Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
---------------------------------------

PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ:
8.34.01.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
(Theo định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI - NĂM 2019


Luận văn được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN HẬU
Phản biện 1: ……………………………...........................

Phản biện 2: ……………………………………………

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ tại:
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
Vào lúc: …… ;

Ngày …. Tháng …. Năm 2019



Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viện Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh đầy biến động của ngành ngân hàng, hoạt động tín dụng là một
trong những hoạt động tất yếu không thể thiếu nhưng lại tồn tại rất nhiều những rủi ro
tiềm ẩn. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng nổi bật đã tạo ra mối
quan hệ giữa các quốc gia, các nền kinh tế và các dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh
đó, hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động trong môi trường cạnh tranh quyết liệt
nhất và chứa đựng nhiều rủi ro nhất cả về tính đa dạng và mức độ thiệt hại. Việc lựa
chọn khách hàng đúng đắn là một lựa chọn mang tính sống còn trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Trước thách thức đó, các NHTM không ngừng tìm kiếm, thu
thập các thông tin về khách hàng bao gồm : thông tin về tình hình hoạt động, tình hình
tài chính, đánh giá xếp loại, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng… các thông tin
này được gọi chung là thông tin tín dụng. Các thông tin tín dụng làm cơ sở vững vàng
để mang lại cho NHTM các quyết định đúng đắn, chắc chắn hơn khi cấp tín dụng, hạn
chế tối đa rủi ro tín dụng, giảm chi phí và thời gian xét duyệt cho vay. Chính nhờ những
lợi ích này mà hiện nay, thông tin tín dụng không ngừng được nghiên cứu, hoàn thiện
và đẩy mạnh trong nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, tạo lá chắn
hữu hiệu cho để hạn chế rủi ro trong ngành Ngân hàng, đảm báo an toàn hệ thống Ngân
hàng Việt Nam góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, do hoạt động thông tin tín dụng tại Việt Nam còn khá mới mẻ, nên
dù đã có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực TTTD nhưng CIC-SBV vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt
động cung cấp TTTD nói riêng. Để góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng; tăng

cường quản lý nhà nước; hỗ trợ hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng góp
phần phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng yêu cầu vốn cho nền kinh tế trong công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, hơn nữa còn hạn hẹp về
quy mô nên dù đã có nhiều cố gắng nỗ lực trong nhiều năm nhưng chất lượng vẫn chưa
so sánh được với chuẩn quốc tế. Trước yêu cầu hội nhập, nhu cầu tín dụng được đánh
giá là ngày càng cao và ngày càng phức tạp đòi hỏi hoạt động này cần được hoàn thiện
và nâng cao hơn nữa trong tương lai. Trong bối cảnh đó, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề
tài "Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ với mong muốn áp dụng những kiến thức tiếp thu được trong
chương trình học đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của CIC-SBV nói riêng
nơi tác giả đang công tác và toàn hệ thống Ngân hàng nhà nước nói chung vì mục tiêu
phát triển phồn thịnh của nền kinh tế nước nhà.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Việc tra cứu thông tin tín dụng khách hàng là một việc không thể thiếu trong
thẩm định cho vay. Trên thực tế, đã có đã có một số công ty về thông tin tín dụng tư
nhân được thành lập nhưng đều không mang lại hiệu quả cao. Hoạt động thông tin tín


2

dụng trên thị trường Việt Nam hiện nay phần đa là hoạt động được tạo ra từ 3 chủ thể
chính : Trung tâm TTTD Quốc gia – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh các tỉnh thành phố và các TCTD.
Vấn đề về thông tin tín dụng đã được nhiều tác giả nghiên cứu, theo các cách
tiếp cận khác nhau và trên các phạm vi khác nhau. Trong đó, có thể kể đến một số
nghiên cứu điển hình sau:
- Luận án: “Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng Ngân
hàng Việt Nam” của Tác giả Nguyễn Hữu Đương - năm 2005- Trường Đại học kinh
tế Quốc dân.
- Luận văn thạc sỹ: “Hoàn thiện Xếp hạng tín dụng nội bộ tại các Ngân hàng

thương mại Việt Nam hiện nay" của Thạc sỹ Nguyễn Thị Tú Quyên- năm 2015- Trường
Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn thạc sỹ: “Giải pháp nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp tại Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” của Thạc sỹ
Trần Chi Hương- năm 2010- Học viện Ngân hàng .
- Luận văn thạc sỹ: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm
thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” của Thạc sỹ Nguyễn Thu Hằngnăm 2006- Học Viện Ngân hàng.
- Khóa luận tốt nghiệp : “ Phát triển hệ thống thông tin tín dụng trong hệ thống
các Ngân hàng Việt Nam hiện nay” – Tác giả Bùi Lê Duy – ĐH Thăng Long – năm
2014
- Luận văn: “Giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá xếp loại tín dụng doanh
nghiệp tại các NHTM ở Việt Nam” của Thạc sỹ Lê Anh Tuấn- năm 2006- Trường Đại
học kinh tế Quốc dân.
Các Luận văn nói trên chỉ mới dừng lại ở mô hình hoạt động của Trung tâm
thông tin Tín dụng Quốc gia Việt Nam, chưa đề cập đến hoạt động thông tin tín dụng
của Ngân hàng Nhà nước do Trung Tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam làm
đầu mối. Chính vì vậy, Luận văn này sẽ góp phần giải quyết và hoàn thiện thêm các
vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra ở tầm Ngân hàng Nhà nước mà các luận văn và bài
viết nói trên chưa giải quyết trọn vẹn.
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Các vấn đề cơ bản cần giải quyết trong luận văn thạc sĩ này là:
 Một số vấn đề cơ bản về hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
 Thực trạng hoạt động thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hiện nay
 Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam



3

3. Mục đích nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là đề xuất một số giải pháp mang tính
thực tiễn và phù hợp giúp hoàn thiện hơn nữa hoạt động của hệ thống TTTD của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở phân tích, đánh giá hoạt động của Trung tâm thông
tin tín dụng Quốc gia Việt Nam – CIC
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu đó, luận văn xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:
- Luận giải về cơ sở lý luận của hoạt động TTTD và hệ thống TTTD của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
- Đánh giá thực trạng mức độ hoàn thiện của hệ thống TTTD Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, những hạn chế còn tồn tại.
- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp có tính khả thi, các kiến nghị nhằm
hoàn thiện hệ thống TTTD của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu : Hệ thống TTTD của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
do Trung tâm thông tín dụng – Ngân hàng nhà nước (CIC) làm đầu mối.
- Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống TTTD của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phục vụ cho hoạt động Ngân hàng, không nghiên cứu TTTD phục vụ cho các ngành
khác, không nghiên cứu về phân tích kỹ thuật, lập trình của hệ thống TTTD .
5. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn là: phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp …
6. Kết cấu của luận văn
Với mục đích và đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu đã được xác định,
luận văn này dự kiến được thiết kế thành ba chương , đi từ lý thuyết đến thực tiễn , cụ
thể như sau:
 Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống thông tin tín dụng

 Chương 2: Thực trạng về hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
 Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam


4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN
TÍN DỤNG
1.1 Hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1.1.1 Khái niệm TTTD và hệ thống TTTD ngân hàng
1.1.1.1.Khái niệm TTTD
Đến nay trên thế giới chưa có tài liệu chính thức nào đưa ra một định nghĩa đầy
đủ về TTTD và hoạt động TTTD. Theo Điều 3, Thông tư 03/2013/TT-NHNN ngày
28/01/2013 của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy định về hoạt động thông
tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có đưa ra khái niệm:
“Thông tin tín dụng là các thông tin về khách hàng vay và những thông tin liên
quan đến khách hàng vay tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.”.
(thông tin về hồ sơ pháp lý, thông tin về tài chính, dư nợ, bảo đảm tiền vay và
tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và thông tin khác có liên quan về khách
hàng)
1.1.1.2. Khái niệm hệ thống TTTD
Hệ thống TTTD (Credit Information System - CIS) là một hệ thống thông tin
kinh tế, được thiết kế đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng ngân hàng. Hệ thống
TTTD là một kết cấu tích hợp giữa các hệ thống tổ chức, cơ chế vận hành mạng lưới
TTTD quốc gia, trong đó hệ thống báo cáo TTTD (Credit information report System)
là cốt lõi.
Hệ thống TTTD ngân hàng là một hệ thống thông tin bao gồm tập hợp những
con người, các thiết bị phần cứng, cơ sở dữ liệu và phần mềm máy tính, thực hiện việc

thu thập, lưu trữ, xử lý, cung cấp TTTD phục vụ cho hoạt động ngân hàng nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
1.1.2 Chu trình vận hành và cấu trúc của hệ thống TTTD
1.1.2.1. Chu trình vận hành của hệ thống TTTD
Nguồn đầu vào
Thu thập

Người sử dụng tin

Xử lý thông tin

Cung cấp tin ra

Kho dữ liệu

Sơ đồ 1.1:. Chu trình vận hành của hệ thống TTTD ngân hàng
( Nguồn: Phòng nghiên cứu phát triển – CIC)


5

1.1.2.2. Cấu trúc của hệ thống TTTD

Hệ thống thông tin tín dụng

Nhà nước
(Tổ chức công)

Tổ chức
tham gia

trực tiếp
hệ thống

Cơ sở dữ liệu
TTTD
Sản phẩm (Báo cáo TTTD)

Cơ sở
pháp lý

Đối tượng
sử dụng sản
phẩm

Nền tảng
công nghệ

Luật pháp; Điều kiện: Kính tế - xã hội, công nghệ, văn hóa tín dụng…

Sơ đồ 1.2. Cơ cấu tổ chức hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng
( Nguồn: Phòng nghiên cứu phát triển – CIC)
1.1.3 Các dịch vụ chính của hệ thống TTTD
1.1.3.1. Dịch vụ cung cấp thông tin tín dụng khách hàng doanh nghiệp
1.1.3.2. Dịch vụ cung cấp thông tin tín dụng khách hàng cá nhân
1.1.3.3. Dịch vụ xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp
1.1.3.4. Dịch vụ chấm điểm tín dụng khách hàng cá nhân
1.1.3.5. Dịch vụ xác nhận tín dụng khách hàng cá nhân
1.2 .Những lợi ích của hoạt động TTTD Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam
Hệ thống TTTD ngân hàng tạo ra lợi ích rất lớn không những cho các NHTM,
NHTW, cho khách hàng, mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể:

1.2.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước TW
- Hạn chế việc sử dụng thanh toán tiền mặt tại các nước đang phát triển, thông
qua việc góp phần đẩy mạnh phát triển thị trường thẻ. Hệ thống TTTD giúp định danh
cho tài khoản mới, quản lý các tài khoản đã có, từ đó mở rộng thẻ tín dụng, giảm chi
tiêu bằng tiền mặt. Tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm soát lạm phát. Thông qua việc
khống chế tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tái chiết khấu... ngân hàng Trung ương gián tiếp
điều hoà khối lượng tiền tệ cung ứng góp phần bảo đảm cho nền kinh tế ở một mức độ
ổn định.
- Góp phần làm minh bạch, lành mạnh môi trường thông tin, nhờ hoạt động
TTTD mà ở nhiều nước từ chỗ chưa có thị trường thông tin hoặc thị trường nhỏ đã dần


6

hình thành thị trường thông tin, tác động của thị trường đã làm cho môi trường thông
tin ở nước đó ngày càng minh bạch, lành mạnh. Thông tin tín dụng có tác dụng tích
cực trong việc chuyển đổi cơ cấu người vay từ khu vực không chính thức sang khu vực
tài chính chính thức, dần dần xoá bỏ được thị trường tín dụng chợ đen, đặc biệt tại các
nước đang phát triển. Điều này giúp NHTW dễ dàng hơn trong công tác quản lý, điều
hành.
- Mang lại nguồn thu không nhỏ cho đơn vị cung cấp TTTD phục vụ một phần
nào đó chi phí cho sự hoạt động của NHTW.
1.2.2. Đối với các TCTD
- Nâng cao chất lượng tín dụng, việc chia sẻ thông tin tích cực đã tạo hiệu ứng
đẩy giúp khách tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, với một
mức lãi suất thấp hơn (do giảm chi phí tự điều tra thông tin). Việc lựa chọn được các
khách hàng tốt giúp cho NHTM nâng cao chất lượng tín dụng và không bỏ lỡ thời cơ
kinh doanh.
- Mở rộng quy mô tín dụng, TTTD góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ
thống ngân hàng và phát triển mở rộng tín dụng, mở rộng cho vay sản xuất, cũng như

tiêu dùng, mua nhà, mua xe ô tô, thẻ tín dụng.
- Thay đổi chính sách cho vay của các NHTM, ở nhiều nước đang phát triển,
người cho vay thường yêu cầu các khoản vay bắt buộc phải có thế chấp toàn bộ giá trị,
hoặc vượt giá trị khoản vay. Độ tin cậy của thông tin sẵn sàng, đồng thời với sự hiểu
biết về xếp loại tín dụng doanh nghiệp và kỹ thuật chấm điểm tín dụng có thể góp phần
tốt hơn cho việc đưa ra chiến lược cho vay, với thông tin tin cậy có thể hướng các
NHTM thay đổi từ chính sách cho vay dựa trên thế chấp đến dựa trên cơ sở thông tin,
đây là một xu thế mới, hiện đại trong hoạt động tín dụng.
1.2.3. Đối với bản thân khách hàng có nhu cầu tín dụng
- Tạo lợi ích cho người vay, giúp tìm hiểu đối tác, đơn giản hóa việc giao dịch
mua bán hàng hóa, mở đại lý, đơn giản hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng khi
đã có hồ sơ lưu trữ tại hệ thống TTTD. Đặc biệt nó hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa là những đơn vị thiếu về tài sản thế chấp, thiếu kinh nghiệm
tiếp cận vốn tín dụng, nhưng lại là loại hình chiếm tỷ trọng lớn, có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
- Giúp làm thay đổi đạo đức kinh doanh của khách hàng vay vốn, vì nếu thực
hiện tốt thì những người vay có ý định xấu, lừa đảo để vay tiền ngân hàng sẽ bị phát
hiện sớm bởi hệ thống TTTD, từ đó làm nản chí những kẻ có ý định xấu, làm nâng dần
văn hoá tín dụng của khách hàng vay.
- Từ những lợi ích trên góp phần phục hồi và thúc đẩy kinh tế phát triển, góp
phần lành mạnh hoá hệ thống tài chính.
- Tóm lại, hệ thống TTTD ngân hàng góp phần hạn chế rủi ro tín dụng, giúp lựa
chọn khách hàng tốt để nâng cao chất lượng tín dụng và mở rộng tín dụng; làm dịch


7

chuyển người vay từ khu vực tài chính không chính thức sang khu vực chính thức; góp
phần nâng cao đạo đức người vay và văn hoá tín dụng; từ đó sẽ góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển. Những kết luận này đã được chứng minh bằng công cụ toán học

thông qua bài toán kinh tế lượng của Craig McIntosh, giáo sư trường đại học California
tại San Diego và Bruce Wydick Trường đại học San Francisco (năm 2004)
1.3. Các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng tới sự hoàn thiện hệ
thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1.3.1. Các tiêu chí đánh giá hệ thống TTTD NHNN VN
- Tính cập nhật của thông tin
- Tính chuẩn xác của dự báo:
- Cảnh báo và định hướng
- Chủ thể sử dụng sản phẩm
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hoàn thiện hệ thống TTTD NHNN VN
1.3.2.1. Nhân tố khách quan
- Thị trường TTTD ngân hàng:
- Hội nhập, hợp tác quốc tế:
- Các văn bản pháp luật:
1.3.2.2. Nhân tố chủ quan
- Mô hình tổ chức:
- Các sản phẩm dịch vụ thông tin tín dụng:
- Công nghệ tin học, truyền thông:
Bên cạnh đó, sản phẩm TTTD cùng với nguồn thông tin khác từ hệ thống thông
tin báo cáo; qua các công cụ quản lý (quản lý các ngân hàng, thanh tra, quản lý ngoại
hối) góp phần tạo nguồn thông tin quan trọng phục vụ cho công tác quản lý điều hành
của NHTW. Thông qua các báo cáo TTTD, NHNN nắm bắt phân tích được tình hình
tín dụng đối với nền kinh tế, đánh giá và dự báo xu hướng tăng trưởng và phát triển tín
dụng. Đồng thời đánh giá được chất lượng khách hàng, chất lượng khoản vay phục vụ
cho công tác phân tích, đánh giá tạo nguồn thông tin đã xử lý phục vụ cho công tác
điều hành chính sách tiền tệ của NHTW; trên cơ sở nguồn thông tin thu thập từ các
TCTD, qua phân tích, xử lý cung cấp cho các TCTD trong hệ thống, góp phần hạn chế
và ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống; sản phẩm TTTD kết hợp các nguồn
thông tin báo cáo thống kê là nguồn thông tin quan trọng để NHTW có thể nắm bắt,
phân tích đánh giá diễn biến của tình hình tín dụng đối với nền kinh tế theo ngành kinh

tế, theo thành phần kinh tế cũng như chất lượng tín dụng theo ngành, theo thành phần
kinh tế. Trên cơ sở đó NHTW có các giải pháp về chính sách tín dụng chất lượnggóp
phần thúc đẩy các ngành, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, thúc đẩy
kinh tế đất nước tăng trưởng.


8

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1 . Khái quát chung về lịch sử hệ thống TTTD Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
2.1.1 Thời kỳ từ 1991 – 1999

Thời kỳ 1991-1993

Thời kỳ 1993-1995

Thời kỳ 1995-1999
2.1.2 Thời kỳ từ 1999 đến nay
2.2
Thực trạng hệ thống TTTD Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.2.1 Hành lang pháp lý của hoạt động TTTD Ngân hàng Nhà nước VN
Hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động TTTD hiện hành gồm:
- Quyết định 1117/2004/QĐ-NHNN, ngày 8/9/2004 của Thống đốc NHNN về
việc ban hành Quy chế hoạt động TTTD.
- Quyết định 987/2001/QĐ-NHNN, ngày 02/08/2001 của Thống đốc NHNN về
việc ban hành Quy chế quản lý, cung cấp và khai thác sử dụng TTTD điện tử.
- Quyết định số 1253/QĐ-NHNN, ngày 21/06/2006 của Thống đốc NHNN về
việc thực hiện phân tích, xếp hạng tín dụng DN.

- Chỉ thị số 08/2003/CT-NHNN, ngày 24/ 12/2003 của Thống đốc NHNN về
việc nâng cao chất lượng tín dụng của các TCTD.
- Chỉ thị số 05/2003/CT-NHNN, ngày 09/09/2003 của Thống đốc NHNN v/v
tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động TTTD.
- Chỉ thị số 04/2004/CT-NHNN, ngày 01/ 04/2004 của Thống đốc NHNN về
việc tăng cường, quản lý, giám sát nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn - hiệu
quả bền vững.
- QĐ số 493/2005/QĐ-NHNN, ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN, ban
hành kèm theo Qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.
- QĐ số 1669/2005/QĐ-NHNN, ngày 18/11/2005 của Thống đốc NHNN v/v
ban hành mức thu dịch vụ TTTD.
2.2.2 Thực trạng hoạt động của hệ thống TTTD Ngân hàng Nhà nước VN
2.2.2.1 Những kết quả đạt được
 Đánh giá chung :
◦ Trải qua gần 20 năm hoạt động, hệ thống TTTD đã ngày càng lớn mạnh và
trưởng thành hệ thống TTTD đã thiết lập được hệ thống thông tin ngày càng mở rộng
với đầu mối chính là CIC, bên cạnh đó còn có sự tham gia của NHNN chi nhánh các
tỉnh, thành phố cùng các TCTD. Hệ thống TTTD đến nay đã theo dõi được khoảng
95% số dư nợ cho vay nền kinh tế với gần 25 triệu HSKH đang có quan hệ tín dụng
tại các TCTD trong đó có khoảng trên 300 ngàn hồ sơ pháp nhân.


9

◦Chất lượng thông tin ngày càng được nâng cao. Trong 6 tháng đầu năm 2018
cung cấp được 309.642 bản trả lời tin trong nước, cung cấp 3.524 bản thông tin XLTD
DN, 52 bản báo cáo thông tin về các DN nước ngoài cho các đơn vị có yêu cầu. Chất
lượng thông tin cung cấp ngày càng phong phú hơn, số liệu dư nợ chính xác hơn, thời
gian cung cấp nhanh hơn so với năm trước.

◦ Xây dựng một kho thông tin tín dụng quốc gia quy mô lớn. Việc xây dựng kho
dữ liệu chuyên ngành có tầm quan trọng trong việc đảm bảo kênh thông tin ổn định,
từng bước đa dạng, phong phú loại thông tin, đáp ứng tăng các chỉ tiêu thông tin để các
TCTD đưa vào việc phân tích đánh giá xếp hạng, chấm điểm tín dụng, áp dụng được
quy trình rủi ro tín dụng.
◦ Xây dựng Hệ thống TTTD điện tử tiên tiến, hiện đại, hiệu quả: Hệ thống TTTD
điện tử được đưa vào sử dụng từ cuối năm 2001, nhanh chóng mang lại hiệu quả, tạo
khả năng phát triển mạnh mẽ. Đến nay, mở rộng hệ thống tới tất cả các chi nhánh
TCTD trên cả nước; hàng triệu thông tin được cập nhật hàng ngày; hơn 99% giao dịch
thu thập, khai thác thông tin tự động. Web-CIC đã cấp quyền sử dụng cho 8.452 người.
Đối tượng là lãnh đạo, cán bộ tín dụng, quản trị rủi ro, cán bộ chuyên nghiệp về TTTD.
Từ hệ thống này, người sử dụng khai thác trực tiếp những sản phẩm thông tin tin cậy.
Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến, hệ thống hiện đại, các TCTD đã và đang
khai thác thông tin tức thời, từng giờ, từng phút để xem xét cấp tin dụng cho khách
hàng vay.
 Cụ thể bằng những con số có thể thấy :
 Chất lượng thu thập và xử lý thông tin
a) Thu thập thông tin
* Phạm vi thu thập tin:
* Nguồn thu thập thông tin:
* Phương thức thu thập thông tin
* Đường luân chuyển thông tin
Đã thiết lập được hệ thống thông tin ngày càng mở rộng với đầu mối là CIC,
NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố và các TCTD. Hệ thống TTTD đến nay đã có 122 TCTD
tham gia báo cáo với gần 70 triệu hồ sơ khách hàng đang có quan hệ tín dụng tại các
TCTD và tổng dư nợ trong kho CIC đạt trên 5.458 nghìn tỷ đồng và 28.251 triệu USD.
Tỷ lệ số TCTD tham gia báo cáo thông tin trên tổng số TCTD tăng đều qua các
năm, đến năm 2017 đã đạt con số 100% TCTD tham gia báo cáo về CIC. Có được con số
này là do CIC đã rất chú trọng việc đôn đốc các TCTD tham gia báo cáo. Thực tế, một số
các TCTD khi mới đi vào hoạt động không biết sẽ phải báo cáo số liệu cho CIC, CIC

thường xuyên rà soát danh sách các TCTD mới đi vào hoạt động làm công văn đôn đốc,
nhắc nhở báo cáo số liệu về CIC hoặc đi công tác trực tiếp đến các TCTD để hỗ trợ phần
mềm báo cáo TTTD, giúp cho các TCTD gửi file báo cáo tốt và nâng cao ý thức của


10

TCTD trong hoạt động TTTD.
+ Về thẻ tín dụng: Đến ngày 10/7/2018, tổng số thẻ tín dụng lũy kế là 4.419.623;
cập nhật 2.615.195 thẻ còn hiệu lực với tổng dư nợ thẻ hiện tại là 28.152.082 triệu đồng.
+ Về thông tin tài chính:
Số bản báo cáo tài chính tăng dần qua các năm từ năm 2011 đến nay, đặc biệt
năm 2013 CIC tập trung vào mảng phân tích xếp hạng DN, tăng cường đôn đốc các
TCTD gửi báo cáo tài chính đặc biệt là 5 NHTM quốc doanh mà hiện nay chỉ còn
lại 4. Các TCTD đã chấp hành tốt việc gửi báo cáo tài chính về CIC, số lượng bản
báo cáo tài chính thu thập được năm 2017 tăng mạnh 155% so với năm 2012 với
34.431 bản báo cáo tài chính.
b) Chất lượng xử lý thông tin:
* Xử lý thông tin đối với hồ sơ K1 và các K có liên quan: Đây có thể nói là
nghiệp vụ truyền thống của CIC và là nguồn đầu vào quan trọng nhất để tạo ra các
sản phẩm đầu ra cũng như là phần đem lại nguồn thu chính cho CIC. Để có được
các sản phẩm đầu ra chính xác, kịp thời và đa dạng hóa các sản phẩm, CIC rất tập
trung chú trọng cho khâu đầu vào này. Ban lãnh đạo CIC luôn luôn quan tâm và
bố trí đủ người, đủ máy để xử lý kịp thời và hiệu quả. Tiến tới, trong tương lai sẽ
xây dựng chương trình xử lý tự động dữ liệu, cán bộ sẽ nâng cao tầm kiểm soát số
liệu báo cáo.
Hệ thống TCTD được phân chia thành 5 khối, trong đó khối các ngân hàng quốc
doanh chiếm tỷ lệ hồ sơ khách hàng và dư nợ cao nhất. Tuy nhiên, nhìn vào bảng số
liệu cũng có thể đánh giá được khối TCTD có chất lượng thông tin tốt, điều đó được
thể hiện ở tỷ lệ HSKH được xử lý cũng như tỷ lệ dư nợ được xử lý. Như vậy, khối các

ngân hàng TMCP có tỷ lệ cập nhật cao nhất, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tỷ lệ
cập nhật thấp nhất. Tỷ lệ cập nhật thấp có thể do nhiều nguyên nhân như: TCTD gửi
thiếu hồ sơ pháp lý của khách hàng hoặc hồ sơ khách hàng gửi đủ nhưng thiếu các chỉ
tiêu chính nhận dạng để cập nhật vào kho… CIC cũng thường xuyên tạo và gửi lại
danh sách các khách hàng này để TCTD bổ sung hồ sơ thiếu hoặc hồ sơ thiếu chỉ tiêu.
* Phân tích xếp hạng tín dụng doanh nghiệp:
Bước 1- Thu thập thông tin
Bước 2 - Phân loại doanh nghiệp theo ngành
Bước 3 - Phân loại doanh nghiệp theo quy mô
Bước 4 –Xây dựng các chỉ tiêu phân tích cơ bản
Bước 5 - Xây dựng bảng tính điểm theo ngành kinh tế, theo quy mô
Bước 6 - Tổng hợp kết quả tính điểm: Căn cứ vào hệ số của các chỉ tiêu, đối
chiếu với bảng điểm để tính điểm cho từng DN.
Bước 7: Đưa ra hệ thống xếp loại tín dụng doanh nghiệp.
Bước 8:Áp dụng kỹ thuật tin học để tính toán, xếp loại tín dụng doanh nghiệp: Mã
hoá các chỉ tiêu thu thập, phân tích thông tin; Lập chương trình phần mềm thích hợp.


11

Bước 9: So sánh kết quả phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp qua các năm;
đưa ra một số nhận xét về điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp, kiến nghị đề xuất.
 Chất lượng lưu trữ thông tin
Đã chú trọng tới việc lưu trữ thông tin để tạo dựng kho dữ liệu lịch sử của NHNN
về thông tin các khách hàng có quan hệ với các NHTM. Tại đây hồ sơ khách hàng bao
gồm hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, tình hình hoạt động và quan hệ tín dụng...các
thông tin đó thường xuyên được cập nhật bổ sung những thay đổi mới nhất và được lưu
trữ theo mã số và có thể tra cứu nhanh, chính xác. Đến nay, phần lớn các CN NHTM đều
báo cáo số liệu tập trung tại hội sở chính, từ đó hội sở chính báo cáo số liệu cho đã nâng
cao vai trò, trách nhiệm của NHTM. Mặt khác, đã cải tiến mẫu file, quy định chỉ báo cáo

file số liệu dạng text không nhận file số liệu Excel như trước đây cũng tạo điều kiện cho
việc báo cáo của các NHTM được thuận tiện, chính xác, chuẩn hóa nên kết quả thu thập
thông tin tại CIC đã có bước chuyển biến tích cực.
Kho TTTD quốc gia thực sự đang là một cơ sở dữ liệu lớn trong hệ thống NH và
có thông tin sẵn sàng để cung cấp các báo cáo thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều
hành của NHNN và cung cấp cho các NHTM theo yêu cầu.
Đến nay, có 122/122 đầu mối TCTD và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.108
quỹ TDND (chiếm 92,8% tổng số Quỹ TDND cả nước) và 30 tổ chức tự nguyện gửi file
báo cáo TTTD về cho CIC theo quy định của Thông tư 03/2013/TT-NHNN. Ngoài ra,
tiếp tục phối hợp và cập nhật thông tin các khoản nợ xấu đã mua từ Công ty quản lý tài
sản của các TCTD (VAMC); cập nhật thông tin hồ sơ doanh nghiệp và báo cáo tài chính
từ Trung tâm hỗ trợ đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch & Đầu tư, cụ thể như sau:
- Về thông tin nhận dạng khách hàng vay (K1): Tổng số khách hàng vay trong kho
dữ liệu TTTD quốc gia đến nay là trên 34 triệu. Riêng trong năm 2017, CIC đã cập nhật
được trên 9,3 triệu hồ sơ khách hàng và nâng tổng số khách hàng trong kho lên trên 69,3
triệu (trong đó trên 1,6 triệu hồ sơ khách hàng pháp nhân, trên 62,6 triệu hồ sơ khách hàng
thể nhân và trên 5 triệu hồ sơ chủ thẻ tín dụng). Đồng thời, CIC đã tiếp nhận và cập nhật
trên 200.000 hồ sơ doanh nghiệp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
- Về thông tin dư nợ (K3): Tính đến 10/11/2017, có hơn 21 triệu khách hàng còn
dư nợ tín dụng (tăng 1,5% so với năm 2016) với tổng dư nợ là 5.458 nghìn tỷ đồng và
28.251 triệu USD.
- Về thông tin hợp đồng tín dụng: Tổng số hợp đồng tín dụng được cập nhật trong
kho dữ liệu đến nay là trên 24,3 triệu, trong đó 24,1 triệu hợp đồng thể nhân và gần 220.000
hợp đồng pháp nhân.
- Về thu thập thông tin tài sản đảm bảo (K4): Đến ngày 10/11/2017, tổng số hồ sơ
K4 cập nhật được là trên 15 triệu hồ sơ (tăng 14% so với năm 2016); trong đó hồ sơ không
có TSĐB là 11,1 triệu hồ sơ, hồ sơ có TSĐB là 4,1 triệu hồ sơ.
- Về thu thập thông tin tài chính doanh nghiệp: Trong năm 2017, CIC đã thu thập



12

và cập nhật được 119.117 bản báo cáo tài chính (giảm 1% so với năm 2016), trong đó có
69.475 báo cáo có lưu chuyển tiền tệ được cập nhật vào kho dữ liệu. Tuy nhiên, CIC đã
mở rộng được nguồn dữ liệu tài chính ngoài ngành từ Bộ KH & Đầu tư, qua đó tiếp nhận
50.000 báo cáo tài chính doanh nghiệp. Hiện nay, CIC đang khẩn trương cập nhật để phục
vụ hoạt động XHTD doanh nghiệp.
- Về thu thập thông tin thẻ tín dụng: Đến nay có 43/43 TCTD phát hành thẻ gửi báo
cáo về CIC, tổng số thẻ tín dụng là hơn 4,4 triệu thẻ (tăng 26,5% so với năm 2016), với
tổng dư nợ là 27.112 tỷ đồng (trong đó số thẻ còn hiệu lực là trên 2,7 triệu thẻ).
- Về hợp đồng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các TCTD: Đến 10/11/2017, CIC
thu thập và cập nhật được từ 37/37 TCTD có nghiệp vụ đầu tư trái phiếu vào doanh nghiệp
với tổng giá trị đầu tư là 201.503 tỷ đồng.
- Về thu thập báo cáo kết quả phân loại nợ theo Thông tư 02: Nhìn chung trong
năm, đa số đầu mối TCTD đã gửi file dữ liệu đúng quy định và cấu trúc về cho CIC. Tuy
nhiên, vẫn còn một số TCTD gửi báo cáo chưa đúng quy định, còn nhiều sai sót, đặc biệt
là các công ty tài chính tiêu dùng.
Qua các năm ta thấy kho dữ liệu TTTD tích luỹ được ngày càng tăng, chứng tỏ
rằng hoạt động TTTD ngày càng mở rộng. Tăng trưởng đều, có khả năng kiểm soát dữ
liệu do tăng cường áp dụng sáng kiến, cải tiến, xây dựng quy trình công nghệ tự
động,đưa công nghệ tin học mới như kho dữ liệu (DataWare House) vào ứng dụng. Dữ
liệu lịch sử trong nghiệp vụ này theo thông lệ quốc tế là 5 năm. Năm 2017 Kho dữ liệu
đã đạt hơn 69 triệu hồ sơ, tổng dư nợ đạt gần 90% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Thể
hiện tiềm lực phát triển cao, do hội đủ khá nhiều điều kiện, kể cả công nghệ, cơ chế
nghiệp vụ, năng động, chủ động đổi mới cơ chế hoạt động. Như vậy, kho dữ liệu có
chất lượng tin cậy hơn, đến nay đã có thời gian lưu trữ trên 5 năm, đạt chuẩn chung
của quốc tế.
Với quy mô kho dữ liệu rất lớn, trên nền công nghệ tin học hiện đại, có thể truy
xuất thông tin tức thời và kho dữ liệu lịch sử duy trì 5 năm, được kiểm soát chất lượng
đầu vào chặt chẽ, có phân tổ chi tiết theo chỉ tiêu thông tin và bổ sung nhiều thông tin

từ các nguồn khác trong và ngoài nước. Đây là một lợi thế to lớn của hệ thống TTTD
VN bước vào hội nhập quốc tế, hỗ trợ cho việc chấm điểm, xếp hạng tín dụng nội bộ
khách hàng vay của các TCTD.
 Chất lượng thông tin cung cấp phục vụ các TCTD
*Đối tượng được sử dụng thông tin: Theo quy định hiện hành của Thống đốc
NHNN, đối tượng được sử dụng thông tin của CIC bao gồm: Các Vụ, Cục, đơn vị thuộc
NHNN; NHNN CN tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TCTD, tổ chức khác có
hoạt động ngân hàng; tổ chức và cá nhân có sử dụng TTTTD.
* Quy định về tra cứu thông tin: việc tra cứu thông tin thực hiện trên website của
CIC, đơn vị được sử dụng thông tin phải đăng ký danh sách người truy cập, được CIC cấp


13

quyền, cấp mật khẩu truy cập. Việc tra cứu thông tin có thể bằng 2 cách tạo phiếu hỏi tin
gửi CIC qua websit CIC hoặc tra cứu tự động trên website của CIC (việc tra cứu tự động
chỉ giới hạn ở một số thông tin nhất định và quy định đối với từng cấp user truy cập như
user truy cập của hội sở TCTD, user truy cập của CN TCTD).
* Các sản phẩm thông tin tín dụng:
+ Báo cáo quan hệ tín dụng: năm 2017, tổng số bản tin quan hệ tín dụng của CIC
là 9.140.128 bản, tăng 43% so với năm 2016. Bình quân mỗi ngày CIC cung cấp trên
4000 báo cáo thông tin về quan hệ khách hàng có quan hệ tín dụng của khách hàng cho
các TCTD; trong đó số bản tin khách hàng có quan hệ tín dụng luôn đạt tỉ trọng cao (
khoảng 78%); TP HCM và Hà Nội vẫn là những khu vực tra cứu thông tin nhiều nhất,
chiếm 30% và 13.5% trong tổng số bản tin trả lời quan hệ tín dụng khách hàng.
+Về sản phẩm cảnh báo tín dụng: Năm 2017, CIC đã cập nhật 2.370 tin – bài
tổng hợp có liên quan đến cảnh báo tín dụng, 317 bài về phân tích cảnh báo tín dụng
đăng tải trên website của CIC. Tính đến thời điểm 10/11/2017, có thêm 63 đơn vị,
CNTCTD đăng ký sử dụng mới với 504 tài khoản khai thác, nâng tổng số các TCTD
đăng ký sử dụng thông tin cảnh báo là 1.478 CNTCTD với tổng cộng 5.751 tài khoản

khai thác sản phẩm này.
+ Về cung cấp thông tin QHTD theo lô, cung cấp dữ liệu xây dựng mô hình:
Trong năm 2017, CIC đã cung cấp TTTD theo lô cho NH TMCP Ngoại thương VN, NH
TMCP Công thương VN, NH TNHH MTV Standard Chartered, NH TMCP Phương
Đông, NH TMCP Đông Á, NH TMCP Á Châu, NH TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, NH TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, NH TMCP Kỹ thương VN, NH TMCP Quân
Đội, Công ty TNHH MTV Mirae Asset, Qũy đầu tư phát triển Đà Nẵng, Ngân hàng
UOB….với tổng số khách hàng được cung cấp là 407.395 khách hàng.
+ Về cung cấp thông tin kết quả phân loại nợ theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN:
Trong năm 2017, CIC đã cung cấp các sản phẩm định kỳ hàng tháng (R18) và sản phẩm
định kỳ hàng tuần (R19) cho 120 TCTD với tổng số hồ sơ khách hàng vay phải điều
chỉnh nhóm nợ tại các TCTD là 120.208 hồ sơ với tổng dư nợ phải điều chỉnh nhóm nợ
là khoảng 68.632 tỷ đồng.
2.2.2.2.Những hạn chế, bất cập
 Đối với Thông tin tín dụng đầu vào
- Một số NHTMCP có chi nhánh ở nhiều địa bàn, nhưng chưa thực hiện tốt vai
trò đầu mối chỉ đạo thực hiện TTTD, nên các chi nhánh tự thực hiện, chưa đảm bảo được
yêu cầu báo cáo TTTD. Một số ngân hàng (chi nhánh, đơn vị trực thuộc) đã báo cáo
nhưng chưa gửi hết hồ sơ khách hàng đang có dư nợ. Có một số ngân hàng mới chỉ báo
cáo những khách hàng là DN, chưa báo cáo khách hàng tư nhân, cá thể.
- Về thời gian báo cáo thông tin còn chưa đều, chưa thực hiện đúng qui định là
phải báo cáo chậm nhất sau 3 ngày làm việc khi có phát sinh quan hệ tín dụng.
- Về thực hiện số lượng các biểu báo cáo chưa thực hiện đầy đủ theo Thông tư 03.


14

- Về chất lượng báo cáo thông tin hồ sơ khách hàng, báo cáo còn thiếu một số chỉ
tiêu (như mã số thuế, tổng số lao động, vốn điều lệ); hoặc có chỉ tiêu không chuẩn xác
(như loại hình khách hàng, ngành kinh tế, ngành nghề kinh doanh); không có font tiếng

Việt. Tình hình tài chính khách hàng còn chưa đầy đủ, thiếu chính xác, cùng 1 DN nhưng
số liệu của các NHTM báo cáo khác nhau.
- Việc mua thông tin ngoài ngành chưa thường xuyên nên chưa có đủ các thông
tin về tài chính của DN ngoài quốc doanh; DN có vốn đầu tư nước ngoài; thông tin về
DN nhà nước giải thể, sáp nhập, cổ phần hoá; thông tin về DN có vấn đề; thông tin
kinh tế khác và phân tích về đầu tư theo ngành nghề, vùng, miền...
- Thu thập dữ liệu đầu vào chưa tốt, chủ yếu mới thu thập được thông tin dư nợ,
còn các thông tin về tài chính, phi tài chính, tình hình tài sản đảm bảo, bảo lãnh, tình
hình tài chính của khách hàng vay thì thu thập chưa bảo đảm yêu cầu. Việc phối hợp
với các bộ, ngành như cơ quan cấp phép thành lập DN, cơ quan thuế, cơ quan tư
pháp...chưa tốt nên chưa có đủ dữ liệu đầu vào cần thiết cho TTTD. Về thông tin pháp
lý của khách hàng cũng gặp nhiều sai sót khi 1 khách hàng có thể có 2 số CMND hoặc
1 số CMND và 1 CCCD dẫn đến việc cấp mã CIC sai cho khách hàng dẫn đến chất
lượng thông tin bị ảnh hưởng.
- Chưa xây dựng được chương trình kiểm soát báo cáo thông tin từ các ngân
hàng và các tổ chức có hoạt động ngân hàng, các thông tin khai thác từ các nguồn khác
nhau chưa được kiểm định tính chính xác.
- Sản phẩm cung cấp chưa phong phú, chưa có sản phẩm đặc thù phục vụ riêng
cho yêu cầu của từng loại hình TCTD.
- Chưa triển khai đầy đủ, đúng nghĩa báo cáo TTTD tiêu dùng.
- Đối tượng được phép sử dụng TTTD bị thu hẹp trong phạm vi ngành ngân
hàng, ngoài ra các tổ chức và cá nhân khác có nhu cầu chưa dễ dàng tiếp cận sử dụng
TTTD.
 Đối với sản phẩm Thông tin tín dụng đầu ra
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định góp phần hạn chế rủi ro, nhưng thực
tế trong quá trình thực hiện cũng còn hạn chế làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng các
sản phẩm TTTD đầu ra như sau:
- Đối với sản phẩm xếp loại tín dụng doanh nghiệp và chấm điểm tín dụng cá
nhân, điểm của các chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở thống kê bình quân số lớn, nhưng
thực tế số liệu thống kê chưa đủ, nên điểm đưa ra chưa sát thực. Hơn nữa điểm này

phải được điều chỉnh hàng năm cho phù hợp với điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ
nhưng các cơ quan xếp loại tín dụng chưa làm được.
- Yêu cầu của việc xếp loại tín dụng doanh nghiệp phải đáp ứng những đòi hỏi
khắt khe để đảm bảo kết quả xếp loại đạt chất lượng cao, chính xác và trung thực. Tuy
nhiên trong thực tại, những yêu cầu này chưa thực sự đáp ứng đúng theo như đòi hỏi,
ví dụ như tính chính xác của báo cáo tài chính của các DN VN thường không cao, số


15

đã được kiểm toán rất ít. Đối với thông tin phi tài chính: thông tin phi tài chính rất cần
thiết cho việc xếp hạng doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thu thập các thông tin phi tài
chính còn gặp nhiều khó khăn do CIC không có đủ điều kiện tiếp xúc trực tiếp với
doanh nghiệp (khó khăn về nhân lực, cơ sở pháp lý)
- Chưa có đội ngủ chuyên trách làm công tác điều tra, thăm dò, lấy ý kiến từ phía
các đơn vị sử dụng sản phẩm
- Phương pháp dùng trong xếp loại tín dụng doanh nghiệp vẫn còn đơn điệu, chủ
yếu dựa vào phương pháp so sánh mà ít sử dụng kết hợp với các phương pháp đánh
giá, xếp loại khác như phương pháp chuyên gia hay phương pháp chi tiết. Trong khi
đó các chỉ tiêu để đối chiếu và so sánh lại được cố định, không thay đổi cho phù hợp
với thực tế luôn diễn biến phức tạp và đa dạng. Điều này thể hiện ở bảng các chỉ số tài
chính áp dụng cho chấm điểm các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế và các chỉ số
trung bình ngành thường là cố định. Hiện nay, do môi trường kinh doanh luôn luôn
biến động, do vậy khi xếp hạng doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực và xếp hạng
doanh nghiệp hàng năm nên căn cứ vào tình hình phát triển chung của ngành để đánh
giá. Các tiêu chuẩn đánh giá theo các bảng chỉ tiêu tài chính phân theo ngành chưa tính
đến môi trường hoạt động khó khăn khi các doanh nghiệp trong một ngành gặp phải.
- Phương pháp xếp hạng, chấm điểm hiện tại của CIC chưa đưa ra được những
mô hình dự báo thời gian tới của doanh nghiệp mà điều này là rất hữu ích đối với người
sử dụng thông tin. Bên cạnh đó, trong quá trình xếp hạng doanh nghiệp, chấm điểm tín

dụng cá nhân, CIC đã đề cập đến phương pháp trọng số, tuy nhiên phương pháp này
được áp dụng hoàn toàn theo chủ quan đánh giá, chưa có sự khảo sát, thống kê thực tế.
- Sản phẩm đầu ra về xếp hạng doanh nghiệp hiện nay của CIC còn đơn điệu
chưa phong phú, chủ yếu là bản báo cáo xếp hạng doanh nghiệp cho từng doanh nghiệp
đơn lẻ. Báo cáo tổng hợp về kết quả xếp hạng doanh nghiệp cũng đã có nhưng chưa
được chuẩn hoá và phổ dụng. Chưa đưa ra mô hình phương pháp xếp hạng đối với các
tổng công ty và tập đoàn kinh tế lớn.
- Thời gian đáp ứng nhu cầu thông tin là từ 3 đến 5 ngày làm việc, vì vậy đôi
khi ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng thông tin nhanh của khách hàng.
- Thông tin tổng hợp theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế chưa có.
- Sản phẩm thông tin cung cấp ra chưa phong phú, chưa có thông tin thích hợp
phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay với DNN&V.
- Giá bán sản phẩm TTTD chưa thật hợp lý. Ví dụ bản tin chấm điểm tín dụng
thể nhân là 120.000đ, chi phí thông tin lớn đôi khi cũng làm nản lòng đối với các chi
nhánh TCTD.
 Đối với việc khai thác sử dụng Thông tin tín dụng
Công tác khai thác sử dụng thông tin tại CIC của các TCTD và các tổ chức có
hoạt động ngân hàng chưa hiệu quả, mang nặng tính chấp hành, thủ tục, nhiều đơn vị,


16

chi nhánh chưa biết đến CIC, điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác ngăn ngừa rủi
ro tại chính đơn vị
 Hoạt động tăng cường hợp tác, hội nhập thông tin quốc tế còn yếu kém.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi việc tăng cường hợp tác thông
tác và hội nhập thông tin quốc tế là tất yếu. Đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động
Thông tin tín dụng tại Trung tâm thông tin tín dụng chưa có nhiều các mối quan hệ và
hợp tác với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực thông tin tín dụng trên thế giới.
2.3 . Đánh giá chung về mức độ hoàn thiện hoạt động TTTD Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam
Từ những kết quả đạt được và những bất cập, hạn chế như đã nêu ở trên có thể
thấy đến nay, hệ thống TTTD đã đạt được những thành tựu nhất định và có chỗ đứng
quan trọng không thể thiếu trong nền tín dụng nước nhà.
Với sự phối hợp nhịp nhàng của 3 chủ thể chính là : Trung tâm TTTD Quốc
gia Việt Nam, chi nhánh ngân hàng Nhà nước các tỉnh, thành phố và các TCTD dưới
sự chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động thông tin TTTD ngày càng được
hoàn thiện và nâng cao hơn nữa giúp giảm thiểu đáng kể các hoạt động vi phạm, gian
lận tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng, giảm đáng kể tỷ lệ nợ quá hạn. Tuy nhiên, đánh
giá khách quan có thể thấy thực tế hoạt động TTTD Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
vẫn chỉ ở mức độ trung bình trong khu vực, chưa đạt chuẩn so với quốc tế, chưa có sự
vào cuộc của các chủ thể TTTD thuộc nền kinh tế tư nhân khiến TTTD hiện nay còn
chưa đa dạng, còn mang tính một chiều, năng lực của các chủ thể tham gia cần được
hoàn thiện hơn nữa. Có nhiều nguyên nhân làm cho chất lượng TTTD còn nhiều bất
cập, trong đó có thể kể tới một số nguyên nhân chính sau đây:
- Chưa có sự phối hợp của các bộ, ngành trong việc chia sẻ thông tin dẫn đến
khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng thông tin đầu vào.
- Tính công khai, minh bạch hóa hoạt động của các DN VN chưa cao, chế độ
báo cáo tài chính DN còn nhiều bất cập, chưa có chế tài cụ thể cho những trường hợp
vi phạm, hoạt động kiểm toán,kiểm soát nội bộ chưa phát triển,ý thức của DN trong
việc báo cáo tài chính chưa cao, có khi DN có tới 2 hoặc nhiều hơn 1 bảng cân đối kế
toán để sử dụng cho những mục đích khác nhau. Để dễ tiếp cận với nguồn tín dụng,
các DN đã lập các báo cáo tài chính ma, có số liệu sai lệch thực tế và chưa được kiểm
toán.
- Chưa chú trọng đến khâu tuyên truyền, quảng bá sản phẩm TTTD, đặc biệt là
lợi ích hoạt động TTTD trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
- Các TCTD chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thông tin và khai thác sử
dụng thông tin góp phần hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng.
- Chưa chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm TTTD dựa vào
nhu cầu của người sử dụng.



17

- Chưa có một chế tài cụ thể về mặt pháp lý với những trường hợp vi phạm chế
độ báo cáo, khai thác và sử dụng TTTD.
- Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa CIC và các đơn vị cung cấp thông tin phi
tài chính như Sở kế hoạch và đầu tư, Cục thuế, Bộ công an,… trong việc cung cấp các
thông tin liên quan đến doanh nghiệp,
- Trong hoạt động tín dụng thì chưa thực hiện đồng bộ tại tất cả các NHTM, mới
chỉ có một số ngân hàng đi tiên phong, nên khi khách hàng bị xếp loại thấp sẽ sang vay
ở ngân hàng chưa chưa áp dụng XLTD, hoặc ở ngân hàng đã áp dụng nhưng bỏ qua
kết quả XLTD để cạnh tranh dành khách hàng.
- Chất lượng thông tin cung cấp ra đôi khi chưa thật đảm bảo, thông tin dư nợ
của CIC còn thấp hơn so với số dư thực tế, do chưa thu thập được hết các khoản vay
tại nhiều NHTM. Thông tin về tình hình tài chính DN, thông tin về tài sản bảo đảm
tiền vay cũng còn chưa đầy đủ.
- Một số cán bộ chuyên trách của các NHTM chưa nắm rõ được quy trình và
nghiệp vụ chưa vững dẫn đến những sai sót trong việc báo cáo thông tin của khách
hàng vay với bên CIC không đảm bảo được tính chính xác của thông tin.
- Sự phối kết hợp giữa chi nhánh NHNN và CIC ở một số tỉnh chưa được thường
xuyên, nhận thức về quá trình đổi mới và trách nhiệm, chức năng của bộ phận TTTD
trên địa bàn chưa đầy đủ.
- Công tác khai thác sử dụng thông tin tại CIC của các TCTD kém là do công
tác quảng bá của CIC còn chưa hiệu quả, chưa có tính chuyên nghiệp. CIC vẫn còn
quen tác phong làm việc theo cơ chế cũ, thụ động trong công tác thu thập thông tin
cũng như đưa các sản phẩm của mình đến gần với các ngân hàng.


18


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1
.Định hướng hoàn thiện cho hệ thống TTTD của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
3.1.1. Định hướng tổng quát
Một là, Nâng tầm qui mô tổ chức và hoạt động của CIC đáp ứng yêu cầu: (i)
phục vụ quản lý nhà nước của NHNN, hỗ trợ tăng trưởng tín dụng chất lượng bền vững,
phát triển kinh tế – xã hội và (ii) năng lực cạnh tranh dịch vụ thông tin tín dụng điện
tử, hội nhập quốc tế.
Hai là, Xây dựng, quản lý kho thông tin tín dụng quốc gia thống nhất, đầy đủ,
chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, là nguồn dữ liệu TTTD chủ yếu, kênh TTTD tin
cậy ổn định để cung cấp đa dạng sản phẩm thông tin cho NHNN, các TCTD, tổ chức
khác và cá nhân trong việc điều hành chính sách tiền tệ, đánh giá người vay, tiếp cận
tín dụng một cách khách quan, khoa học, công bằng, minh bạch, giải quyết tốt nhất khả
năng không cân xứng về thông tin.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể giai đoạn
- Tiếp tục triển khai giai đoạn 2 của “Đề án phát triển CIC đến 2015 và hướng
tới 2020” và được thể hiện ở các thành tích đáng ghi nhận. CIC đã hoàn thành việc
nâng cấp cơ cấu tổ chức theo Quyết định 926/QĐ-NHNN ngày 12/05/2017 quy định
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của CIC. CIC cũng đã hoàn thành và chính thức
vận hành toàn bộ hệ thống mới trong khuôn khổ dự án FSMIMS - cấu phần CIC. Hệ
thống này đã hỗ trợ và tạo điều kiện để CIC có thể nâng cao năng lực xử lý dữ liệu,
cung cấp thông tin tự động và triển khai, mở rộng các hoạt động nghiệp vụ khác.
- Hoàn thành xây dựng mô hình XHTD doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế
phù hợp theo nhiệm vụ được giao tại kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực
hiện Nghị quyết 19 và 35 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Vận hành hoạt động đăng ký trực tuyến thông qua Cổng thông tin điện tử kết

nối với khách hàng vay thể nhân tại khu vực Hà Nội, TPHCM
- Tiếp tục triển khai kế hoạch giảm giá sản phẩm và hoàn thiện hệ thống giá sản
phẩm dịch vụ
Thực hiện giảm phí khai thác dịch vụ TTTD theo lộ trình để đồng hành cùng các
TCTD trong việc hạ lãi suất cho vay, trước mắt giảm ngay 12% phí hiện thời các sản
phẩm dịch vụ có sẵn của CIC, đồng thời tiếp tục theo dõi và đề xuất mức phí phù hợp
từng giai đoạn.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện hệ thống TTTD Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
3.2.1 Giải pháp cho Trung tâm TTTD ngân hàng Việt Nam (CIC)
 Tăng cường chất lượng kho dữ liệu


19

 Nâng cao chất lượng thông tin
 Tăng cường tính chính xác của thông tin
 Tăng cường tính xác thực của báo cáo tài chính
 Tăng cường tính chính xác về tình trạng pháp lý và đặc điểm của công
ty/doanh nghiệp
 Hợp nhất các thông tin liên quan ảnh hưởng tới tình hình tài chính của khách
vay
 Hoàn thiện khâu thu thập thông tin đầu vào
 Hoàn thiện khâu xử lý thông tin
 Phát triển hệ thống thu thập dữ liệu toàn diện
 Phát triển sản phẩm và dịch vụ
 Báo cáo phân tích nợ
 Báo cáo phân tích ngành
 Báo cáo xếp hạng tín dụng
o Chấm điểm thông tin tín dụng (Bureau Score

 Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
Sáu vấn đề sau được xem là những vấn đề cốt lõi trong việc nâng cấp hệ thống
công nghệ thông tin của CIC:
(i)
Tăng cường mức độ bảo mật và sẵn sàng của hệ thống công nghệ thông
tin để đảm bảo tính bảo mật của dữ liệu và hoạt động hàng ngày của CIC
(ii) Tăng cường khả năng lưu trữ và xử lý dữ liệu, thích ứng với khối lượng
ngày càng tăng về dữ liệu trong dài hạn (khoảng 5-7 năm)
(iii) Ứng dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với xu hướng phát triển của hệ
thống công nghệ thông tin
(iv) Phát triển một hệ thống để trao đổi thông tin với các tổ chức khác để thực
hiện trao đổi thông tin hiệu quả trên cơ sở trao đổi lẫn nhau
(v) Phát triển nhân sự công nghệ thông tin để có thể giám sát và vận hành hệ
thống công nghệ thông tin đã được nâng cấp
(vi) Phân bổ ngân sách cần thiết liên tục để duy trì hệ thống công nghệ thông
tin luôn cập nhật
 Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Ngoài việc hỗ trợ hệ thống công nghệ thông tin, việc thực hiện thành công kế
hoạch hành động phụ thuộc vào khả năng của các nhân viên CIC. Việc phát triển nguồn
nhân lực với các chương trình đào tạo có hệ thống nên là một trong những ưu tiên hàng
đầu cần được giải quyết. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực gồm ba thành phần:
- Đào tạo nhân viên CIC về các vấn đề chuyên môn,
- Phát triển năng lực liên quan tới công nghệ thông tin, và
- Đào tạo nhân viên của TCTD báo cáo.


20

 Tăng cường công tác marketing
CIC phải thường xuyên tuyên truyền, quảng bá sản phẩm bằng nhiều hình thức

để mọi đối tượng trong nền kinh tế, đặc biệt là các đối tượng trên thị trường tài chính
thấy rõ được lợi ích của việc sử dụng TTTD. Với các sản phẩm TTTD cung cấp ra sẽ
giúp người cho vay chuyển hướng đầu tư theo kiểu truyền thống, dựa vào tài sản thế
chấp và những đánh giá của bản thân sang kiểu cho vay khoa học hơn, dựa vào thông
tin là chủ yếu. Đồng thời giúp cho người vay biết rõ được chính mình để có những tiếp
cận tín dụng tốt hơn.
 Tăng cường hợp tác, hội nhập thông tin quốc tế
Tiếp tục duy trì tốt các mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính quốc tế và
NHTW các nước để thông qua đó thường xuyên trao đổi thông tin, tri thức, kinh nghiệm
về TTTD; tham gia các hội nghị, hội thảo hàng năm về TTTD do WB và các tổ chức
tài chính quốc tế tổ chức; tham gia vào các diễn đàn, hiệp hội TTTD trong khu vực và
quốc tế; tham gia vào các cổng liên kết thông tin khu vực, toàn cầu (như cổng Asean);
tổ chức các đoàn khảo sát, tham quan học tập kinh nghiệm cho các cán bộ làm TTTD,
tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của các tổ chức tài chính quốc tế trong việc đầu tư nâng
cấp hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam.
Duy trì quan hệ với các Trung tâm TTTD quốc tế và các cơ quan giám sát quốc
tế, mở rộng quan hệ đa phương với các công ty TTTD có uy tín như D&B, Moody,
Transunion…để học tập kinh nghiệm và mua thông tin về DN nước ngoài, trao đổi
thông tin phục vụ cho nhu cầu thông tin trong nước nhằm ngăn ngừa rủi ro, lừa đảo tín
dụng quốc tế.
3.2.2 Giải pháp cho NHNN chi nhánh các Tỉnh, Thành Phố và NHTM
3.2.2.1. Giải pháp cho NHNN chi nhánh các Tỉnh, Thành Phố
Hiện nay, NHNN chi nhánh các tỉnh thành phố tuy có rất nhiều chức năng, nhiệm
vụ nhưng không còn nhiệm vụ làm đầu mối TTTD tại các tỉnh thành để báo cáo cho
NHNNTW nữa, điều này được thay đổi từ khoảng những năm 2008 khi việc báo cáo
số liệu của các TCTD được thực hiện trực tiếp tại hội sở của NHTM đó thay vì báo cáo
qua NHNN chi nhánh tỉnh thành phố và đợi NHNN chi nhánh tỉnh thành phố tập hợp,
báo cáo lại cho NHNN TW. Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết, khi cần tra
soát lại số liệu từ các TCTD hoặc thực hiện các báo cáo thống kê thường niên hoặc đột
xuất thì NHNN chi nhánh các tỉnh thành phố luôn phải phối hợp nhịp nhàng và kịp thời

để hoàn thành tốt trách nhiệm của mình. Bởi vậy, tuy không còn làm nhiệm vụ đầu mối
thu thập, tổng hợp báo cáo tín dụng cho NHNNTW thì chi nhánh NHNN các tỉnh,
thành phố cũng vẫn nên theo dõi sát sao, thu thập báo cáo tình hình từ phía các NHTM
trên địa bàn, đặc biệt là các NH có tỷ lệ nợ xấu cao, NH có tổng dư nợ tín dụng lớn
hoặc các NH nằm trong diện kiểm soát đặc biệt.
Bộ phận TTTD tại chi nhánh NHNN là đặc điểm riêng có của VN, cần phải tận
dụng đặc điểm này. Chi nhánh NHNN có thể tận dụng ưu thế của mình để thu thập


21

thông tin về DN từ các cơ quan quản lý trên địa bàn, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện
TTTD của các TCTD trên địa bàn. Trong điều kiện của VN hiện tại thì việc kiểm tra
trực tiếp tỏ ra rất có hiệu quả. Chính vì vậy chi nhánh NHNN cần phải bố trí tổ chức,
nhân sự và các điều kiện liên quan để thực hiện nghiệp vụ TTTD tại chi nhánh, chủ
động phối hợp với CIC để đôn đốc, kiểm tra các TCTD, chi nhánh TCTD trên địa bàn
thực hiện. Khai thác, sử dụng TTTD để phục vụ nhiệm vụ quản lý và cung cấp cho các
TCTD trên địa bàn, đặc biệt là đối với các TCTD vi mô như quỹ tín dụng nhân dân cơ
sở, không có điều kiện truy cập WebCIC thì việc hỏi tin qua chi nhánh NHNN là phù
hợp và giảm chi phí hỏi tin.
Theo định hướng tương lai sẽ bỏ các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố để thành
lập các chi nhánh vùng hoặc chi nhánh khu vực thì vẫn nên duy trì nhiệm vụ thực hiện
TTTD tại các chi nhánh này để kết hợp thu thập khai thác, cung cấp thông tin cho các
NHTM trong phạm vi địa bàn.
3.2.2.2. Giải pháp cho các NHTM
 Giải pháp về chính sách của các NHTM
 Giải pháp về tổ chức hoạt động thông tin tín dụng
 Giải pháp về cán bộ thực hiện hoạt động thông tin tín dụng
 Giải pháp về thu thập thông tin
 Giải pháp với việc tạo lập các báo cáo TTTD tại NHTM

3.2.3. Giải pháp về việc thành lập các công ty TTTD tư nhân
3.2.3.1.Công ty TTTD tiêu dùng cá nhân
Tại hầu hết các quốc gia phát triển, trung tâm thông tin tín dụng tư nhân là một
bộ phận không thể thiếu của ngành tài chính tín dụng. Định nghĩa đơn giản nhất của
trung tâm này là một công ty thu thập dữ liệu về việc thanh toán nợ của cá nhân hoặc
công ty để tạo lập các báo cáo tín dụng cung cấp cho đơn vị cấp tín dụng.
Nới lỏng điều kiện có tối thiểu 20 ngân hàng thương mại (NHTM) cam kết cung
cấp TTTD và các ngân hàng này không có cam kết tương tự với công ty TTTD khác.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, trải qua quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM, hiện số
NHTM đã giảm xuống chỉ còn 42 (28 NHTMCP, 7 NHTM nhà nước, 2 ngân hàng liên
doanh và 8 ngân hàng 100% vốn nước ngoài) và đã có 22 NHTM cam kết cung cấp
thông tin tín dụng. Dư địa để nhà đầu tư thành lập Công ty TTTD khác rất hạn chế. Do
đó, việc nới lỏng điều kiện nêu trên sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư thành lập Công ty
TTTD khi có nhu cầu và có khả năng, tránh hiện tượng độc quyền, tạo cơ chế bình
đẳng, thuận tiện trong hoạt động kinh doanh TTTD nhưng vẫn đảm bảo nguồn dữ liệu
cần thiết, đảm bảo chất lượng TTTD.
Những đề xuất sửa đổi này góp phần làm bảo đảm các công ty TTTD có đủ
nguồn thông tin để thực hiện đầy đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ của mình và bảo
đảm an toàn thông tin cá nhân, tránh việc chia sẻ thông tin cho quá nhiều đối tượng,
ảnh hưởng đến vấn đề bảo mật.


22

3.2.3.2.Công ty TTTD doanh nghiệp
Xây dựng công ty TTTD doanh nghiệp hay nói cách khác là thành lập các công
ty về xếp hạng doanh nghiệp, điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thành
lập cơ sở hạ tầng thị trường tài chính ở VN, một mặt nó vừa là một cơ quan độc lập,
khách quan để cung cấp thông tin về XHTD các doanh nghiệp VN, mặt khác lại vừa
phục vụ cho hoạt động của các NHTM và nhiệm vụ quản lý, giám sát của NHNN

Chỉ thị 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng chính phủ v/v “ triển
khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng
vốn nhà nước và chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng” ghi rõ : NHNN VN
xây dựng thí điểm dịch vụ đánh giá tín nhiệm DN để các NH có cơ sở khi xem xét cho
DN vay vốn. Như vây có thể thấy thực tế từ nhu cầu hoạt động tin dụng đã đòi hỏi cần
phải sớm thành lập công ty XHTD DN tại VN , về vấn đề này đang có 3 phương án
được đưa ra như sau :
(1) Thành lập công ty XHTD DN là đơn vị sự ngiệp thuộc NHNN ( có thế lấy
nền tảng từ 1 phòng có sẵn là XHTD của CIC)
(2) Thành lập công ty XHTD DN là công ty tư nhân hoàn toàn
(3) Thành lập công ty XHTD DN là công ty cổ phần với các cổ đông là CIC
và các TCTD
Theo như phương án (1) lấy nền tảng từ 1 phòng có sẵn của CIC với chuyên môn
chính là phân tích và xếp hạng tín nhiệm tín dụng của các DN , đây là 1 phòng nhỏ nên
chưa đáp ứng được hết nhu cầu về hỏi tin. Hơn nữa, do thuộc sở hữu của NN nên việc
đánh giá các DN nhất là các DN Nhà nước chưa đảm bảo tính khách quan hoàn toàn,
gây tâm lý e ngại cho các NHTM, đặc biệt là các NH nước ngoài do đó nhu cầu sử
dụng tin sẽ hạn chế hơn. Còn theo phương án (2) thành lập công ty XHTD DN là công
ty tư nhân hoàn toàn sẽ rất khó để cạnh trạnh lại được CIC với tư cách là 1 đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc NHNN với kho dữ liệu thông tin khổng lồ và sự hợp tác chặt
chẽ từ phía các TCTD và DN trên cả nước. Bởi vậy, theo phướng án (3) thành lập công
ty XHTD DN là công ty cổ phần với các cổ đông là CIC và các TCTD có thể được xem
là phương án khả thi hơn cả.
3.2.4 . Một số giải pháp khác
 Giải pháp tác động thị trường để thúc đẩy nhu cầu TTTD
 Giải pháp ứng dụng công nghê, tin học truyền thông
3.3 . Một số kiến nghị, đề xuất hoàn thiện hệ thống TTTD Ngân hàng Nhà
nước VN
3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ
- Chính phủ cần đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp, nên tập trung cổ phần

hoá những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, nên có quyết định giải thể hoặc sát nhập
những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Muốn vậy, cần phải có luật phá sản rõ


23

ràng và quy định nghiêm khắc hơn đối với doanh nghiệp cố ý lừa đảo, chiếm dụng vốn
ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Trung ương là cơ quan quản lý trực tiếp Trung tâm TTTD
và là thành viên của Chính phủ quản lý về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng. Do
vậy, Ban Lãnh đạo NHNN thường xuyên quan tâm chỉ đạo các Vụ, Cục, đơn vị thuộc
NHNN, các TCTD nghiêm túc thực hiện các quy định đã được Thống đốc ban hành,
phối hợp chặt chẽ với Trung tâm TTTD đẩy mạnh hoạt động thông tin tín dụng, đặc
biệt là đưa ra các biện pháp mạnh để nâng cao chất lượng tín dụng. Cụ thể là:


×