ ràng, minh bạch. Để công bố sự tồn tại của vật quyền, luật của các
nƣớc cũng thiết lập hệ thống đăng ký hệ thống đăng ký bất động sản nhằm
công khai hóa quyền, qua đó bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên và là điều kiện để đối kháng với ngƣời thứ ba.
Thứ ba, vật quyền phải đƣợc pháp luật quy định: Với đặc điểm là quyền
tuyệt đối, đối kháng với ngƣời thứ ba, vật quyền cần đƣợc công khai và đƣợc
pháp luật quy định, nếu không đƣợc luật quy định thì không đƣợc công nhận
là vật quyền để đảm bảo cho trật tự giao dịch không bị xáo trộn.
1.1.1.3. Hệ quả của vật quyền
Một là, Quyền đeo đuổi là hệ quả tự nhiên của vật quyền xuất phát từ
tính đối kháng của mọi chủ thể khác của vật quyền. Quyền đeo đuổi đƣợc

thực hiện trực tiếp trên vật, quyền đối vật cho phép ngƣời có quyền chỉ quan
tâm đến sự tồn tại của vật mà không cần biết vật đang nằm trong tay ai, dù ai
đang nắm giữ vật với bất kì tƣ cách ào thì cũng đều phải tôn trọng các quyền
năng của ngƣời có vật quyền. Chủ sở hữu có quyền kiện đòi lại tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình; chủ nợ nhận thế chấp có quyền yêu cầu kê biên và


15

bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ, dù ở thời điểm yêu cầu đƣợc đƣa ra, tài sản
có thể đƣợc ngƣời thế chấp bán cho ngƣời thứ ba và đang nằm trong sản
nghiệp của ngƣời sau này.
Hai là, Quyền ưu tiên cũng là một quyền của ngƣời có quyền đối vật,
khả năng loại tất cả những ngƣời có quyền đối nhân (và cả những ngƣời có
quyền đối vật xếp sau mình trong thứ tự đăng ký) ra khỏi cuộc chạy đua nhằm
thực hiện các quyền đối với tài sản liên quan. Ngƣời mua tài sản, sau khi
quyền sở hữu tài sản mua đã đƣợc chuyển giao mà tài sản chƣa đƣợc giao, có
quyền ƣu tiên đối với tài sản so với các chủ nợ của ngƣời bán trong trƣờng
hợp ngƣời bán lâm vào tình trạng phá sản: nếu ngƣời mua tuyên bố nhận tài
sản thì chủ nợ của ngƣời bán không có quyền yêu cầu kê biên tài sản đó.
Quyền ƣu tiên của ngƣời có quyền đối vật phát huy rõ nét nhất trong trƣờng
hợp quyền đối vật magn tính chất của một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ: ngƣời nhận thế chấp hoặc cầm cố có quyền ƣu tiên đƣợc thanh toán
bằng số tiền bán tài sản thế chấp hoặc cầm cố so với các chủ nợ không có bảo
đảm của ngƣời thế chấp và ngƣời cầm cố.
1.1.1.4. Phân loại vật quyền
Theo pháp luật La Mã cổ đại thì các luật gia La Mã đã chia vật quyền
thành hai loại là quyền trên tài sản của mình (tức quyền sở hữu – jus in re
propria) và quyền trên tài sản của ngƣời khác (tức vật quyền khác ngoài
quyền sở hữu – jus in re aliena). Những vật quyền khác ngoài quyền sở hữu

là các vật quyền không đầy đủ bằng quyền sở hữu và các quyền này cắt giảm
bớt quyền của chủ sở hữu tài sản bởi các vật quyền khác ngoài quyền sở hữu
có đƣợc là do chủ sở hữu co một ngƣời hƣởng lợi ích trên tài sản của mình11
Quyền sở hữu đƣợc coi là vật quyền lớn nhất làm khuôn mẫu cho các
vật quyền khác. Nó đƣợc xem là vật quyền thống trị12. Trong pháp luật La
Mã, các luật gia La Mã cổ đại không để lại cho chúng ta một khái niệm chính
11

William Liversey Burdick (2004), The Principles of Roman Law and their Relation to Modern Law, The Lawyers Co.Operative
Publishing.
12 Ngô Huy Cƣơng (2015), Tham luận 1:Tổng luận về chế định tài sản trong Dự thảo BLDS 2005 sửa đổi, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học
Chế định tài sản, nghĩa vụ, hợp đồng trong dự thảo BLDS sửa đổi, Hà Nội, tr1-12.


16

xác về quyền sở hữu, nhƣng họ lại nêu ra những quyền năng cơ bản của chủ
sở hữu. Chủ sở hữu có quyền sử dụng đồ vật (ius utendi), quyền thu hoạch
sản phẩm, lợi tức (Fruendi), quyền định đoạt (ius abutendi), quyền có đồ vật
(ius possidendi) và quyền đòi lại đồ vật (ius vindecandi) – và mọi thứ quyền
lực đối với đồ vật mà pháp luật cho phép13.
Quyền đối với tài sản của người khác (iusa in re aliena). Đƣơng nhiên
đây là một chế định khá đặc biệt thời bấy giờ, vì bề ngoài chế định này có vẻ
nhƣ bất hợp lý khi mà một ngƣời không phải chủ sở hữu đồ vật nhƣng lại có
quyền hạn đối với đồ vật đó. Quyền trên tài sản của ngƣời khác đƣợc hiểu là
quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu của tài sản đó nhƣng lại đƣợc cấp
cho quyền sử dụng và hƣởng những lợi ích mà tài sản đó mang lại. Quyền
trên tài sản của ngƣời khác đầu tiên xuất phát từ khái niệm Servitus (Quyền
dụng ích)14.
Servitus là loại quyền thuê đất của ngƣời khác để đảm bảo việc sản xuất

và sinh hoạt trên đất của mình khi ở đó không đủ mọi điều kiện tối thiểu nhất.
Về sau này không chỉ tồn tại Servitus dƣới dạng quyền sử dụng đất đai
của ngƣời khác, mà có dạng Servitus – sử dụng tất cả mọi thứ đồ vật khác. Ví
dụ: ngƣời lập di chúc trao quyền thừa kế đồ vật cho A và lại còn cho B sử
dụng vĩnh viễn đồ vật đó (Quyền hƣởng dụng).15
Nhƣ vậy, Quyền trên tài sản của ngƣời khác có hai nhánh lớn là địa
dịch (dịch quyền thuộc vật – predial servitude or real servitude) và dịch
quyền thuộc ngƣời (personal servitude):
Dịch quyền thuộc vật hay địa dịch là một quan hệ trọng đó một bất
động sản gánh chịu dịch chuyển hay dịch lụy vì lợi ích của một bất động sản
khác. Từ thời La Mã cổ đại có lẽ ngƣời ta đã xét đến việc bất động sản có thể
bị chuyển nhƣợng và quyền trên bất động sản đối kháng hay loại trừ tất cả
những ngƣời khác, do đó đã chia hai bất động sản liền kề thành bất động sản
Đại học Quốc gia Hà Nội (Khoa Luật Đại học Tổng hợp), Giáo trình Luật La Mã, NXB.CAND–Tr.61
Đại học Quốc gia Hà Nội (Khoa Luật Đại học Tổng hợp), tlđd chú thích 11
15 Đại học Quốc gia Hà Nội (Khoa Luật Đại học Tổng hợp), tlđd chú thích 11, tr. 62
13
14


17

gánh chịu dịch quyền và bất động sản đƣợc hƣởng dịch quyền. Bất kể ai có
quyền đối với các bất động sản đó đều phải gánh chịu hoặc đƣợc hƣởng dịch
quyền tƣơng ứng, có nghĩa là dịch quyền hay mối quan hệ dịch quyền đƣợc
gắn trực tiếp vào các bất động sản liền kề. Kỹ thuật lập pháp này rất quan
trọng và bảo đảm sự ổn định về trậ tự các quan hệ hàng xóm. Dịch quyền ở
đây có thể là lối đi lại, quyền dẫn nƣớc, thoát nƣớc, quyền trổ cửa…
Dịch quyền thuộc người là một quan hệ mà trong đó, một tài sản tự
gánh chịu dịch quyên hay dịch lụy vì lợi ích của ngƣời khác. Nó đƣợc chia

nhỏ thành các vật quyền cụ thể, trong các vật quyền đó thì quyền hưởng dụng
(Ususfruct) là vật quyền lớn nhất.16
Quyền hƣởng dụng theo luật La Mã định nghĩa là quyền suốt đời nhƣng
không đƣợc thừa kế cho ngƣời khác và không đƣợc chuyển nhƣợng. Ngƣời có
quyền này phải sử dụng đồ vật nói trên nhƣ một ngƣời chủ tốt và sử dụng
đúng chức năng đồ vật (ví dụ ngƣời có quyền hƣởng dụng đƣợc sử dụng vƣờn
nho, anh ta không đƣợc xây dựng nhà ở trên đó cho dù việc xây dựng đó có
ích hơn là trồng nho). Mọi lợi tức thuộc ngƣời hƣởng dụng kể từ ngày chiếm
giữ17.
Quyền dùng đƣợc tách ra từ quyền hƣởng dụng vào cuối thời kỳ Cộng
hòa18. Quyền dùng là quyền năng nhỏ hơn quyền hƣởng dụng bởi ngƣời nắm
quyền này chỉ có thể sử dụng tài sản của ngƣời khác để phục vụ cho nhu cầu
của mình chứ không thể giữ lại hoa lợi. Tuy nhiên, sau này các quy tắc liên
quan tới hoa lợi trong quyền dùng cũng đƣợc nới lỏng hơn, theo đó ngƣời
nắm quyền đƣợc giữ lại số lƣợng hoa lợi vừa đủ để phục vụ cho lợi ích của
mình và gia đình nhƣ không có quyền bán hoặc có bất cứ ngƣời nào khác
hƣởng số hoa lợi này19.
Quyền ở là quyền của một ngƣời đƣợc sử dụng căn nhà của một ngƣời
khác đến hết cuộc đời của ngƣời nắm quyền. Mặc dù trƣớc đó quyền ở bị nghi
16 Ngô Huy Cƣơng (2015), tlđd chú thích 10, tr.6
17
Đại học Quốc gia Hà Nội (Khoa Luật Đại học Tổng hợp), tlđd chú thích 11
18 Xem Andrew Borkowski and Paul du Plessis (2005), Textbook on Roman law. Third edition. Oxford university press. Page 176.
19 Xem Andrew Borkowski and Paul du Plessis (2005), tlđd chú thích 16, Page 176.


18

ngờ về tính độc lập với hai quyền khác là quyền hƣởng dụng và quyền dùng
nhƣng vào cuối thời kỳ Đế chế quyền này đã đƣợc chính thức thừa nhận là

một dịch quyền độc lập20.
Quyền dùng nô lệ hoặc vật nuôi là một dạng đặc biệt của quyền dùng
bởi quyền này chỉ hạn chế trong việc sử dụng hai đối tƣợng là nô lệ và vật
nuôi. Quyền này đƣợc tạo ra dựa trên cơ sở sự thỏa thuận và cũng chỉ đƣợc
thừa nhận là một dịch quyền độc lập cho tới cuối thời kỳ Đế chế.
Kế thừa các quy định từ các luật gia La Mã, ngày nay các luật gia hiện
đại xây dựng các quy định về các vật quyền khác ngoài quyền sở hữu dựa trên
cơ sở do chủ sở hữu cho phép một ngƣời hƣởng lợi ích trên tài sản của mình.
Bên cạnh sự phân loại theo luật La Mã, theo học thuyết pháp lý châu
Âu cũng có nhiều cách phân loại vật quyền. Cách phổ biến nhất là thiết lập hai
nhóm vật quyền là nhóm các vật quyền chính và nhóm các vật quyền phụ.
Vật quyền chính là các vật quyền cho phép ngƣời có quyền thụ hƣởng
các tiện ích vật chất của vật liên quan và việc thực hiện tác động một cách
trực tiếp lên tình trạng vật chất của đối tƣợng. Luật Latin ghi nhận khá nhiều
quyền thuộc nhóm này: quyền sở hữu, quyền hạn chế thực hiện quyền sở hữu
bất động sản (của ngƣời khác), quyền sở hữu bề mặt, quyền thuê đất dài hạn,
quyền hƣởng hoa lợi,… Trừ quyền sở hữu, các quyền còn lại cho phép ngƣời
có quyền khai tác lợi ích từ tài sản của ngƣời khác21.
Vật quyền chính cho phép ngƣời có quyền không chỉ nắm giữ việc
kiểm soát vật chất đối với tài sản mà còn có thể khai thác các khả năng và đặc
biệt là giá trị kinh tế của tài sản. Quyền sở hữu đứng đầu nhóm vật quyền này
do tính chất hoàn hảo của quyền năng: nó tạo điều kiện cho ngƣời có quyền
thu đƣợc lợi ích từ việc khai thác một cách trọn vẹn các khả năng kinh tế của
tài sản. Các vật quyền chính khác có mức độ hoàn hảo của quyền năng thấp
hơn, ví dụ nhƣ: quyền hƣởng hoa lợi chỉ cho phép ngƣời có quyền thu hoa lợi
20 Xem Andrew Borkowski and Paul du Plessis, tlđd chú thích 16, Page 176.
21
Viện khoa học pháp lý (Bộ Tƣ pháp) (2006), Từ điển luật học, NXB. Từ điển Bách Khoa & NXB. Tƣ pháp, Tr.847,848:



19

từ việc khai thác tài sản, chứ không cho phép định đoạt tài sản; với quyền địa
dịch, ngƣời có quyền chỉ đƣợc khai thác đƣợc tài sản ở một khía cạnh nào đó
(chẳng hạn, sự tiện lợi về tầm nhìn, lối đi qua)…
Đặt quyền sở hữu bên cạnh các vật quyền chính khác, có thể nhận thấy
đƣợc các vật quyền chính khác đều chỉ là một phần không trọn vẹn của quyền
sở hữu, đƣợc tách ra từ quyền sở hữu để trở thành một quyền độc lập.
Vật quyền phụ là các vật quyền đƣợc thực hiện không phải nhằm thụ
hƣởng tiện ích vật chất của vật liên quan mà nhằm khai thác giá trị tiền tệ của
vật đó. Các quyền này gắn với một quyền chủ nợ nhằm tăng cƣờng hiệu lực
của quyền chủ nợ đó. Luật gọi chung các giao dịch phát sinh những quyền
này là biện pháp bảo bảo đảm đối vật cho việc thực hiện nghĩa vụ22.
Do đó, vật quyền phụ hay còn gọi dƣới một cái tên khác là vật quyền
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, có tác dụng tạo ra sự an toàn cho ngƣời có quyền
trong quá trình tham gia vào một quan hệ nghĩa vụ với tƣ cách trái chủ. Thay
vì phải lệ thuộc vào vai trò chủ động của thụ trái để có đƣợc sự thực hiện
nghĩa vụ thoả đáng, ngƣời có vật quyền có thể tác động vào giá trị tiền tệ của
tài sản. Loại vật quyền này chỉ trao cho ngƣời có quyền các quyền năng hạn
chế đối với vật; các quyền năng này chỉ phát huy tác dụng trong những trƣờng
hợp đƣợc ghi nhận trong luật và đƣợc thực hiện theo những thể thức nghiêm
ngặt. Quyền của chủ nợ nhận thế chấp, nhận cầm cố là những ví dụ tiêu biểu
cho các vật quyền thuộc nhóm này.
Ngoài các hai cách phân chia phổ biến trên, trên thế giới còn tồn tại
nhiều các phân loại vật quyền khác nhƣ:
Dựa trên quá trình hình thành của từng loại vật quyền và phƣơng thức
tồn tại của chúng, các nhà làm luật đã phân loại vật quyền thành: Vật quyền
chính yếu và vật quyền phụ thuộc. Vật quyền chính yếu là những vật quyền
tồn tại độc lập và vì chính nó; còn vật quyền phụ thuộc lại tồn tại phụ thuộc
vào vật quyền chính yếu. Với cách phân loại này, vật quyền chính yếu chỉ bao

22

Viện khoa học pháp lý (Bộ Tƣ pháp) (2006), tldd chú thích 20, tr.847,848.


20

gồm quyền sở hữu vì vật quyền này đƣơng nhiên tồn tại độc lập mà không
cần phụ thuộc vào bất kỳ quyền nào khác. Vật quyền phụ thuộc bao gồm các
quyền hƣởng dụng, quyền địa dịch, quyền bề mặt, quyền thuê đất dài hạn và
các vật quyền bảo đảm vì những quyền này thực chất đều đƣợc tách ra từ các
quyền năng nằm trong quyền sở hữu nên đƣơng nhiên phụ thuộc vào quyền
sở hữu .
Phân loại vật quyền thành các loại nhƣ vật quyền gốc và các vật quyền
phái sinh. Theo cách phân loại này thì quyền sở hữu là vật quyền gốc (vật
quyền ban đầu), bởi vì theo trình tự thành lập thì quyền sở hữu đối với vật
phải có trƣớc tiên hay là phải đƣợc hình thành trƣớc các vật quyền khác. Sau
khi có quyền sở hữu thì các vật quyền khác cũng sẽ đƣợc hình thành nhƣng
trên cơ sở quyền sở hữu đã có trƣớc đó. Nhƣ vậy, theo cách phân loại này thì
quyền sở hữu chính là vật quyền gốc, các vật quyền khác đƣợc gọi là các vật
quyền phái sinh (Quyền hƣởng dụng, quyền bề mặt, quyền địa dịch, vật quyền
bảo đảm…). Các vật quyền phái sinh này còn đƣợc hiểu là các vật quyền hạn
chế, bởi vì các vật quyền hạn chế luôn mang tính không đầy đủ, trọn vẹn,
không có đầy đủ quyền năng toàn mỹ nhƣ quyền sở hữu.
Với từng tiêu chí khác nhau thì vật quyền sẽ đƣợc phân loại một cách
khác nhau. Song, tựu chung lại, dù hình thức phân loại ra sao thì chủ yếu vẫn
là sự thể hiện mối quan hệ xoay quanh quyền sở hữu và những vật quyền khác
có mức độ quyền năng thấp hơn quyền sở hữu. Trong mối quan hệ đó, quyền
sở hữu là vật quyền trung tâm, có ảnh hƣởng, chi phối đến tất cả các vật
quyền còn lại. Ngƣợc lại, các vật quyền còn lại cũng có tác động ngƣời trở lại

quyền sở hữu theo nhƣ nội dung quy định của vật quyền đó.
Mỗi cách phân loại vật quyền khác nhau có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác lập mối quan hệ giữa các loại vật quyền, để từ đó hình thành hệ
thống tƣ duy, sắp xếp vị trí các vật quyền này trong Bộ luật dân sự phù hợp
hơn, hình thành kết cấu chỉnh thể hệ thống các vật quyền trong Bộ luật dân
sự.


×