Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quan hệ thương mại hàng hóa trung gian giữa nhật bản – trung quốc trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI và một số kiến nghị chính sách cho việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.13 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TUẤN TÚ

QUAN HỆ THƢƠNG MẠI HÀNG HÓA TRUNG GIAN
GIỮA NHẬT BẢN – TRUNG QUỐC TRONG HAI
THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9.31.01.06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2019


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học:
- Hướng dẫn 1: TS. Nguyễn Bình Giang
- Hướng dẫn 2: PGS. TS. Nguyễn Xuân Trung

Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Phản biện 2: PGS.TS. Đỗ Hương Lan
Phản biện 3: PGS.TS. Chu Đức Dũng

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại ........................................................................................................

...........................................................................................................................


vào hồi………..….giờ…………phút,
ngày………tháng……….năm………………..

-

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia (Hà Nội)
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Thương mại hàng hóa trung gian luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong nhóm nước
đang phát triển vàrất quan trọng trong liên kết thương mại và sản xuất theo chiều
dọc ở khu vực Đông Á. Trong nhiều năm qua, Việt Nam luôn đi tìm giải đáp cho
câu hỏi: Việt Nam đang đứng ở đâu trong chuỗi giá trị toàn cầu và làm thế nào để
có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị dài hạn, trong đó hàm ý là gia tăng tỷ trọng
xuất khẩu các hàng hóa trung gian.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế, thương mại hàng
hóa trung gian giữa Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc đang tạo ra nhiều bất lợi
cho phía Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam vẫn chủ yếu tham gia vào các chuỗi giá
trị ngắn, chủ yếu trong ngành công nghiệp khai khoáng, chế biến thô, sơ chế…, mà
chưa vững bước tham gia trong chuỗi giá trị dài (các sản phẩm chế biến sâu, linh
kiện, thiết bị chế tạo, nghiên cứu phát triển, vệ tinh chế tạo…). Trong khi đó, Trung
Quốc sau mấy thập niên cải cách kinh tế, đã vươn lên trở thành đối tác thương mại
quan trọng nhất của Nhật Bản và một số nước ASEAN, tham gia ngày càng sâu vào
mạng sản xuất Đông Á. Mối quan hệ thương mại song phương giữa Nhật Bản –
Trung Quốc vừa mang tính bổ sung, vừa mang tính cạnh tranh, trong đó hàng hóa
trung gian đóng vai trò rất quan trọng. Cho đến nay, Việt Nam vẫn còn loay hoay
trong việc xây dựng các chiến lược xuất khẩu các hàng hóa trung gian để tham gia

chuỗi giá trị toàn cầu, do đó các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn đứng tụt khá xa
so với một số nước trong khu vực; đồng thời trong quan hệ thương mại với Nhật
Bản và Trung Quốc, hàng hóa trung gian của Việt Nam vẫn nằm ở vị trí rất thấp,
nhiều khi chỉ là nhập khẩu một chiều dẫn đến thâm hụt thương mại lớn và gây bất
lợi cho nền kinh tế
Quan hệ thương mại hàng hóa trung gian song phương Nhật Bản - Trung Quốc
vừa là điển hình về quan hệ thương mại hàng hóa trung gian vừa là điển hình về
quan hệ thương mại giữa một nước phát triển với một nước đang phát triển. Thêm
vào đó, Trung Quốc có trình độ phát triển tương đương Việt Nam. Cả Nhật Bản lẫn
Trung Quốc đều là những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Nghiên
cứu quan hệ thương mại hàng hóa trung gian Nhật Bản - Trung Quốc sẽ đưa ra
được những hàm ý thiết thực, những kinh nghiệm, bài học hữu ích cho Việt Nam
để thúc đẩy thương mại hàng hóa trung gian của Việt Nam với các nước, cải thiện
quan hệ thương mại song phương Việt Nam-Nhật Bản và Việt Nam-Trung Quốc
theo hướng ngày càng có lợi cho Việt Nam. Thông qua tham gia tích cực hơn vào
thương mại hàng hóa trung gian của khu vực Đông Á và thế giới, Việt Nam có điều
kiện tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính vì lý do trên, đề tài
“Quan hệ thương mại hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI và một số kiến nghị chính sách cho Việt Nam” là mang tính
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, giúp chúng ta hiểu được bản chất của quan hệ
thương mại hàng hóa trung gian Trung Quốc – Nhật Bản, các nhân tố ảnh hưởng
đến mối quan hệ này, tác động của quan hệ hàng hóa trung gian giữa Trung Quốc –
Nhật Bản, và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong thúc đẩy quan hệ
hàng hóa trung gian với Nhật Bản, Trung Quốc và khu vực Đông Á.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
2.1. Mục đích nghiên cứu:

Luận án này nghiên cứu quan hệ thương mại hàng hóa trung gian giữa hai
quốc gia Nhật Bản và Trung Quốc từ năm 2001 đến năm 2017, đánh giá các nhân
tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng hoá trung gian giữa hai nước này, từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm và hàm ý chính sách đối với Việt Nam trong thúc đẩy
quan hệ thương mại hàng hoá trung gian với các quốc gia trên thế giới nói chung và
với hai nước Nhật Bản và Trung Quốc nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Đề tài giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ các nội hàm liên quan đến quan hệ thương mại hàng hoá trung gian
giữa hai quốc gia. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ thương
mại hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc từ 2001 đến 2017.
- Tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng hóa trung gian
Nhật Bản – Trung Quốc, chỉ ra những thành công, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
trong quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc thời gian
qua.
- Rút ra các bài học kinh nghiệm từ quan hệ thương mại hàng hóa trung gian
Nhật Bản – Trung Quốc, tìm giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại hàng hóa
trung gian với các quốc gia trên thế giới nói chung và giữa Việt Nam với Nhật Bản,
Việt Nam với Trung Quốc nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: quan hệ thương mại hàng hóa trung gian giữa hai quốc
gia Nhật Bản – Trung Quốc..
- Phạm vi nghiên cứu nội dung: các chính sách thương mại song phương Nhật
Bản – Trung Quốc, thực trạng và đặc điểm của quan hệ thương mại hàng hoá trung
gian Nhật Bản – Trung Quốc, các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng
hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, bài học và hàm ý chính sách đối với Việt
Nam
+ Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu quan hệ thương mại hàng hóa trung
gian giữa Nhật Bản – Trung Quốc trong phạm vi không gian khu vực Đông Á.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2017.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cách tiếp cận nghiên cứu: Luận án sử dụng cách tiếp cận liên ngành dựa trên
các lý thuyết thương mại, hợp tác song phương để đánh giá phân tích quan hệ
thương mại Nhật Bản – Trung Quốc và sử dụng các nhân tố lịch sử, quan hệ quốc
tế, chính trị học, văn hóa … để giải thích bản chất của mối quan hệ trên.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích hệ thống.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp case-study.
5. Đóng góp mới về lý luận và ý nghĩa khoa học của luận án
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về quan hệ thương mại hàng hoá trung gian
giữa hai quốc gia, tìm hiểu các nhân tố tác động đến quan hệ thương mại hàng hoá
trung gian song phương. Điều này giúp làm rõ hơn các vấn đề liên quan đến quan
2


hệ thương mại hàng hoá trung gian song phương. Đây là một nội dung quan trọng
trong quan hệ thương mại quốc tế hiện đại nhưng chưa được nghiên cứu tổng thể
và hệ thống trong các nghiên cứu trong và ngoài nước trước đó.
6. Đóng góp mới về thực tiễn của luận án và ý nghĩa thực tiễn của các đóng
góp đó
- Luận án đã làm rõ bối cảnh Đông Á nơi diễn ra quan hệ thương mại hàng hoá
trung gian sôi động kể từ những thập niên cuối thế kỷ XX, làm cơ sở để nghiên cứu
quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc. .
- Phân tích thực trạng quan hệ hàng hoá trung gian giữa Nhật Bản và Trung
Quốc. Đây là hai đối tác thương mại hàng hoá trung gian quan trọng của Việt Nam.
Quan hệ hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc cho thấy sự phụ thuộc lẫn
nhau trong liên kết thương mại Đông Á, trong chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị khu
vực Đông Á.

- Phân tích thực trạng quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Việt Nam –
Nhật Bản, Việt Nam – Trung Quốc, đưa ra những đánh giá chung, rút ra những bài
học thiết thực từ kinh nghiệm của Trung Quốc và Nhật Bản, từ đó kiến nghị chính
sách cho Việt Nam trong thúc đẩy quan hệ thương mại thương mại hàng hoá trung
gian Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Trung Quốc.
- Luận án có ý nghĩa về mặt thực tiễn bởi nghiên cứu thực trạng mối quan hệ
thương mại hàng hoá song phương giữa Nhật Bản và Trung Quốc sẽ làm rõ được
sự phụ thuộc lẫn nhau của hai nước này trong mạng sản xuất khu vực Đông Á, thấy
rõ vai trò và vị trí khác nhau của hai nước này trong liên kết khu vực Đông Á và
mạng sản xuất Đông Á..
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ thương mại hàng hóa trung gian.
Chương 3: Thực trạng và nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng hóa
trung gian Nhật Bản – Trung Quốc.
Chương 4: Quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Việt Nam – Trung Quốc,
Việt Nam – Nhật Bản : Bài học và một số kiến nghị chính sách.

3


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của chương này là tổng quan các tài liệu về các vấn đề có liên quan
đến luận án nhằm đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu, từ đó tìm ra
khoảng trống của các công trình nghiên cứu trước đó về đề tài mà tác giả luận án sẽ
tiếp tục nghiên cứu.
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc.
Nghiên cứu về các vấn đề lý thuyết liên quan đến luận án, ở Việt Nam hiện nay

thương mại hàng hóa trung gian được nghiên cứu dưới các thuật ngữ: hàng hóa bán
thành phẩm, thương mại chiều dọc, thương mại nội bộ ngành… Chưa có khái niệm
nào hoàn chỉnh về “thương mại hàng hóa trung gian”. Trong một số tác phẩm
nghiên cứu, khái niệm, bản chất, đặc điểm và cấu trúc của mạng sản xuất quốc tế đã
được các tác phẩm này đề cập đến khá chi tiết và cụ thể. Tuy nhiên, thương mại
hàng hóa trung gian chưa được đưa thành một khái niệm hoàn chỉnh, mà mới chỉ
hàm ý trong một số phân tích khi đưa ra các vấn đề lý thuyết về mạng sản xuất toàn
cầu bởi đối tượng và phạm vi nghiên cứu của các tác phẩm này tương đối khác với
chủ đề nghiên cứu của đề tài.
Liên quan tới chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế của Nhật Bản và Trung
Quốc đối với khu vực trong hai thập niên gần đây, các công trình nghiên cứu cho
thấy Nhật Bản và Trung Quốc đã có những thay đổi chính sách đối ngoại và hợp
tác kinh tế tập trung vào các nước khu vực châu Á, hình thành các cơ chế hợp tác
đa phương, song phương, ký kết các FTA và có những quan điểm chính trị ngoại
giao cạnh tranh nhau với tư cách là hai nước lớn trong khu vực châu Á.
Về quan hệ hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, có thể thấy rõ là
các công trình nghiên cứu về vấn đề này còn rất ít. Cùng với xu hướng hình thành
các FTA ở Đông Á, dòng thương mại nội bộ ngành ngày càng tăng và chủ yếu là
hàng hóa trung gian, hàng hóa bán thành phẩm, trong đó quan hệ thương mại Nhật
Bản – Trung Quốc đang ngày càng phụ thuộc vào nhau và Trung Quốc đang dần
thay thế Nhật Bản để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của các nước trong khu
vực Đông Á.Tuy nhiên, quan hệ hàng hóa trung gian được đề cập khá rời rạc,
không theo hệ thống, chưa theo một chủ đề riêng biệt. Vì vậy, rất khó để đánh giá
vai trò của hàng hóa trung gian trong quan hệ thương mại song phương Nhật Bản –
Trung Quốc, cũng như bản chất của mối quan hệ này, nên rất cần phải có những
nghiên cứu kế thừa và chuyên sâu hơn.
Về vấn đề nghiên cứu bài học cho Việt Nam từ quan hệ thương mại hàng hóa
trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, các công trình nghiên cứu trong nước mới chỉ
tập trung vào quan hệ thương mại song phương giữa Nhật Bản – Việt Nam hoặc
Trung Quốc – Việt Nam.

Đối với quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc, một số công trình
nghiên cứu đã đánh giá tổng quát quá trình phát triển của quan hệ Việt – Trung
trước tác động của một Trung Quốc trỗi dậy và phân tích thực trạng những vấn đề
đặt ra như vấn đề lòng tin chính trị trong quan hệ Việt – Trung; vấn đề nhập siêu
của Việt Nam từ Trung Quốc; vấn đề đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam; vấn đề
sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc; vấn đề quốc phòng - an ninh trong quan hệ
Việt - Trung; vấn đề Biển Đông trong quan hệ giữa hai nước và trên cơ sở đó đã đề
ra đối sách xử lý quan hệ Việt - Trung trong 10 năm tiếp theo của thế kỷ XXI đặt
4


trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy. Ngoài ra, một số nghiên cứu khác đã
miêu tả thực trạng thương mại của Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào Trung
Quốc và tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc ngày một gia tăng để đưa ra một số
khuyến nghị góp phần hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc.
Về quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản, một số tác giả đã phân tích thực trạng
quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.
Theo các tác giả, quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa Nhật Bản và Việt Nam
trong các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế thương mại đã phát triển nhanh chóng, đạt được
nhiều kết quả tích cực và hiện đang trong thời kỳ mới với triển vọng tốt đẹp. Tuy nhiên
thực trạng khả quan này vẫn chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng phát triển của hai
nước do đó cần đề ra các giải pháp khả thi nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai
nước để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Các công trình nghiên này đã cung cấp đầy đủ các thông tin về thực trạng và
nguyên nhân của thực trạng thương mại của Việt Nam với Trung Quốc và Nhật
Bản. Tuy nhiên, sự kết nối mối quan hệ thương mại hàng hóa trung gian Nhật Bản
– Trung Quốc và ảnh hưởng của nó cũng như bài học đối với Việt Nam chưa được
các tác phẩm trên đề cập đến, vì vậy vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc.
Về quan hệ thương mại hàng hóa trung gian, luận án đã nghiên cứu một số tác

phẩm về mối liên hệ giữa thương mại hàng hóa trung gian với việc phân đoạn sản
xuất quốc tế. Theo các nghiên cứu, nếu quá trình sản xuất có thể được chia thành
nhiều giai đoạn, thì mỗi giai đoạn sản xuất có thể được tiến hành ở nước có lợi thế
so sánh trong việc sản xuất các sản phẩm của giai đoạn đó. Do đó, các quốc gia
càng khác biệt nhau về nguồn lực thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều
dọc càng lớn. Hàng hóa trung gian được trao đổi dựa trên nguyên tắc lợi thế so
sánh và có những đặc điểm chủ yếu trong trao đổi thương mại hàng hóa trung gian.
Một số tác phẩm cũng đã phân tích các khái niệm, đặc điểm của thương mại hàng
hóa trung gian, phương pháp tiếp cận và đánh giá thương mại “hàng hóa và dịch vụ
trung gian”, các hình thức trao đổi thương mại hàng hóa trung gian và tác động của
thương mại hàng hóa trung gian đối với năng suất lao động.
Liên quan trực tiếp đến thương mại hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung
Quốc, chỉ có ít một số tác phẩm đề cập đến vấn đề này. Một số tác phẩm đã đề cập
đến ảnh hưởng của Nhật Bản trong quan hệ thương mại hàng hóa trung gian với
Trung Quốc thông qua cách tiếp cận về mô hình đàn nhạn bay và chuỗi cung ứng,
vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia của Nhật Bản trong phát triển thương mại
hàng hóa trung gian ở khu vực Đông Á. Đối với hàng hóa trung gian của Trung
Quốc, một số nghiên cứu đã trình bày ảnh hưởng chính sách của Trung Quốc đối
với hàng hóa trung gian nước này trong suốt ba thập kỷ qua. Thay đổi về thể chế là
yếu tố đằng sau sự thành công của Trung Quốc trong mạng lưới sản xuất của khu
vực Đông Á.
Về vấn đề nghiên cứu bài học cho Việt Nam từ quan hệ thương mại hàng hóa
trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, các công trình nghiên cứu ngoài nước cũng
chỉ tập trung vào quan hệ thương mại song phương giữa Nhật Bản – Việt Nam hoặc
Trung Quốc – Việt Nam.
Liên quan đến quan hệ thương mại giữa Nhật Bản – Việt Nam, một số tác giả đã
nghiên cứu về quan hệ thương mại giữa hai nước trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21.
5



Theo các tác giả, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc mở rộng hợp tác nói chung và hợp tác
kinh tế nói riêng là nhu cầu thiết yếu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, mỗi nước trên cơ sở
thế mạnh của mình lại có những quan điểm hợp tác cụ thể đối với từng đối tác. Việt Nam
đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần nhiều vốn và công nghệ. Trong
khi Nhật Bản lại có vốn và công nghệ tuy nhiên nước này đang phải đối mặt với tình trạng
dân số già, thiếu lao động sản xuất. Tham gia vào hợp tác quốc tế, nhu cầu của hai nước sẽ
được giải quyết. Việc xác định rõ lợi thế cạnh tranh, những đặc điểm kinh tế của hai nước
là rất cần thiết để từ đó thấy được nhu cầu thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại
giữa hai nước.
Liên quan đến quan hệ thương mại giữa Trung Quốc – Việt Nam, cũng như
các nghiên cứu trong nước, các bài viết nước ngoài về quan hệ thương mại giữa
Trung Quốc – Việt Nam cũng tập trung vào phân tích thực trạng thương mại giữa
hai nước trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu và thương mại hàng hóa. Các tác phẩm
đều cho rằng Trung Quốc hiện là một trong những đối tác thương mại quan trọng
nhất của Việt Nam. Với tốc độ tăng trưởng thương mại giữa hai nước trong 10 năm
gần đây luôn ổn định đã chứng tỏ những nhân tố thuận lợi trong quan hệ thương
mại giữa hai nước như tính bổ sung lẫn nhau về cơ cấu kinh tế, vị trí địa lý thuận
tiện cho việc chuyển hàng hóa, sự đa dạng hóa trong hình thức trao đổi thương mại
đã được phát huy hiệu quả và đem lại những lợi ích thiết thực cho hai nước. Tuy
nhiên, không thể phủ nhận một thực tế khách quan thương mại của Việt Nam đang
phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc và đáng lo ngại tình trạng nhập siêu từ Trung
Quốc ngày một gia tăng.
1.3. Những giá trị của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc,
khoảng trống nghiên cứu và điểm mới của luận án
1.3.1. Những giá trị của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
Về mặt lý thuyết, các công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào làm rõ khái
niệm về quan hệ thương mại hàng hoá trung gian giữa hai quốc gia theo các thuật
ngữ khác như: hàng hoá bán thành phẩm, hàng hoá linh kiện, thương mại chiều
dọc, thuơng mại nội ngành. Các lý thuyết cơ bản liên quan đến thương mại hàng
hoá trung gian đã làm rõ các vấn đề liên quan đến phân đoạn sản xuất, mạng sản

xuất, lý do một quốc gia tham gia vào mạng sản xuất, phân công lao động quốc tế
theo chiều dọc, theo chiều ngang, lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại hàng
hoá trung gian, vai trò của FDI trong thương mại hàng hoá trung gian.
Về mặt thực tiễn, các công trình nghiên cứu trước đó đã làm rõ bối cảnh kinh tế
Đông Á – nơi diễn ra mối quan hệ hàng hoá trung gian Trung Quốc – Nhật Bản. Trong
bối cảnh này, các tác giả đã làm rõ mô hình đàn nhạn bay, sự lệ thuộc kinh tế lẫn nhau
giữa các quốc gia Đông Á, vai trò của mối quan hệ thương mại song phương Trung
Quốc – Nhật Bản trong bối cảnh Đông Á. Từ đó, thực trạng mối quan hệ thương mại
song phương Trung Quốc – Nhật Bản đã được nhiều tác giả đề cập đến theo các khía
cạnh khác nhau: chính sách, lịch sử của mối quan hệ thương mại song phương, tình
hình xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước từ 2000 – 2017.
1.3.2. Khoảng trống nghiên cứu và điểm mới của luận án
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu trước chưa làm rõ nội hàm các tiêu chí
đánh giá, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng hoá
trung gian giữa các quốc gia. Các vấn đề này chỉ được đề cập một cách nhỏ lẻ và

6


phân tán trong. Vì vậy nhiệm vụ và điểm mới của luận án là làm rõ khung phân tích
và các tiêu chí đánh giá thương mại hàng hoá trung gian giữa các quốc gia.
Thứ hai, thực trạng quan hệ hàng hoá trung gian giữa Trung Quốc và Nhật Bản
chỉ được đề cập đến trong phạm vi rộng của mối quan hệ thương mại hàng hoá nói
chung của hai quốc gia này hoặc trong quan hệ thương mại của mạng sản xuất nội
khối Đông Á. Chính vì vậy, khoảng trồng nghiên cứu đặt ra ở đây là: chưa làm rõ
được thực trạng, đặc điểm và bản chất của mối quan hệ hàng hoá trung gian giữa
Nhật Bản và Trung Quốc, cũng như các ý đồ chính sách của hai nước này trong
trao đổi hàng hóa trung gian và các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa
trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, tác động của thương mại hàng hóa trung gian
đối với hai nước Nhật Bản – Trung Quốc, đối với khu vực Đông Á, ASEAN.

Thứ ba, phần lớn các công trình nghiên cứu trước đó chưa rút ra được các bài
học kinh nghiệm và các đề xuất chính sách cho các quốc gia đang phát triển (trong
đó có Việt Nam) trong quan hệ hàng hoá trung gian với các nước; hoặc một vài
công trình nghiên cứu có đưa ra một số bài học kinh nghiệm hết sức đơn giản chỉ
dừng ở những kiến nghị trong quan hệ song phương (Nhật Bản – Việt Nam và
Trung Quốc – Việt Nam), chứ chưa đi sâu vào kiến nghị trong quan hệ đa chiều
(Việt Nam trong mối quan hệ thương mại hàng hoá trung gian với Nhật Bản và
Trung Quốc).
Thứ tư, về mặt kỹ thuật, hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ
phân tích quan hệ thương mại hàng hóa trung gian Trung Quốc – Nhật Bản cho đến
năm 2010 – 2012. Trong một thế giới thay đổi nhanh chóng như hiện nay và tình
hình địa chính trị Đông Bắc Á diễn biến ngày càng phức tạp, liên kết khu vực Đông
Á đang có những thay đổi khi CPTPP đi vào hoạt động, thì những động thái của
mối quan hệ thương mại hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, Nhật Bản –
Trung Quốc – Mỹ, hoặc Nhật Bản – Trung Quốc - ASEAN có khả năng sẽ phải
thay đổi cho phù hợp với thực tế diễn ra.

7


CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUAN HỆ THƢƠNG MẠI HÀNG HÓA TRUNG GIAN
2.1. Những vấn đề lý luận về quan hệ thƣơng mại hàng hóa trung gian.
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản:
- Hàng hóa trung gian (intermediate goods): là hàng hoá được sử dụng vào một
thời điểm nào đó trong quá trình sản xuất các hàng hoá khác chứ không phải để cho
tiêu dùng cuối cùng.
- Thương mại hàng hóa trung gian (intermediate goods trade) hay được gọi
thay thế bằng thương mại linh kiện (parts and components trades). Thương mại

hàng hóa trung gian có quan hệ mật thiết với phân công lao động theo chiều dọc
(phân công các phân đoạn sản xuất nội bộ ngành giữa các quốc gia) và mạng sản
xuất quốc tế, chuỗi cung ứng quốc tế.
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về quan hệ thương mại hàng hoá trung gian.
Do thương mại hàng hóa trung gian là một phần của thương mại nói chung vì
vậy luận án đã trình bày một số lý thuyết liên quan đến thương mại quốc tế:
2.1.2.1. Lý thuyết lợi thế so sánh tương đối
Cơ sở của lý thyết lợi thế so sánh tương đối chính là sự khác biệt giữa các nước
không chỉ về điều kiện tự nhiên và kỹ thuật mà còn về điều kiện sản xuất nói
chung. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc, bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tìm thấy
sự khác biệt này và chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm nhất định dù có hay
không lợi thế về tự nhiên và kỹ thuật. Trên thực tế lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc
gia không có nhiều, hơn nữa phần lớn các quốc gia tiến hành buôn bán với nhau
không chỉ ở những mặt hàng có lợi thế tuỵệt đối mà còn đối với cả những mặt hàng
dựa trên lợi thế tương đối. Do đó, mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công
lao động quốc tế trên cơ sở khai thác lợi thế tương đối, ngoại thương cho phép mở
rộng khả năng tiêu dùng của một nước.
Ngoài ra, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số sản phẩm hàng
hoá của mình là do việc sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó đã sử dụng được những yếu
tố sản xuất mà nước đó được ưu đãi hơn so với nước khác. Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự
nhiên của các yếu tố sản xuất này (bao gồm: vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) và
công nghệ của các nước là tương đương nhau đã khiến cho một số nước có chi phí cơ hội
thấp hơn trong sản xuất những sản phẩm nhất định.
2.1.2.2. Lý thuyết cạnh tranh quốc gia
Lý thuyết lợi thế so sánh dựa trên yếu tố sản xuất không thể giải thích đầy đủ
các hoạt động thương mại và không đưa câu trả lời tại sao ở những nước khác nhau
có những nét tương đồng về quy mô kinh tế, công nghệ, nguồn lực tài nguyên, lao
động,…, hoạt động kinh tế của nước này lại tốt hơn nước kia. Những giả định làm
nền tảng cho lợi thế so sánh dựa trên yếu tố sản xuất có sức thuyết phục hơn ở thế
kỷ 18 và 19. Khi đó các ngành công nghiệp còn bị phân tán, sản xuất chủ yếu sử

dụng nhiều nhân công chứ không đề cao kỹ năng và thương mại phản ánh sự nhiều
sự khác biệt trong điều kiện phát triển tài nguyên thiên nhiên và vốn. Tuy nhiên,
trong nhiều ngành công nghiệp hiện nay, lợi thế so sánh dựa trên yếu tố sản xuất từ
lâu không thể giải thích đầy đủ các hoạt động thương mại. Điều này đặc biệt đúng
ở những ngành và phân đoạn công nghiệp có liên quan tới công nghệ phức tạp và

8


đòi hỏi nhân công có tay nghề cao, chính là những ngành có vai trò quan trọng nhất
đối với năng suất quốc gia.
Do đó, lý thuyết cạnh tranh quốc gia cho rằng thành công của một đất nước phụ
thuộc chủ yếu vào hai đặc điểm cơ bản sau: (i) những lợi thế về chi phí sản xuất
(lợi thế so sánh) và (ii) những lợi thế về sản xuất sản phẩm cá biệt (lợi thế cạnh
tranh). M. Porter đã xây dựng mô hình "viên kim cương quốc gia" để phân tích
năng lực cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế. Theo mô hình này, lợi thế
cạnh tranh của một quốc gia sẽ phụ thuộc vào 4 yếu tố chính như sau:
- Các điều kiện nhân tố sản xuất gồm có: các nhân tố cơ bản và các nhân tố tiến
bộ. Các nhân tố cơ bản bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý,
lao động (không có kỹ năng và bán kỹ năng), nguồn vốn vay. Các nhân tố tiến bộ
bao gồm bao gồm trình độ công nghệ, cơ sở hạ tầng viễn thông hiện đại, nguồn
nhân lực có trình độ cao…
- Các điều kiện cầu
- Các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan
- Chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa
Ngoài bốn yếu tố chính, Porter còn nhấn mạnh thêm hai biến số có thể ảnh hưởng đến
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia đó là: các sự kiện khách quan và chính phủ.
2.1.2.3. Lý thuyết về mạng sản xuất toàn cầu
- Lý thuyết phân đoạn sản xuất:
Luận điểm phân đoạn sản xuất được xem là cơ sở quan trọng để giải thích sự

phát triển của phân công lao động quốc tế dựa trên quy trình sản xuất (phân công
lao động theo chiều dọc) hơn là dựa theo sự phân công lao động ngành. Đây là một
trong những lý thuyết cơ bản phân tích sự di chuyển FDI đến các nước kém phát
triển để tạo ra các liên kết kinh tế theo chiều dọc và hình thành nên một hệ thống
sản xuất quốc tế.
- Lý thuyết nội bộ hóa:
Lý thuyết nội bộ hóa giải thích mô hình các giao dịch nội bộ ở cấp độ cao trong mạng
lưới sản xuất và phân phối quốc tế. Một công ty chẳng bao giờ làm tất cả các khâu trong
quy trình tạo ra một sản phẩm cuối cùng, từ việc sản xuất ra nguyên vật liệu cơ bản cho
đến khâu bán lẻ sản phẩm cuối cùng. Họ thường nhập nguyên liệu hay linh kiện từ các
công ty khác hay các nhà cung cấp trong nước hoặc nước ngoài. Sau đó họ lại bán sản
phẩm của mình cho một công ty khác để tiếp tục quy trình gia tăng giá trị cho sản phẩm,
tạo thành một sản phẩm mới. Hơn nữa, ngay trong nội bộ doanh nghiệp, các khâu sản
xuất cũng được chia nhỏ và đặt tại các khu vực khác nhau để tận dụng lợi thế từng khu
vực, tiết kiệm chi phí sản xuất cho công ty
- Mô hình đàn nhạn bay:
Mô hình đàn nhạn bay giải thích sự lần lượt cất cánh của công nghiệp các nước
trong khu vực bằng việc phân công lao động gắn với liên kết quốc tế. Mô hình
nguyên thủy là mô hình một quốc gia - một sản phẩm. Ban đầu quốc gia phải nhập
khẩu sản phẩm. Rồi nó tự phát triển năng lực của mình dựa vào thị trường nội địa
và tự sản xuất sản phẩm đó thay thế nhập khẩu. Trong quá trình sản xuất thay thế
nhập khẩu, năng lực của quốc gia được nâng cao hơn nữa, tới mức nó có thể cạnh
tranh trên thị trường quốc tế và trở thành người xuất khẩu sản phẩm đó.
2.1.2.4. Những kế thừa của luận án từ các lý thuyết liên quan đến quan hệ
thương mại hàng hoá trung gian
9


Qua nghiên cứu các lý thuyết liên quan đến quan hệ thương mại hàng hoá trung
gian có thể thấy, quan hệ thương mại hàng hoá trung gian trước hết được dựa trên

cơ sở các lý thuyết truyền thống về phân công lao động quốc tế và lợi thế so sánh
giữa hai quốc gia.
Khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, vấn đề cạnh tranh trở nên được ưu tiên
hàng đầu. Chính vì vậy, từ những năm 1990s đến nay các lý thuyết về thương mại quốc tế
đã có rất nhiều tiến bộ và thay đổi, tập trung phần lớn vào các lợi thế cạnh tranh, các mối
liên kết và mạng sản xuất toàn cầu. Quan hệ thương mại hàng hoá trung gian giữa Nhật
Bản và Trung Quốc phần lớn dựa vào các cơ sở lý thuyết thương mại quốc tế được hình
thành và phát triển từ thập niên 1990s cho đến nay. Mạng sản xuất quốc tế theo cách hiểu
đơn giản, đó là một kiểu cơ cấu phân chia chi nhánh quốc tế trong nội bộ công ty do các
công ty đa quốc gia tạo ra bằng đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế. Thông qua đầu
tư nước ngoài, mỗi phần của sản xuất được đặt ở các nước khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc
điểm khác nhau của mỗi khu vực (lý thuyết phân đoạn sản xuất). Hầu hết các thành phẩm
được lắp ráp cuối cùng sẽ được giao đến các nước khác, chứ không phải ở những khu vực
sản xuất trên đây (lý thuyết nội bộ hoá). Kiểu mạng lưới sản xuất này đảm bảo cho sự hội
nhập kinh tế của khu vực Đông Á và sự phát triển của nền kinh tế hướng vào xuất khẩu
do tất cả các nước đều được hưởng lợi từ lợi thế cạnh tranh dựa trên phân công lao động.
2.1.3. Phân loại hàng hóa trung gian:
Thương mại hàng hóa trung gian được phân loại theo hai cách như sau:
- Phân loại danh mục hàng hóa theo ngành kinh tế rộng (BEC) của Liên hợp quốc.
- Phân loại theo bảng cân đối liên ngành (Input-output table) để phân tích các
mô hình thương mại hàng hóa trung gian song phương.
2.1.4. Các tiêu chí đánh giá quan hệ thương mại hàng hoá trung gian
- Kim ngạch xuất - nhập khẩu
- Vai trò của thương mại hàng hoá trung gian trong nền kinh tế.
- Cơ cấu thương mại nội ngành trong hàng hoá trung gian.
- Chất lượng cơ cấu xuất khẩu (nhập khẩu) hàng hoá trung gian.
- Độ mở cửa về thương mại hàng hoá trung gian
- Độ mở cửa về đầu tư nước ngoài.
2.1.5. Đặc điểm của quan hệ thương mại hàng hóa trung gian
Thứ nhất, thương mại hàng hoá trung gian là một hoạt động nằm trong chuỗi

cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ hai, thương mại hàng hoá trung gian xuất hiện do mức độ phân tán sản xuất
quốc tế ngày càng cao cũng như sự xuất hiện của chuỗi cung ứng theo chiều dọc và
các chiến lược tìm nguồn cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp.
Thứ ba, thương mại hàng hoá trung gian thông qua liên kết ngược và xuôi
(backward and forward linkages).
2.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng hoá trung gian
- Quy mô thị trường
- Công nghệ
- Sự khác biệt về các yếu tố nguồn lực quốc gia.
- Khoảng cách (distances): Khoảng cách giữa các đối tác trong thương mại hàng
hoá trung gian bao gồm khoảng cách về kinh tế, văn hoá và khoảng cách về tổ chức
giữa các đối tác.
- Trình độ phát triển kinh tế.
10


- Thể chế, chính sách của chính phủ.
- Thu nhập bình quân đầu người
2.2. Cơ sở thực tiễn về quan hệ thƣơng mại hàng hóa trung gian.
2.2.1. Mô hình đàn nhạn bay ở Đông Á
Mạng lưới sản xuất Đông Á chủ yếu được định hình theo mô hình “đàn nhạn
bay” dựa trên sự phân công lao động quốc tế trong vùng. Mô hình này ban đầu mô
tả mô hình công nghiệp hoá của một nước phát triển, nhưng sau đó nó được mở
rộng phạm vi áp dụng cho mô hình công nghiệp hoá, phát triển mạng lưới sản xuất
và hợp tác trong khu vực.
Trong mô hình này, Nhật Bản đóng vai trò là con nhạn đầu đàn, có trình độ
công nghệ tiên tiến hơn các con nhạn khác, tiếp theo là sự thấp dần về trình độ
công nghệ giữa các nước NIEs và ASEAN4. Với trình tự như vậy, cơ cấu công
nghiệp của các nước ngày càng được cải thiện nhờ chiến lược đuổi bắt công nghệ

thông qua thu hút FDI nội khối và thông qua thương mại quốc tế, hình thành nên
mạng sản xuất riêng ở khu vực Đông Á.
2.2.2. Mạng sản xuất nội khối Đông Á và vai trò của thương mại hàng hoá
trung gian.
Mạng sản xuất nội khối Đông Á hình thành nhanh chóng nhờ vai trò của thương
mại và đầu tư quốc tế. Kể từ giữa thập niên 1980s, do trình độ kinh tế và quy mô
kinh tế khác nhau, các nước Đông Á đã thực hiện chiến lược hợp tác kinh tế nội
khối sâu rộng. Giai đoạn 1985-2000 chứng kiến các nước Đông Á đẩy mạnh chiến
lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, hưởng lợi từ xu thế toàn cầu hoá và
thực hiện tự do hoá kinh tế sâu rộng và hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới.
Từ năm 2000 đến nay, các nước Đông Á tăng cường hợp tác kinh tế bên trong và
bên ngoài khu vực, và tính đến tháng 11 năm 2010 Đông Á đã ký tới 43 FTAs với
các nước trên thế giới, chiếm tới 20,9% trong tổng số FTAs đã ký kết của các nước
thành viên WTO. Trong ma trận liên kết của ngành công nghiệp chế tạo, ta có thể
thấy vai trò quan trọng của Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan với tư cách là những
nhà cung cấp linh kiện và hàng hoá trung gian lớn của khu vực và Trung Quốc dần
trở thành công xưởng sản xuất của Đông Á.
Mạng sản xuất nội khối Đông Á có các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, mạng sản xuất Đông Á mang tính phi tập trung và thương mại hàng
hoá trung gian đóng vai trò ngày càng quan trọng
- Thứ hai, Nhật Bản và Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong mạng sản
xuất Đông Á và thương mại hàng hoá trung gian.
- Thứ ba, mạng sản xuất Đông Á luôn phải chịu những tổn thương khi có các cú
sốc từ bên ngoài.

11


CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUAN HỆ THƢƠNG

MẠI HÀNG HOÁ TRUNG GIAN NHẬT BẢN – TRUNG QUỐC
3.1. Khái quát thực trạng quan hệ thƣơng mại song phƣơng Nhật Bản – Trung
Quốc kể từ năm 2001 đến nay.
3.1.1. Tổng quan về quan hệ thương mại Trung Quốc – Nhật Bản kể từ năm
2001 đến nay
Nhật Bản và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn trên thế giới, có quan hệ hàng
hoá song phương rất lớn và đây được coi là một trong những đối tác thương mại
lớn nhất thế giới. Quan hệ kinh tế thương mại Nhật Bản – Trung Quốc có lịch sử
thăng trầm, được bình thường hoá quan hệ vào năm 1972 và mối quan hệ này chỉ
thực sự ấm lên từ năm 2001 sau chuyến thăm Trung Quốc của thủ tướng Nhật Bản
Junichiro Koizumi.
Nhật Bản luôn chịu thâm hụt thương mại với Trung Quốc kể từ đầu thập niên
2000s đến nay. Điều đáng chú ý là Trung Quốc luôn là 1 trong 3 đối tác thương
mại lớn nhất của Nhật Bản, và vị trí của Trung Quốc trong cán cân thương mại
Nhật Bản liên tục được cải thiện.
Hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản sang thị trường Trung Quốc chủ yếu là dệt
may, linh kiện vi tính và máy móc thiết bị, trong đó các thiết bị điện tử chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
Trong suốt 16 năm qua kể từ năm 2001, Trung Quốc luôn là đối tác nhập khẩu
lớn nhất của Nhật Bản. Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của Trung Quốc từ Nhật
Bản là máy móc thiết bị điện tử, đặc biệt là điện thoại di động.
Mặc dù cả hai nước đều công bố những số liệu thâm hụt thương mại song
phương nhưng về phía Trung Quốc, sự phụ thuộc trong trao đổi thương mại với
Nhật Bản có chiều hướng giảm đi kể từ năm 2001, trong khi đối với Nhật Bản sự
phụ thuộc này đang có chiều hướng tăng lên.
3.1.2. Chính sách của Nhật Bản và Trung Quốc trong phát triển quan hệ
thương mại song phương
Về chính trị - ngoại giao, sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, quan hệ
giữa Nhật Bản và Trung Quốc phát triển nhanh chóng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế
nhưng vào thời điểm này do Mĩ vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung

Quốc nên quan hệ Nhật – Trung vẫn còn nhiều hạn chế và chỉ từ những năm cuối
của thập kỉ 70 khi Mĩ và Trung Quốc chính thức kí hiệp định thiết lập quan hệ
ngoại giao thì quan hệ Nhật-Trung mới phát triển một cách toàn diện hơn. Với quan
điểm “sự ổn định và phát triển của Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn đối với sự ổn
định và phát triển của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương” và “thị trường khổng lồ
của Trung Quốc là rất cần cho nền kinh tế dựa vào ngoại thương” của Nhật Bản và
quan điểm “vốn và kĩ thuật của Nhật Bản rất cần đối với phát triển kinh tế” của
Trung Quốc chính là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển
mạnh mẽ như vậy.
Về chính sách kinh tế, hai nước nhanh chóng trở thành những đối tác quan trọng
của nhau, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc và Trung Quốc
cũng đã vươn lên thành bạn hàng lớn thứ hai của Nhật Bản sau Mỹ. Thương mại là
lĩnh vực quan trọng nhất của quan hệ kinh tế giữa hai nước. Cả hai nước đều lập
những cơ chế để mở rộng buôn bán cũng như để giải quyết những tranh chấp liên
12


quan đến thương mại một cách thân thiện. Cả hai bên đều cố gắng duy trì quan hệ
tốt và thăm dò những lĩnh vực hợp tác mới. Các mối ràng buộc kinh tế góp phần
thắt chặt quan hệ đến một mức độ mà cả hai đều phụ thuộc nhau.
Về chính sách thương mại, do những mối quan hệ chính trị - kinh tế có nhiều
bước thăng trầm giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong suốt mấy thập kỷ qua, nên
mối quan hệ thương mại song phương giữa hai nước chỉ dừng ở quan hệ thương
mại song phương thông thường. Có nghĩa là, mối quan hệ thương mại này được
dựa trên các thoả thuận hợp tác kinh tế song phương mà hai bên đã ký kết trong
lĩnh vực kinh tế (như đã đề cập ở phần trên) với mục đích chia sẻ nguồn lực và lợi
thế so sánh trong một số lĩnh vực thương mại mà hai bên cùng quan tâm. Các thoả
thuận này thường dựa trên các nguyên tắc hợp tác thương mại được quy định trong
WTO và trong một thời gian nhất định, chỉ tập trung vào một số nội dung hợp tác
thương mại cụ thể và chú trọng các lợi ích ngắn hạn, trung hạn đem lại cho hai bên.

3.2. Quan hệ thƣơng mại hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc
3.2.1.Thực trạng quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Nhật Bản –
Trung Quốc.
- Về kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trung gian giữa hai nước:
Về phía Nhật Bản, trong quan hệ thương mại song phương với Trung Quốc,
xuất khẩu hàng hoá trung gian của Nhật Bản tăng liên tục. Giá trị xuất khẩu hàng
hoá trung gian của Nhật Bản sang Trung Quốc và một số nước ASEAN trong thời
gian qua luôn tăng nhanh hơn giá trị xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cuối cùng, cho
thấy châu Á tiếp tục nằm trong chuỗi cung ứng không thể thiếu của nền kinh tế
Nhật Bản, và Trung Quốc là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng hàng
hoá của Nhật Bản.
Một điều dễ nhận thấy là, trước năm 2000, Trung Quốc luôn đứng thứ hạng sau
Mỹ, EU, Hàn Quốc, ASEAN trong kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trung gian của
Nhật Bản, nhưng sau năm 2000, vị trí của Trung Quốc đã được cải thiện nhanh
chóng và Trung Quốc hiện nay đã trở thành đối tác xuất khẩu lớn nhất của Nhật
Bản về hàng hoá trung gian, vượt qua tất cả các đối tác truyền thống của Nhật Bản
là Mỹ và EU. Tuy nhiên, kể từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, do nền
kinh tế Trung Quốc tiếp tục được mở rộng quy mô sản xuất và cải thiện năng lực
nguồn cung trong nước, nên xuất khẩu hàng hoá trung gian của Nhật Bản sang
Trung Quốc có chiều hướng suy giảm, kể cả hàng sơ chế và hàng linh kiện.
Về phía Trung Quốc, trong quan hệ thương mại hàng hoá trung gian với Nhật
Bản, Trung Quốc dường như tiếp tục đứng vị trí sau một số đối tác thương mại
khác của Nhật Bản là Mỹ, Hàn Quốc, EU và ASEAN. Xuất khẩu hàng hoá sơ chế
của Trung Quốc sang Nhật Bản tăng liên tục.
So với việc trao đổi thương mại hàng hoá cuối cùng, xuất khẩu hàng hoá trung gian
của Trung Quốc sang Nhật Bản có giá trị nhỏ hơn. Trung Quốc có sự kết nối chặt chẽ hơn
với các nước ASEAN (thể hiện xuất khẩu hàng hoá trung gian sang ASEAN tăng liên tục)
và các nước ngoài Đông Á như Mỹ và EU. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã có sự
gắn kết chặt chẽ với nhau hơn trong thời gian gần đây thương mại hàng hoá trung gian
giữa Trung Quốc – Nhật Bản, Trung Quốc – ASEAN cho thấy nhu cầu nhập khẩu và xuất

khẩu của Trung quốc đối với các sản phẩm sơ chế, linh kiện trên thị trường ASEAN lớn
hơn rất nhiều so với thị trường Nhật Bản.

13


Tuy nhiên, khác với phía Nhật Bản có hoạt động thương mại hàng hoá trung
gian sôi động và tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Á (Trung Quốc, ASEAN,
NIEs), trong khi xuất khẩu hàng hoá cuối cùng của Nhật Bản tập trung chủ yếu ở
thị trường Mỹ và EU, thì Trung Quốc đã mở rộng phương thức “tam giác thương
mại” hàng hoá trung gian sang Mỹ và EU.
- Về cơ cấu thương mại nội ngành trong hàng hoá trung gian giữa hai nước:
Chỉ số thương mại nội ngành giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong top 7-8 nhóm hàng
xuất nhập khẩu chính đều có xu hướng gia tăng và ở mức độ gần như cân bằng. Nhật Bản
là nhà cung cấp hàng hoá trung gian chủ yếu cho các doanh nghiệp sản xuất ở Đông Á.
Khi thương mại nội ngành giữa Nhật Bản và Trung Quốc tăng lên, xuất khẩu hàng hoá
đầu vào trung gian của Nhật Bản sang Trung Quốc cũng tăng lên đều đặn. Sự phụ thuộc
của Trung Quốc vào các hàng hoá trung gian đầu vào của Nhật Bản từ thập niên 1990 cho
đến nay đều rất cao, và Trung Quốc vẫn là nước nhập siêu hàng hoá trung gian từ Nhật
Bản. Trong thương mại hàng hoá trung gian nội ngành, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở
thành quốc gia xuất khẩu hàng hoá trung gian lớn nhất khu vực Đông Á, cũng trở thành
nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hàng hoá trung gian, tiếp theo đó là Mỹ, Đức, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Pháp, Malaysia, Italy, Mexico và Anh. Trong khu vực Đông Á, Nhật
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc trở thành trục tam giác quan trọng trong quan hệ thương mại
hàng hoá trung gian.
- Về chất lượng cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá trung gian:
Nhật Bản nhập khẩu phần lớn các hàng hoá trung gian từ Trung Quốc là các
mặt hàng có công nghệ thấp hơn. Trong giá trị kim ngạch nhập khẩu từ Trung
Quốc của Nhật Bản, 7 mặt hàng trung gian có giá trị nhập khẩu lớn nhất chiếm tới
50%, bao gồm 1) Thiết bị và linh kiện điện điện tử (trị giá nhập khẩu từ Trung

Quốc đạt 46,7 tỷ USD); 2) Các sản phẩm phụ kiện may mặc, được đan hoặc móc
(8,5 tỷ USD), 3) Các sản phẩm phụ kiện may mặc, không được đan hoặc móc (8,2
tỷ USD); 4) Nhựa và chất dẻo (5 tỷ USD); 5) Đồ nội thất, ánh sáng, biển báo, thiết
bị xây dựng (4,7 tỷ USD); 6) Các linh kiện thiết bị quang học, hình ảnh, kỹ thuật, y
tế (4,7 tỷ USD), 7) Sắt thép các loại (3,6 tỷ USD). So với năm 2010, kim ngạch
nhập khẩu các hàng hoá trung gian chủ lực từ Trung Quốc có tăng trong một số mặt
hàng như linh kiện, thiết bị điện, điện tử; chất dẻo các loại; nhưng lại có xu hướng
giảm kim ngạch nhập khẩu đối với các mặt hàng trung gian chủ lực khác.
Nhập khẩu hàng hoá trung gian của Trung Quốc từ Nhật Bản chủ yếu là các
hàng hoá có công nghệ cao hơn hoặc nguyên liệu phục vụ sản xuất. Năm 2017, 8
mặt hàng trung gian chủ lực nhập khẩu từ Nhật Bản bao gồm: 1) Thiết bị và linh
kiện điện, điện tử (trị giá nhập khẩu khẩu từ Nhật Bản đạt 42,2 tỷ USD); 2) Các
linh kiện thiết bị quang học, hình ảnh, kỹ thuật, y tế (15,9 tỷ USD); 3) Nhựa và các
sản phẩm chất dẻo (9,7 tỷ USD); 4) Hoá chất hữu cơ (7,0 tỷ USD); 5) Sắt thép (6,0
tỷ USD); 6) Các sản phẩm hoá chất khác (3,3 tỷ USD); 7) Đồng và các sản phẩm từ
đồng (3,1 tỷ USD); 8) Các linh kiện sản phẩm từ sắt thép (2,4 tỷ USD). Tính trong
kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Trung Quốc từ Nhật Bản trong năm 2017, 8
mặt hàng hoá trung gian này đạt 89,6 tỷ USD, chiếm tới 54% (trong tổng kim
ngạch nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật Bản năm 2017 là 165,8 tỷ USD). So với
năm 2010, nhập khẩu hàng hoá trung gian chủ lực của Trung Quốc từ Nhật Bản có
chiều hướng gia tăng trong hầu hết các mặt hàng, trừ nhóm hàng thiết bị, linh kiện
điện và điện tử
14


- Về vai trò của thương mại hàng hoá trung gian trong nền kinh tế:
Thương mại hàng hoá trung gian luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Trung Quốc và Nhật Bản và tỷ trọng này có xu hướng tăng lên
Trung Quốc luôn chịu thâm hụt trong cán cân thương mại hàng hoá trung gian
với Nhật Bản và mức thâm hụt này ngày càng mở rộng trong những năm gần đây.

Phần lớn hàng hoá nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật Bản là hàng hoá trung
gian, trong khi nhập khẩu hàng hoá vốn cuối cùng và hàng tiêu dùng cuối cùng lại
chiếm tỷ lệ khá nhỏ. Còn đối với Nhật Bản, phần lớn hàng hoá Nhật Bản nhập khẩu
từ Trung Quốc là hàng tiêu dùng cuối cùng (có kim ngạch nhập khẩu cao nhất và
mức tăng cao nhất trong tất cả các loai hàng hoá), bởi hàng tiêu dùng cuối cùng của
Trung Quốc có những lợi thế cạnh tranh về giá trên thị trường Nhật Bản. trog khi
đó, các loại hàng hoá trunng gian Nhật Bản nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc
không nhiều, đặc biệt là hàng hoá bán thành phẩm (semi-finished products) có xu
hướng giảm nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc trong thời gian gần đây
- Về độ mở cửa thương mại hàng hoá trung gian:
Trong quan hệ hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, có thể thấy rõ
chính sách thúc đẩy thương mại của hai nước có ảnh hưởng tích cực đến thương
mại hàng hoá trung gian. Chính phủ Trung Quốc cho phép nhập khẩu các sản phẩm
đầu vào (nguyên liệu thô, hàng hoá bán thành phẩm, linh kiện, bộ phận) đều được
miễn thuế. Hơn nữa, nhật khẩu hàng hoá là sản phẩm đầu vào cho các dự án FDI
(linh kiện, thiết bị, máy móc) cũng được miễn thuế hải quan. Những ưu đãi này đã
giúp các doanh nghiệp Nhật Bản có điều kiện thuận lợi thực hiện các liên kết
thương mại và đầu tư theo chiều dọc, giúp thương mại hàng hoá trung gian Nhật
Bản – Trung Quốc tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian qua. Còn đối với Nhật
Bản, chính phủ nước này ủng hộ chính sách thương mại tự do, khuyến khích các
công ty Nhật Bản đầu tư tại Trung Quốc. Dòng chảy đầu tư và hoạt động thương
mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản là minh chứng cho thấy sự phát triển mạnh mẽ
của 2 quốc gia này trong khu vực Đông Bắc Á.
- Về độ mở cửa đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho thương mại hàng hoá trung
gian:
Thương mại hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc phát triển mạnh mẽ là nhờ
các doanh nghiệp FDI của Nhật Bản liên tục mở rộng sản xuất sang Trung Quốc. Dòng
vốn FDI của Nhật Bản sang Trung Quốc đạt 6,57 tỷ USD năm 2005, liên tục tăng và đạt
12,6 tỷ USD năm 2011, 13,4 tỷ USD năm 2012, 9,1 tỷ USD năm 2013, 10,3 tỷ USD năm
2014 và 8,8 tỷ USD năm 2015, trong đó FDI của Nhật vào các ngành công nghiệp chế tạo

của Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao nhất (77,5% năm 2005 và 60,5% năm 2015). Cùng
với dòng FDI của Nhật Bản sang Trung Quốc tăng mạnh, xuất khẩu hàng hoá trung gian
của Nhật Bản sang các doanh nghiệp FDI của Nhật Bản tại Trung quốc đạt 20,3 tỷ USD
và nhập khẩu hàng hoá trung gian của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Trung Quốc đạt
11,3 tỷ USD.
3.2.2. Đặc điểm của quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Nhật Bản –
Trung Quốc
Thứ nhất, quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Trung Quốc – Nhật Bản
nằm trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của mạng sản xuất Đông Á, trong đó
thương mại hàng hoá trung gian song phương có mức độ thâm hụt ngày càng lớn,
nghiêng về phía Trung Quốc.
15


Thứ hai, quan hệ hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc được thực hiện
thông qua liên kết ngược và xuôi.
Thứ ba, liên kết dọc trong hoạt động thương mại hàng hoá trung gian giữa Nhật
Bản và Trung Quốc cũng đang đem lại cho Trung Quốc nhiều thách thức.
3.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hàng hoá trung gian
Nhật Bản – Trung Quốc.
3.2.3.1. Nhân tố thuộc về Trung Quốc và Nhật Bản
- Quy mô thị trường: Đối với Nhật Bản, Trung Quốc là một thị trường rộng lớn
đầy tiềm năng. Quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản được bình thường hóa vào năm
1972, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết Hiệp định thương mại Nhật Bản –
Trung Quốc và nhiều hiệp định hợp tác khác trong thập niên 1970s. Tăng trưởng
kinh tế cao của Trung Quốc trong vài thập niên qua đã khuyến khích các doanh
nghiệp Nhật Bản xuất khẩu vào nước này bởi mức cầu hàng hóa ở Trung Quốc
luôn rất cao, từ hàng chất lượng thấp đến hàng hóa xa xỉ của Nhật Bản và thế giới.
Trong nhiều năm gần đây, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ rất mạnh hàng hóa
Nhật Bản, đặc biệt là hàng điện tử, máy móc thiết bị, sản phẩm hóa chất và thiết bị

vận tải. Hơn nữa, là một nước phát triển đi trước, Nhật Bản đang thiếu thốn rất
nhiều nguồn tài nguyên, nguyên liệu và năng lượng để phục vụ cho phát triển kinh
tế, trong khi đó Trung Quốc là nước có tiềm năng lớn về lĩnh vực này.
Ngoài ra, Trung Quốc còn là thị trường tiềm năng lớn đối với Nhật Bản trong
các sản phẩm dệt may (17,7%), nông nghiệp và thủy sản (5,4%), điện tử (16,8%),
máy móc (15,1%) và đồ chơi (8,1%). Kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO cho
đến nay, thị trường Trung Quốc luôn rộng mở đối với hàng hóa nước ngoài bởi
không còn nhiều trở ngại trong hàng rào thuế quan theo cam kết WTO, đặc biệt là
trong ngành công nghiệp ô tô, khiến xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản tăng rất
mạnh vào Trung Quốc trong thời kỳ này.
Đối với Trung Quốc, Nhật Bản có nhiều tiềm năng lớn trong quan hệ thương mại và
có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trước hết, nền kinh tế có tổng GDP
đạt 4.900 tỷ USD năm 2013 của Nhật Bản (WB) cho thấy Nhật Bản vẫn là nền kinh tế lớn
thứ hai châu Á, sau Trung Quốc. Là một nền kinh tế phát triển, thị trường Nhật Bản có
sức tiêu thụ lớn.
- Trình độ công nghệ: Những con số về thâm hụt thương mại hàng hoá trung
gian song phương giữa Trung Quốc và Nhật Bản cho thấy Trung Quốc vẫn phụ
thuộc tương đối vào hàng hóa Nhật Bản, đặc biệt là nhóm hàng bán dẫn, điện tử,
máy móc thiết bị. Bên cạnh đó, công nghiệp chế tạo của Nhật Bản tại Trung Quốc
có thể giúp các doanh nghiệp Trung Quốc nâng tầm thương hiệu của họ lên cấp độ
toàn cầu. Trung Quốc xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là sản phẩm điện tử, máy
móc thiết bị, dệt may, đồ chơi, thực phẩm và thủy sản, thủ công mỹ nghệ nhưng
đây hầu hết là các sản phẩm tập trung nhiều lao động và giá trị gia tăng thấp, vì vậy
hàng hóa Trung Quốc trên thị trường Nhật Bản phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc
liệt từ hàng hóa các nước ASEAN. Việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng
và công nghệ của các doanh nghiệp Nhật Bản buộc các doanh nghiệp Trung Quốc
phải mạnh mẽ hơn và phát triển thị trường nhanh hơn.
- Sự khác biệt về các yếu tố nguồn lực quốc gia: Sự khan hiếm về tài nguyên
thiên nhiên hoặc các yếu tố sản xuất như chi phí sử dụng đất cao đã khiến Nhật Bản
phải đối mặt với những bất lợi mang tính hệ thống trong sản xuất hàng hóa. Do đó,

16


Nhật Bản đã đẩy mạnh việc tìm kiếm các nguồn lợi về tài nguyên thiên nhiên và
phát triển cơ sở sản xuất tại các nước có nhiều điều kiện thuận lợi trong vấn đề này,
nổi bật trong đó là Trung Quốc.
Ngược lại với Nhật Bản, Trung Quốc là một nước rộng lớn (đứng thứ tư trên
thế giới về quy mô diện tích) và có một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
có thế mạnh trong các ngành khai khoáng. Đặc biệt, nước này có nguồn trữ lượng
đất hiếm nhiều nhất trên thế giới (chiếm một nửa số đất hiếm của toàn thế giới).
Theo nhiều chuyên gia, đất hiếm đóng vai trò quan trọng trong các ngành sản xuất
hàng hóa trung gian. Trong cơ cấu nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc, dầu mỏ và
than đá chiếm 24,8% kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản từ Trung Quốc
năm 1990, giảm còn 1,1% vào năm 2011. Các nguồn nguyên liệu khác như xi
măng, đá ceramic, sắt thép và khoáng chất chiếm khoảng 8,3% tổng kim ngạch
nhập khẩu của Nhật Bản từ Trung Quốc.
- Khoảng cách giữa hai quốc gia: Vị trí địa chiến lược của Trung Quốc và Nhật
Bản ở khu vực Đông Á khiến hai nước này ngày càng xích lại gần nhau vì lợi ích
kinh tế, mặc dù giữa hai quốc gia vẫn còn nhiều rào cản về thể chế chính trị và các
vấn đề tranh chấp trong lịch sử. Không nơi nào rõ ràng hơn trong mối quan hệ
Trung – Nhật, dù vẫn còn nhiều tranh chấp do lịch sử để lại từ di sản của chiến
tranh thế giới thứ hai, quan hệ thương mại và đầu tư song phương lại phát triển
mạnh đến thế. Trung Quốc và Nhật Bản đã trở thành những đối tác thương mại và
đầu tư hàng đầu của nhau, chi phối xu hướng phát triển kinh tế của khu vực Đông
Á. Khoảng cách địa lý gần gũi và nằm trong khu vực Đông Á phát triển năng động
nhất thế giới đã có ảnh hưởng tích cực đối với quan hệ thương mại song phương
Nhật – Trung, đưa Trung Quốc và Nhật Bản tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất
toàn cầu trong khu vực
- Trình độ phát triển kinh tế: Hiện nay, các nước có nền kinh tế phát triển (như
Nhật Bản) chủ yếu tập trung phát triển các công nghệ hiện đại và chuyển giao sang

các nước đang phát triển với chi phí thấp hơn để thực hiện sản xuất và nhập khẩu
trở lại các loại hàng hóa sau khi đã sản xuất hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, các nước có
nền kinh tế thịnh vượng và phát triển thường có xu hướng quan hệ thương mại với
các nước tương đồng về kinh tế với họ nhiều hơn. Trong khi đó, các nước có nền
kinh tế kém phát triển (như Trung Quốc) thường có quan hệ thương mại với các
nước giàu hơn. Điều này được giải thích bởi lợi thế cạnh tranh, mà ở đây là giá cả
và chi phí. Các nước có nền kinh tế phát triển sản xuất những sản phẩm công nghệ
cao, đạt chuẩn quốc tế sẽ thực hiện kinh doanh tại thị trường tương đồng để duy trì
lợi thế cạnh tranh.
- Chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của Trung Quốc và Nhật Bản:
Thương mại hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc được hưởng lợi trước hết
từ cơ cấu thuế quan của Trung Quốc. Năm 2001, Trung Quốc chính thức trở thành
thành viên của WTO, tỷ lệ thuế quan giảm mạnh, đặc biệt là đối với hàng hoá trung
gian. Tỷ lệ thuế quan áp cho hàng hoá trung gian luôn thấp hơn hàng hoá tiêu dùng
và hàng hoá vốn đã ảnh hưởng đến cơ cấu thương mại Trung quốc – Nhật Bản,
trong đó hàng hoá trung gian đóng vai trò quan trọng trong thương mại nội khối.
Các chính sách thúc đẩy thương mại của hai nước cũng ảnh hưởng tích cực đến
thương mại hàng hoá trung gian. Tại Trung Quốc, nhập khẩu các sản phẩm đầu vào
(nguyên liệu thô, hàng hoá bán thành phẩm, linh kiện, bộ phận) đều được miễn thuế. Hơn
17


nữa, nhật khẩu hàng hoá là sản phẩm đầu vào cho các dự án FDI (linh kiện, thiết bị, máy
móc) cũng được miễn thuế hải quan.
Tuy nhiên, cho đến nay, Nhật Bản và Trung Quốc chưa ký kết hiệp định thương
mại tự do song phương. Tuy nhiên, quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Nhật
Bản – Trung Quốc đang được hưởng lợi từ các FTA ASEAN +1 giữa ASEAN và
Nhật Bản, ASEAN và Hàn Quốc, ASEAN và Trung Quốc....trong đó, ASEAN
được coi là cầu nối của dòng thương mại tự do trong khu vực Đông Á.
Quan hệ kinh tế thương mại Nhật Bản – Trung Quốc được cải thiện chủ yếu

thông qua các cuộc viếng thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo quốc gia hai nước, và
thông qua những hỗ trợ hợp tác kinh tế song phương qua cơ chế của WTO, qua các
diễn đàn đối thoại song phương và đa phương trong khu vực như Diễn đàn khu vực
ASEAN, diễn đàn đối thoai an ninh Nhật Bản – Trung Quốc, APEC, hợp tác văn
hoá, kỹ thuật song phương...
- Bất đồng về lịch sử, địa lý giữa hai nước
Xuất phát từ các vấn đề lịch sử và những lời phát biểu mang tính nhạy cảm từ
lãnh đạo hai phía, quan hệ thương mại song phương giữa hai nước có những thời
điểm bị “lạnh” bất thường. Những tranh chấp xung quanh quần đảo Điếu
ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan
hệ thương mại song phương.
3.2.3.2. Nhân tố thuộc về quốc tế và khu vực
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động nặng nề đến các nền kinh tế trên thế
giới, trong đó có Nhật Bản và Trung Quốc, ảnh hưởng đến tăng trưởng thương mại
song phương trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, tình hình địa chính trị phức
tạp ở khu vực Đông Bắc Á như vấn đề Triều Tiên, biển Đông, tranh chấp biển đảo
giữa Nhật Bản – Trung Quốc, Hàn Quốc – Trung Quốc đã khiến việc thiết lập FTA
Trung Quốc – Nhật Bản đối diện với rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quan hệ
song phương Nhật Bản – Trung Quốc. Sự nổi lên của các NIEs và ASEAN cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc.
Nếu như trước kia, nhập khẩu hàng hoá trung gian của Trung Quốc từ Nhật Bản và
NIEs là chính, nhưng ngày nay với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của ASEAN và
tiến trình thực hiện Hiệp định thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc mang lại
nhiều kết quả hội nhập cho cả hai phía, thì mối quan hệ này cũng bị ảnh hưởng bởi
thị trường ASEAN dần dần thay thế Nhật Bản và NIEs để trở thành khu vực nhập
khẩu chính của Trung Quốc.
3.2.3.3. Đánh giá chung về tầm quan trọng của các yếu tố tác động lên quan hệ
thương mại hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc.
Theo Porter, lợi thế chỉ được duy trì khi nguồn sinh ra lợi thế được mở rộng và
nâng cấp. Một số nhân tố quyết định tạo ra lợi thế bền vững hơn các nhân tố khác.

Những điều kiện tạo ra những lợi thế động (đổi mới về công nghệ, lợi thế người đi
đầu, áp lực năng cấp) sẽ quan trọng hơn những điều kiện tạo ra lợi thế tĩnh (chi phí
yếu tố sản xuất hay thị trường trong nước lớn). Do đó, lợi thế cạnh tranh nằm chủ
yếu về sự khác biệt của sản phẩm, chứ không nằm trong sự tối thiểu hóa các chi
phí… Những lợi thế về giá lao động rẻ, nguyên liệu thô, hiếm, quy mô thị trường
chỉ tạo ra sự phát triển bền vững, ổn định, chứ không tạo ra nền tảng cho nền kinh
tế phát triển lên một trình độ nhất định. Công nghệ hiện đại mới chính là yếu tố có
khả năng gạt các nguồn lực tự nhiên ra khỏi quỹ đạo cạnh tranh quốc tế thay chúng
18


bằng các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao và thành công nhiều hơn. Ngoài ra,
một số chuyên gia cho rằng, không có tiến bộ công nghệ, một quốc gia vẫn có thể
nâng cao được mức sống của dân tộc mình nhờ tích lũy vốn hay viện trợ nhưng
không thể duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định bởi vì tiến bộ công nghệ
là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định ở tất cả các lĩnh vực và các giai đoạn
phát triển kinh tế. Nhưng mức độ ảnh hưởng của công nghệ đến khả năng cạnh
tranh của mỗi quốc gia lại phụ thuộc vào sự giàu có của mỗi quốc gia đó. Vì vậy,
những nước giàu thường khuyếch trương công nghệ để duy trì và nâng cao khả
năng cạnh tranh. Còn tại các nước đang phát triển, lợi thế cạnh tranh về công nghệ
phụ thuộc trước hết vào khả năng tiếp nhận công nghệ thông qua FDI và thông qua
các kênh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, hơn là khả năng sáng tạo, ít nhất là
trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn.
Trong quan hệ hàng hóa trung gian Nhật Bản – Trung Quốc, có thể thấy rõ
chính sách thúc đẩy thương mại của hai nước có ảnh hưởng tích cực đến thương
mại hàng hoá trung gian. Chính phủ Trung Quốc cho phép nhập khẩu các sản phẩm
đầu vào (nguyên liệu thô, hàng hoá bán thành phẩm, linh kiện, bộ phận) đều được
miễn thuế. Hơn nữa, nhật khẩu hàng hoá là sản phẩm đầu vào cho các dự án FDI
(linh kiện, thiết bị, máy móc) cũng được miễn thuế hải quan. Những ưu đãi này đã
giúp các doanh nghiệp Nhật Bản có điều kiện thuận lợi thực hiện các liên kết

thương mại và đầu tư theo chiều dọc, giúp thương mại hàng hoá trung gian Nhật
Bản – Trung Quốc tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian qua. Còn đối với Nhật
Bản, chính phủ nước này ủng hộ chính sách thương mại tự do, khuyến khích các
công ty Nhật Bản đầu tư tại Trung Quốc. Dòng chảy đầu tư và hoạt động thương
mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản là minh chứng cho thấy sự phát triển mạnh mẽ
của 2 quốc gia này trong khu vực Đông Bắc Á.
Hợp tác kinh tế và thương mại Trung Quốc – Nhật Bản đã bị ảnh hưởng nặng nề
bởi cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế năm 2008. Theo sau đó là các tác động từ việc
tranh chấp quần đảo Điếu Ngư – Senkaku, các bất đồng lịch sử, tình hình địa chính trị
phức tạp tại Đông Bắc Á đã khiến cho hợp tác thương mại giữa hai nước đối mặt với
tình hình xấu chưa từng thấy. Quan hệ giữa hai nước đã thay đổi từ mô hình "chính trị
lạnh và kinh tế nóng" thành mô hình "chính trị lạnh và kinh tế lạnh".
CHƢƠNG 4
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI HÀNG HOÁ TRUNG GIAN
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC, VIỆT NAM – NHẬT BẢN:
MỘT SỐ BÀI HỌC VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
4.1. Khái quát quan hệ thƣơng mại hàng hoá trung gian giữa Việt Nam –
Trung Quốc, Việt Nam – Nhật Bản.
4.1.1. Khái quát quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Việt Nam – Trung Quốc
Quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Việt Nam – Trung Quốc phát triển
mạnh mẽ kể từ năm 2000 trở lại đây. Trong vòng 12 năm, kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá trung gian của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc tăng 3,7 lần và hàng
hoá trung gian xuất khẩu sang Trung Quốc dần chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trung gian của Việt Nam.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc phần lớn là hàng hoá có
giá trị gia tăng thấp. Vào năm 2015, top 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt
19


Nam sang Trung Quốc là máy tính, sản phẩm điện tử, linh kiện, xơ sợi các loại,

hàng rau quả, sắn và sản phẩm từ sắn, máy ảnh – máy quay phim và linh kiện, gỗ
và sản phẩm gỗ, gạo, dầu thô, cao su, giày dép. Phần lớn là sản phẩm trung gian.
Hàng hóa trung gian nhập khẩu của Việt nam từ Trung Quốc tăng với tốc độ
chóng mặt hơn. Các mặt hàng trung gian nhập khẩu đứng đầu của Việt Nam từ thị
trường Trung Quốc là linh phụ kiện dệt may, linh phụ kiện điện thoại, dầu và hoá
dầu, thiết bị máy móc, sản phẩm từ sắt thép, máy móc thiết bị phụ tùng khác, kim
loại thường, sản phẩm từ chất dẻo. Nhìn chung, phân theo phân loại ngành kinh tế
lớn (BEC), có thể thấy nhóm hàng nhập khẩu từ Trung Quốc phần lớn là hàng phụ
trợ công nghiệp và tư liệu sản xuất hàng hoá trung gian phục vụ sản xuất.
Việt Nam bắt đầu nhập siêu từ Trung Quốc vào năm 2001 và con số nhập siêu
này tăng với tốc độ chóng mặt kể từ đó. Trong mối quan hệ hợp tác CAFTA, Trung
Quốc dường như đang được hưởng lợi từ các sản phẩm trung gian giá rẻ của Việt
Nam và xuất khẩu trở lại các sản phẩm trung gian có giá trị gia tăng giá thành cao
hơn, giá trị tốt hơn sang các doanh nghiệp Việt Nam. Sự phụ thuộc của nền kinh tế
Việt Nam và ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam vào các sản phẩm trung gian
của Trung Quốc ngày càng lớn và điều này gây tổn thương cho nền kinh tế Việt
Nam khi có những biến động giá cả hàng hoá từ Trung Quốc hoặc khi nền kinh tế
Trung Quốc lâm vào tình trạng khó khăn trong phát triển kinh tế.
4.1.2. Khái quát quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Việt Nam – Nhật Bản
Quan hệ thương mại hàng hoá trung gian Việt Nam – Nhật Bản mang một sắc
thái khác với Trung Quốc. Trước hết, Việt Nam không ở trong tình trạng nhập siêu
hàng hoá trung gian với Nhật Bản và mối quan hệ thương mại này tương đối cân
bằng. Thứ hai, hàng hoá trung gian chỉ chiếm tỷ lệ tương đối vừa phải trong tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trung gian của Việt Nam trong những năm
qua. Thứ ba, nhập khẩu hàng hoá trung gian của Việt Nam từ thị trường Nhật bản
chiếm khoảng 67% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2000
và dừng ở mức 69-70% trong những năm 2010-2012.
Nhật Bản là bạn hàng nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Trung quốc và là
thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Mỹ. Khác với Trung Quốc, cơ
cấu hàng hoá trung gian của Nhật Bản và Việt Nam mang tính bổ sung, không

mang tính cạnh tranh. Nhật Bản là nước nhập siêu lớn về thủy sản, các mặt hàng
công nghiệp tiêu dung, các thực phẩm chế biến và nhập những mặt hàng nguyên
phụ liệu, linh kiện có chi phí thấp và giá thành rẻ từ Việt nam, trong khi Việt nam
lại là nước có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối về các sản phẩm này. Ngược lại, Việt
nam nhập khẩu từ Nhật Bản phần lớn các máy móc, thiết bị, nguyên liệu, sản phẩm
trung gian phục vụ cho sản xuất, giúp Việt nam tham gia tốt vào chuỗi cung ứng
hàng hoá trong khu vực ASEAN với Nhật Bản. Việc nhập khẩu hàng hoá trung
gian của Nhật Bản giúp Việt Nam đa dạng hoá cơ cấu xuất khẩu của mình (có hàm
lượng hàng hoá trung gian từ Nhật Bản) theo hướng chế tạo xuất khẩu giảm xuất
khẩu nguyên liệu thô và tăng sản phẩm chế tạo có giá trị cao hơn.
4.1.3. Một vài đánh giá
Thứ nhất, thực trạng trao đổi hàng hoá trung gian giữa Việt Nam và Nhật Bản,
Trung Quốc cho thấy, tốc độ gia tăng thương mại hàng hoá trung gian giữa Việt
Nam và Trung Quốc cao hơn rất nhiều so với thương mại hàng hoá trung gian giữa
Việt Nam và Nhật Bản.
20


Thứ hai, tình trạng nhập siêu hàng hoá trung gian của Việt Nam từ thị trường
Trung Quốc đang đặt ra nhiều vấn đề trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Nhiều
ngành sản xuất của Việt Nam đang có mức độ phụ thuộc rất cao vào Trung Quốc
về nguyên liệu và hàng hoá trun gian và cả thị trường đầu ra (tiêu thụ sản phẩm).
Thứ ba, tình trạng cân đối trong quan hệ thương mại hàng hoá trung gian của
Việt nam với Nhật Bản cho thấy Nhật Bản đang có những ảnh hưởng tích cực đối
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. .
4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ quan hệ thƣơng
mại hàng hoá trung gian Nhật Bản – Trung Quốc
4.2.1. Bài học nên tham khảo, học hỏi
Thứ nhất, thương mại hàng hoá trung gian đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế, vì vậy cần phải đánh giá được nhu cầu của nền kinh tế đối với loại

hàng hoá này để tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào hàng hoá trung gian nhập
khẩu, gây tổn hại cho phát triển kinh tế trong nước.
Thứ hai, lựa chọn đối tác phù hợp trong trao đổi hàng hoá trung gian là một giải
pháp quan trọng giúp các quốc gia thuận lợi hơn trong tham gia chuỗi cung ứng và
nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
Thứ ba, bảo hộ thương mại hàng hoá trung gian ở mức độ hợp lý là điều cần
thiết để bảo vệ nền kinh tế trong nước
4.2.2. Bài học nên tránh: Không nên phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường cung
ứng và nhập khẩu hàng hoá trung gian là biện pháp quan trọng để kiểm soát rủi ro.
4.3. Một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Thứ nhất, cần nhanh chóng nâng cao chất lượng hàng hoá trung gian trong giao dịch
thương mại quốc tế để tránh những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, cần điều chỉnh cơ cấu thị trường và cơ cấu sản phẩm trong trao đổi
thương mại hàng hoá trung gian, tránh lệ thuộc vào một thị trường đơn lẻ và tránh
nhập khẩu các sản phẩm trung gian kém chất lượng.
Thứ ba, tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ để tham gia hiệu quả vào mạng
sản xuất quốc tế, giảm bớt sự lệ thuộc vào nhập khẩu hàng hoá trung gian và gia
tăng giá trị sản phẩm của hàng hoá trung gian xuất khẩu.
Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp khi tham gia thương mại hàng hoá trung gian.
Thứ năm, lựa chọn giải pháp phù hợp trong thúc đẩy thương mại hàng hoá trung
gian với Trung Quốc và Nhật Bản.
- Đối với Trung Quốc, cần hạn chế nhập khẩu các hàng hoá trung gian có chất
lượng thấp hoặc chất lượng tương tự như Việt Nam, đồng thời phải nhanh chóng
nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước để tạo ra những sản
phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao hơn khi xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc để cân đối cán cân thương mại hàng hoá trung gian giữa Việt Nam và Trung
Quốc. Để làm được điều đó, trước hết chúng ra cần phải rà soát lại tất cả các nhóm
hàng hóa nhập khẩu, hạn chế những hàng hoá trung gian chất lượng thấp; tăng
cường quản lý nhập khẩu các hàng hoá trung gian có thể sản xuất được trong nước;

Siết chặt hoạt động kiểm soát tại biên giới để ngăn chặn tối đa hiện tượng buôn lậu
hàng hoá từ Trung Quốc; Xây dựng và thực thi các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
bắt buộc đối với các sản phẩm, đặc biệt là thực phẩm và máy móc thiết bị, qua đó
có căn cứ pháp lý để kiểm soát và ngăn chặn sản phẩm kém chất lượng nhập khẩu
21


vào Việt Nam.
- Đối với Nhật Bản: Việt Nam cần tìm kiếm giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ thương
mại hàng hoá trung gian với Nhật Bản hơn nữa trong thời gian tới để giảm phụ thuộc
nhập khẩu hàng hoá trung gian từ Trung Quốc, đồng thời tăng nhanh tỷ trọng hàng hoá
trung gian của Nhật Bản trong cán cân thương mại của Việt Nam, góp phần tích cực
hơn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo giá trị gia tăng cao hơn cho sản phẩm cuối
cùng. Để làm được điều đó, Việt Nam cần phải chú trọng thu hút FDI từ các doanh
nghiệp sản xuất Nhật Bản, cải thiện môi trường thu hút đầu tư cho các nhà đầu tư Nhật
Bản; lựa chọn những ngành sản xuất ưu tiên trong thu hút đầu tư Nhật Bản, ưu tiên tiếp
thu công nghệ Nhật Bản; xây dựng hệ thống danh mục sản phẩm cần khuyến khích trao
đổi thương mại hàng hoá trung gian với Nhật Bản; giám sát chất lượng hàng hoá trung
gian xuất nhập khẩu sang thị trường Nhật. Cùng với đó, cần tích cực thực hiện công tác
xúc tiến thương mại để khai thác tốt hơn tiềm năng từ thị trường Nhật Bản và tận dụng
triệt để những thuận lợi các Hiệp định mang lại, đặc biệt là Hiệp định đối tác kinh tế
Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA).
4.4. Điều kiện cần và đủ để áp dụng các bài học kinh nghiệm và kiến nghị
chính sách đối với Việt Nam
4.4.1. Điều kiện cần
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là điều kiện đảm đảm bảo tăng trưởng
xuất khẩu ổn định, chuyển dịch cơ cấu sản xuất sang các ngành kinh tế có hàm
lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn. Điều kiện này chịu sự tác động và chi
phối của nhiều chính sách khác nhau. Cụ thể là:
- Các chính sách kinh tế vĩ mô để tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài

hạn vào phát triển công nghệ trong sản xuất. Chính sách kinh tế vĩ mô cần phải được ổn
định lâu dài, trong đó có các chính sách lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất...
- Các chính sách khoa học công nghệ quốc gia phải mang tính tạo điều kiện cho
doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận môi trường nghiên cứu, ứng dụng và sử dụng công nghệ
hiệu quả, trong đó có chính sách tăng đầu tư R&D, tăng hỗ trợ doanh nghiệp về tài
chính trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới.
- Các chính sách thương mại mang tính tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp
cận công nghệ mới, có hình thức phòng vệ thương mại để ngăn ngừa nhập khẩu các
công nghệ thấp, công nghệ lạc hậu.
- Phát triển nguồn nhân lực, cả về trình độ, kỹ năng, quản lý... để tạo năng lực
hấp thụ và ứng dụng công nghệ hiện đại.
- Chuyển giao công nghệ mang tính lựa chọn, có định hướng, ưu tiên nhập khẩu
và chuyển giao công nghệ cao và trung bình, kiên quyết từ chối cấp phép nhập
khẩu và chuyển giao các công nghệ gây ô nhiễm và công nghệ thấp. Chính sách
nhập khẩu công nghệ phải có định hướng lâu dài, tập trung vào các ngành công
nghiệp ưu tiên để rút ngắn khoảng cách công nghệ với các nước.
4.4.2. Điều kiện đủ
Tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều
rộng sang chiều sâu chịu sự chi phối và tác động của một số vấn đề sau đây:
- Cần có một kế hoạch tổng thể , lâu dài cho việc tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế. Kế hoạch này không phải là vài năm, mà là một giai đoạn phát triển;
tập trung đúng và trúng vào 3 khâu: tái cấu trúc đầu tư (chủ yếu là đầu tư công), tái cấu
trúc doanh nghiệp nhà nước, tái cấu trúc hệ thống tài chính – ngân hàng.
22


- Cần nhìn nhận khách quan những khuyết tật của mô hình tăng trưởng và cơ
cấu kinh tế cũ để loại bỏ khuyết tập, tiến hành đổi mới.
- Xác định rõ động lực tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới để có kế hoạch
tập trung nguồn lực và chính sách đồng bộ, hiệu quả.

- Cần có đủ nguồn lực để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền
kinh tế, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực tài chính và con người.
KẾT LUẬN
Trong khu vực Đông Á, Nhật Bản và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn, có ảnh
hưởng quan trọng đến mối quan hệ quốc tế trong khu vực. Kể từ khi hai nước tiến
hành bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1972 cho đến nay, quan hệ
thương mại song phương Nhật Bản đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hiện tại,
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản và Nhật Bản là đối tác
thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc sau Mỹ. Cùng với những sáng kiến đang
được đề ra về Cộng đồng kinh tế Châu Á (AEC), Khu vực thương mại tự do Nhật
Bản – Trung Quốc – Hàn Quốc (JKCFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu
vực (RCEP) v.v…, hợp tác khu vực Đông Á đang ngày càng được mở rộng, trong
đó có vai trò đặc biệt quan trọng của Nhật Bản và Trung Quốc.
Tuy nhiên, cho đến nay Nhật Bản và Trung Quốc vẫn chưa ký được một hiệp
định thương mại song phương (FTA) giữa hai nước, trong bối cảnh khu vực Đông
Á trở thành hiệu ứng “bát mì ống” bởi các hiệp định thương mại song phương. Có
rất nhiều lý do để giải thích cho vấn đề này, nhưng việc chưa ký kết FTA song
phương cho thấy Nhật Bản và Trung Quốc chưa phát huy hết tiềm năng hợp tác
thương mại trong thời gian qua. Sự nổi lên của Trung Quốc trong mấy thập niên
qua đang vừa là cơ hội, vừa là thách thức và mối đe dọa đối với vai trò đầu tàu kinh
tế trước đây của Nhật Bản ở châu Á. Hơn nữa, những biến động phức tạp của tình
hình Đông Á, trong đó có vấn đề Triều Tiên, biển đảo (biển Đông, quần đảo Điếu
Ngư/Senkaku), vấn đề lịch sử giữa Nhật Bản và Trung Quốc, … khiến quan hệ
thương mại Nhật Bản – Trung Quốc trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI còn gặp
nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hợp tác thương mại khu vực châu Á,
trong đó có Việt Nam.
Đối với Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc là hai đối tác thương mại lớn, có
ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động kinh tế - thương mại – đầu tư của Việt Nam
trong thời gian qua. Việt Nam hiện nay đang đứng trước những cơ hội và thách
thức không hề nhỏ trong khu vực châu Á khi bối cảnh địa chính trị khu vực đang

thay đổi theo chiều hướng phức tạp, trong đó có sự ảnh hưởng rất lớn của các nước
lớn như Nhật Bản, Trung Quốc nhưng đồng thời cũng có những yếu tố quan trọng
như Mỹ và Nga đang thực hiện chính sách hướng Đông. Nếu như trong hai thập
niên cuối thế kỷ XX, sự phát triển kinh tế ở Đông Á diễn ra theo mô hình làn sóng,
với đội hình đàn nhạn bay do Nhật Bản dẫn đầu, thì sự nổi lên mạnh mẽ của Trung
Quốc trong thế kỷ XXI đang khiến mô hình này có sự thay đổi và một số nước
Đông Nam Á có nền kinh tế gần kề Trung Quốc (trong đó có Việt Nam) đang trở
thành thị trường đầu tư và thương mại tiềm năng của Trung Quốc với các sản phẩm
công nghệ thấp và trung bình. Trong nhiều năm gần đây, cùng với sự gia tăng
thương mại song phương Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam luôn là nước nhập
siêu lớn từ nước này và Trung Quốc luôn là đối tác thương mại lớn thứ nhất của
23


×