Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Liên minh công nông trí trong thời kì xây dựng CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.99 KB, 6 trang )

Phần 1.3. Liên minh công – nông trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
1. Tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh:
* Khái niệm liên minh: Liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức
là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, lien kết… của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng thời
góp phần thực hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức:
- Xét dưới góc độ kinh – tế kỹ thuật và phân công lao động:
+ Xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế, trong xã hội tất yếu
hình thành các lĩnh vực kinh tế cơ bản: công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, dịch
vụ…Cần phải gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực này với nhau để hình thành nền kinh tế quốc dân
thống nhất và tạo ra cơ sở vật chất – kĩ thuật cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Do sự thống nhất về lợi ích cơ bản giữa công nhân, nông dân và trí thức nên chủ thể của các lĩnh
vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ tất yếu phải gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau để
cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung của mình.
- Xét dưới góc độ chính trị - xã hội: Do công nhân, nông dân và trí thức là lực lượng dân
cư đông đảo nhất:
+ Thực hiện liên minh công – nông – trí thức nhằm tập hợp lực lượng tiến hành cách
mạng.
+ Là lực lượng quan trọng trong phát triển kinh tế và trong đời sống chính trị.
Do vậy xây dựng khối liên minh nhằm tạo thành lực lượng nòng cốt của chế độ chính trị xã hội trên cơ sở đó, thực hiện dại đoàn kết toàn dân để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, và
phải được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.
* Tầm quan trọng của liên minh:
- Là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản, nó quyết định đến sự thành bại của cách
mạng.
- Là cơ sở chính trị - xã hội để củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Là động lực quan trọng để phát triển xã hội.
2. Nội dung cơ bản của liên minh


* Khái niệm liên minh: Liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức
là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, lien kết… của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng thời
góp phần thực hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Nội dung của liên minh:
- Nội dung 1: Nội dung chính trị của liên minh
+ Đoàn kết, hợp lực của công nhân, nông dân, trí thức để thực hiện các nhiệm vụ chính trị
nhằm bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ chính trị để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Giữ vững lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với khối lien minh trong quá trình xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ
chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
+ Đấu tranh với những ảnh hưởng của tư tưởng cũ lạc hậu, chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới
mọi hình thức, chống âm mưu “diễn biến hòa bình„ của các thế lực thù địch, phản động.


+ Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo các lợi ích chính trị, các quyền
dân chủ, quyền công dân, quyền làm chủ, quyền con người của công nhân, nông dân, trí thức và của nhân
dân lao động từ đó thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Động viên công nhân, nông dân và trí thức gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung 2: Nội dung kinh tế của liên minh
+ Xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và
toàn xã hội trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức triển khai các hoạt động kinh tế
đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các bên và tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí.
+ Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp- nông nghiệp
và khoa học công nghệ; giữa các ngành kinh tế; các thành phần kinh tế, các vùng kin tế; giữa
trong nước và quốc tế...để phát triển kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí
thức và toàn xã hội.
+ Nâng cao kết quả chuyển giao khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất công, nông nghiệp

và công nghiệp nhằm gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực kinh tế cơ bản của mỗi quốc gia, qua đó gắn
bó chặt chẽ công nhân, nông dân và trí thức làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển của quốc
gia.
- Nội dung 3: Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:
+ Động viên công nhân, nông dân, trí thức giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền
thống và hiện đại.
+ Đoàn kết, hợp lực giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và toàn dân xây dựng nền văn
hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
+ Đảm bảo kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa xã hội và công bằng
xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng nông
thôn mới.
+ Thực hiện tốt các chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe và nâng
cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân; nâng cao dân trí.

* Liên hệ:
Thực trạng xây dựng liên minh công - nông trí thức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiện nay, vấn đề liên minh công nông đã được mở
rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành
nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(6), để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng
của khối đại đoàn kết dân tộc.
Khẳng định vai trò quan trọng của các bộ phận trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của GCCN đối với cách
mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã khẳng định “Giai cấp công nhân nước ta có
sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam;...; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”(7).



Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ không trở thành hiện thực, nếu không có
nền nông nghiệp phát triển ổn định, vững chắc làm cơ sở, và điều đó không thể tách rời vai trò
của GCND. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một thách thức đối với
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết
chuyên đề về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7 khóa X đã chỉ rõ: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng;
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”(8).
Cùng với liên minh công nông là nòng cốt của cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng, đánh giá cao
vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng cũng như trong quá trình đổi
mới, xây dựng đất nước. Sức mạnh của khối liên minh giai cấp trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức không thể tách rời vai trò của đội ngũ trí thức. Quá
trình phát triển và hội nhập sâu rộng với thế giới trong khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ
lần thứ tư đã lan rộng đang đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao của đội ngũ trí thức: “Đội ngũ trí
thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó
với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả
các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”(9). Mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân
dân, trong đó có công nhân, nông dân và trí thức, cần được khai thác và phát huy để xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các bộ phận trong liên minh
Việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, khuyến khích và trợ giúp nông
dân trong tiến trình thực hiện nghị quyết các đại hội đảng đã phát huy tác dụng, bộ mặt nông
thôn có nhiều thay đổi: “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày
càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn
được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao”(10). Tuy
nhiên, nông dân chưa được hưởng lợi tương xứng với đóng góp cho sự phát triển đất nước. Các
biện pháp kinh tế - kỹ thuật dù đã phát huy tác dụng, nhưng sự chuyển biến tư duy của người
nông dân vẫn chưa được như kỳ vọng. Tâm lý tiểu nông còn khá nặng nề trong nông dân và
trong cả những giai cấp, tầng lớp khác...
Cùng với quá trình đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “giai cấp công
nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu,
chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang
tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam... Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của
giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện”(11).
**Những mặt hạn chế:
Tuy nhiên, vấn đề phát triển GCCN ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Trình
độ học vấn có xu hướng tăng, nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế thì vẫn chưa theo kịp. Đặc biệt, chúng ta đang thiếu đội ngũ công nhân lành


nghề, chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi. Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân nhiều
nơi chưa được bảo đảm, kỷ luật lao động chưa nghiêm, tác phong tự do tùy tiện. Quyền lợi hợp
pháp của công nhân ở nhiều đơn vị bị vi phạm, như trả lương không đúng hợp đồng, nợ bảo
hiểm, bảo hộ lao động không bảo đảm... Tình hình đó kéo theo sự giác ngộ giai cấp, ý thức chính
trị cũng phai nhạt, nhất là đối với bộ phận công nhân trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trong tiến trình đổi mới “Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị... để tạo động lực thúc đẩy
sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các chính sách... sử dụng và
tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức;... đãi ngộ, tôn vinh trí thức... tạo điều kiện thuận lợi
để đội ngũ trí thức và các hội của trí thức hoạt động, phát triển”. Tuy nhiên “đội ngũ trí thức
nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém... Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học
chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống”(12).
** Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh công nông - trí thức trong khối đại

đoàn kết dân tộc
Một là, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận trong khối liên minh
công - nông - trí thức.
Với giai cấp công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề nghiệp, thành thạo kỹ
năng và thái độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa là đòi hỏi của quá trình hợp tác, phân công lao động và các
hiệp định thương mại khu vực, quốc tế. Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các
ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực,
quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm nghề nghiệp và tác phong công
nghiệp.
Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động. Có quy
định bảo đảm công bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, bảo đảm giá trị tiền lương
thực tế để đủ cho cuộc sống của người lao động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường lao động,
bảo hộ lao động, chăm lo sức khỏe thể chất và tinh thần của người công nhân, nhất là xây dựng
các thiết chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường quản
lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động, Luật Bảo hiểm, Luật Thuế thu nhập
cá nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động; giải quyết các tranh chấp
lao động trên cơ sở luật pháp quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của công nhân’’(13).
Đối với giai cấp nông dân, khẩn trương hoàn thiện cơ chế liên kết kinh tế trong việc sản xuất,
bảo quản, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam đồng
thời với việc bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ, cung
ứng dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được
thực hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cộng đồng.
Nhà nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông dân,
nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”. Có cơ chế, chính sách và cả cơ chế giám sát để
hệ thống vận hành một cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể lợi ích và các chủ
thể trong liên kết, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học
nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều
kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao



động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện,
nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực
hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp
pháp”(14).
Với tầng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù hợp,
nhất là đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên gia
chiến lược của đất nước đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư.
Quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ
tiên tiến của thời đại. Tạo cơ chế phù hợp để các nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được phổ
biến rộng rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ
đối với các sản phẩm đó. Quan trọng hơn, “Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết
quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của
trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”(15).
Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ giai cấp, ý
chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng cao sự hiểu biết về chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao động,
việc làm, chính sách xã hội, những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động, quan
hệ lao động, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ, phá sản, bảo hiểm. Bồi dưỡng tinh thần và ý chí
lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong thị trường lao động, các kỹ năng giải quyết
quan hệ lao động, đặc biệt là lao động gắn với yếu tố nước ngoài, trong khu vực FDI.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp trong
các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn, hướng về cơ sở, nắm bắt
kịp thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân và
đấu tranh, bảo vệ lợi ích của họ. Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của công
nhân phải thường xuyên nâng cao về trình độ, khoa học, công nghệ, pháp luật, ngoại ngữ, tin

học… đủ sức tham gia có hiệu quả vào quá trình tập hợp, thu hút quần chúng công nhân, tổ chức
hoạt động cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc
tế; phương pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với những thay đổi
về lao động, việc làm của giai cấp công nhân trong tình hình mới.
Đối với giai cấp nông dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nông dân lên
hàng đầu. Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mới, mà sâu xa hơn là nền tảng tri thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nông dân.
Khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái
mới, khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất, kinh doanh
và tổ chức đời sống.
Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân và cư dân nông
thôn, khắc phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động mùa vụ ở các khu đô thị lớn
cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn và thành thị, xây dựng nhà nông chuyên nghiệp với
các mô hình hợp tác, liên kết phong phú, đa dạng. Điều này vừa góp phần phát triển nông


nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới; vừa góp phần hạn chế những vấn đề xã hội có thể
nảy sinh do sức ép về dân cư và các sinh hoạt khác.
Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho lao động sáng tạo
của trí thức. Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về tri thức, học thuật, văn hóa lắng
nghe; cũng như tôn trọng sự khác biệt trong đối thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư cơ sở vật
chất, kỹ thuật phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi học thuật và
phát triển tri thức, để thực sự “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ
quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”(16).
Ba là, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khối liên minh.
Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của chính bản thân các
chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên
tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức là phải xác định
đúng các nhu cầu, phát hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của công nhân, nông dân, trí thức

trong từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có
giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa các
giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển xã
hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.



×