Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ TỐ TÂM

GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ
QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ TỐ TÂM

GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ
QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015


Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Thị Tố Tâm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự


MỤC LỤC
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ

HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC .............. 9
1.1.

Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu .................................. 9

1.1.1.

Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu .......................................... 9

1.1.2.

Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu ................................... 13

1.2.

Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy

định về hình thức ...................................................................................... 17
1.2.1.

Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức .......................................................................................... 17
1.2.2.

Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy

định về hình thức .................................................................................. 23
1.3.


Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì và trong pháp luật
của một số quốc gia trên thế giới .............................................................. 25
1.3.1.

Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy

định về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì ................. 25
1.3.2.

Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy

định về hình thức theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới ....... 31
Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ
HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC ............ 35
2.1.

Điều kiện của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức.............................................................................................. 35
2.1.1.

Pháp luật có quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân

sự

................................................................................................ 36



2.1.2.

Chủ thể tham gia giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về

hình thức bắt buộc ................................................................................ 43
2.2.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ

quy định về hình thức ............................................................................... 44
2.2.1. Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
của các bên ........................................................................................... 45
2.2.2. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận ............................................................................................. 46
2.2.3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả
lại hoa lợi, lợi tức ................................................................................. 48
2.2.4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường................................. 49
2.3.

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do

không tuân thủ quy định về hình thức....................................................... 50
2.4.

Trường hợp ngoại lệ của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định

về hình thức.............................................................................................. 52
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ

HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .............................................. 59
3.1.

Một số hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân

sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức................................. 59
3.1.1. Về hình thức của giao dịch dân sự .............................................. 59
3.1.2. Về quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định
về hình thức tại Điều 129 Bộ Luật Dân sự 2015 ................................... 62
3.1.3. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức ..................................................................... 65
3.2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không

tuân thủ quy định về hình thức ................................................................. 67


3.2.1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm hình thức
bắt buộc ................................................................................................ 68
3.2.2. Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất vi phạm hình thức bắt buộc .. 73
3.2.3. Di chúc vi phạm quy định về hình thức....................................... 76
3.3.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức giao dịch dân sự ....... 82


1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý diễn ra phổ biến trong đời sống xã
hội. Nó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu sản xuất, nhu cầu phát triển tư
duy, khoa học kĩ thuật… đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế toàn cầu thì
giao dịch dân sự càng có vai trò quan trọng. Dù diễn ra một cách thường
xuyên và phong phú nhưng giao dịch dân sự luôn được thể hiện dưới những
hình thức nhất định, mà bằng hình thức đó, các bên chủ thể thể hiện nội dung
quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập thông qua giao dịch.
Trên cơ sở quyền tự do xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự, các bên có
quyền chủ động lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp. Tuy nhiên, cũng có
những trường hợp mà các bên không có quyền chủ động lựa chọn hình thức
giao dịch mà buộc phải thực hiện giao dịch theo một hình thức nhất định được
pháp luật dự liệu sẵn, hay còn gọi là hình thức bắt buộc của giao dịch. Đối với
những giao dịch đó, hình thức trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch,
và nếu giao dịch không thỏa mãn yêu cầu về hình thức, giao dịch có khả năng
bị vô hiệu.
Như vậy, hình thức từ đơn giản chỉ là phương tiện biểu hiện nội dung
của giao dịch, trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Các bên tham gia
giao dịch buộc phải tuân thủ điều kiện để giao dịch có hiệu lực pháp luật. Tuy
nhiên, không phải lúc nào chủ thể cũng có điều kiện để hoàn thiện hình thức
giao dịch một cách dễ dàng và không phải ai cũng hiểu được vai trò của hình
thức giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức. Và đặc biệt, trong bối cảnh Bộ luật
Dân sự năm 2015 vừa mới có hiệu lực ngày 01/01/2017, có những quy định
mới về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức,


2


một mặt thể hiện sự tiến bộ nhưng mặt khác, vẫn tồn tại những khó khăn,
vướng mắc cần khắc phục.
Chính vì các lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô
hiêu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định của Bộ luật Dân
sự năm 2015” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân
sự với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về lý luận và thực tiễn của đề tài, từ
đó đưa ra các giải pháp khắc phục một số hạn chế góp phần hoàn thiện pháp
luật và thúc đẩy các giao dịch dân sự diễn ra thuận tiện, nhanh chóng, hiệu
quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức hay hình thức hợp đồng là đề tài không
mới, đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm và nghiên cứu trong suốt
quá trình lập pháp từ Bộ luật Dân sự năm 1995 đến Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các nhà nghiên cứu thường tập trung xem xét vấn đề ở các góc độ bản chất
của giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
cũng như phân loại các giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định pháp luật. Sau
mỗi lần Bộ luật Dân sự được thay thế, lại có những công trình nghiên cứu mới
về các vấn đề kể trên, có thể kể đến như
Về sách chuyên khảo có: Hình thức của hợp đồng của Lê Minh Hùng
(chủ biên) Nxb. Hồng Đức, năm 2015, Hiệu lực của hợp đồng của Lê Minh
Hùng (Chủ biên) Nxb. Hồng Đức, năm 2015…
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như:
- Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối của Bùi Đăng Hiếu, tạp chí Luật học số 05/2001, tr.37-44;
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức của
Nguyễn Văn Cường, tạp chí Tòa án nhân dân, Số 01/2002, tr.29-31;



3

- Quy định “giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình
thức” những vướng mắc và kiến nghị của Hoàng Thị Thanh, tạp chí Tòa án
nhân dân, Số 9/2001, tr.14-16;
- Hình thức của hợp đồng kinh tế và hiệu lực của hợp đồng của Lê Thị
Bích Thọ;
- Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức của Phan Tấn
Pháp, tạp chí Tòa án nhân dân, Số 6/2002, tr.11-13;
- Xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu của Nguyễn Như Quỳnh,
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 03/2005, tr.22-26;
- Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2005 của Nguyễn Thị Tình, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
14/2011, tr.29-32,38;
Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về
đề tài giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức nói riêng như:
- Luận án tiến sĩ: Giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự vô hiệu của Nguyễn Văn Cường, 2005;
- Luận văn thạc sĩ: Giá trị của công chứng đối với hiệu lực của giao dịch
dân sự của Hoàng Khánh Phương, 2012;
- Khóa luận tốt nghiệp: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự theo quy
định pháp luật hiện hành của Nguyễn Thị Hương, 2011.
Như vậy, trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 ban hành và có hiệu lực,
có rất nhiều bài viết về đề tài giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức hoặc các công trình nghiên cứu khác về các đề tài có liên
quan đến đề tài giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định. Tuy
nhiên, các bài viết nói trên được nghiên cứu dưới góc độ pháp luật tại thời
điểm Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực.



4

Khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đang trong giai đoạn soạn thảo, đã có các
công trình đóng góp cho dự thảo như:
- Kiến nghị hoàn thiện các quy định về giao dịch dân sự trong Dự thảo
Bộ luật Dân sự (sửa đổi) của Trần Thị Huệ, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
15/2015, tr.25-28;
- Chế định giao dịch dân sự trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) của
Phan Thị Hồng, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 20/2015, tr.29-32,40.
Có thể thấy, quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ
quy định về hình thức là đề tài không mới, nhưng dưới góc độ nghiên cứu
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đây là đề tài có nhiều vấn đề
để bàn luận và không bị trùng lặp với các công trình khoa học đã được công
bố trong những năm gần đây, đặc biệt là sau thời điểm Bộ luật Dân sự năm
2015 có hiệu lực.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về các quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô
hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định tại Bộ luật Dân
sự năm 2015. So sánh quy định pháp luật hiện hành với quy định các quốc gia
trên thế giới và quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 từ đó chỉ ra những điểm hạn
chế cần khắc phục của Bộ luật Dân sự 2015 và hướng hoàn thiện pháp luật về
hình thức giao dịch dân sự.
3.2.


Phạm vi nghiên cứu

Người viết tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về giao dịch
dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trong Bộ luật Dân sự
2015 và so sánh với Bộ luật Dân sự 2005, các luật chuyên ngành và văn bản
dưới luật có quy định về đề tài nghiên cứu.


5

Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu pháp luật các quốc gia trên thế
giới và pháp luật Việt Nam qua các thời kì về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu
do không tuân thủ quy định về hình thức.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về hình
thức giao dịch dân sự, các khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự
vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. Đồng thời, phân tích các
quy định pháp luật hiện hành, so sánh với pháp luật của các quốc gia trên thế
giới và sự phát triển các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức trong lịch sử lập pháp ở nước ta. Từ đó, đánh giá
các ưu, nhược điểm khi áp dụng quy định pháp luật trong thực tiễn. Trên cơ
sở đó, người viết đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, phù
hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi khi áp dụng pháp luật.
4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


Việc nghiên cứu đề tài này thực hiện các nhiệm vụ:
- Phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức.
- Tìm hiểu quy định pháp luật Việt Nam qua các thời kì và Pháp luật của
một số quốc gia trên thế giới về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ
quy định về hình thức.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao
dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức gồm các nội
dung điều kiện của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về
hình thức, Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức; Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự
vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và các trường hợp ngoại lệ
của giao dịch vi phạm hình thức được Tòa án công nhận hiệu lực.


6

- Chỉ ra những bất cập trong quy định hiện hành và khó khăn khi áp dụng
pháp luật, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hình thức giao
dịch dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê… để giải
quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học, luận văn đã bổ sung thêm những khái niệm mà pháp
luật chưa có quy định cụ thể như khái niệm giao dịch dân sự do không tuân
thủ quy định về hình thức; phân tích đầy đủ các khía cạnh lý luận của giao
dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. Trên sự nghiên

cứu quy định pháp luật hiện hành và so sánh đối chiếu với quy định của các
quốc gia trên thế giới và pháp luật Việt Nam qua các thời kì, luận văn đã chỉ
ra những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật Việt Nam về giao dịch
dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.
Về mặt thực tiễn, khi hiểu đúng bản chất của giao dịch dân sự vô hiệu
do không tuân thủ quy định về hình thức sẽ có cách giải quyết hợp tình hợp lý
đối với các giao dịch vi phạm hình thức. Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra
những điểm bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật giúp việc xác lập
giao dịch diễn ra thuận tiện, đảm bảo tính pháp lý và việc áp dụng của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hạn chế được khó khăn, vướng mắc.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, lời cam đoan, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo thì nội dung chính của luận văn gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức
1.1. Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu


7

1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu
1.2. Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức
1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định
về hình thức
1.2.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức
1.3. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về
hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì và trong pháp luật của

một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì
1.3.2. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
Chương 2. Quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức
2.1. Điều kiện của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về
hình thức
2.1.1. Pháp luật có quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự
2.1.2. Chủ thể tham gia giao dịch không tuân thủ quy định về hình thức
2.2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức
2.2.1. Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự của các bên
2.2.2. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau
những gì đã nhận


8

2.2.3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả
lại hoa lợi, lợi tức
2.2.4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường
2.3. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức
2.4. Trường hợp ngoại lệ của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về
hình thức
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

3.1. Một số hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự
vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
3.1.1. Về hình thức của giao dịch dân sự
3.1.2. Về quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức tại Điều 129 BLDS 2015
3.1.3. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức
3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức
3.2.1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm hình thức
bắt buộc
3.2.2. Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất vi phạm hình thức bắt buộc
3.2.3. Di chúc vi phạm quy định về hình thức
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức giao dịch dân sự


9

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ
HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC
1.1.

Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu

1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự là nhu cầu thiết yếu hàng ngày của xã hội, là căn cứ
quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Đó là
hành vi pháp lý (hành vi pháp lý đơn phương và hành vi pháp lý đa phương)
có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt

quyền và nghĩa vụ dân sự. Định nghĩa giao dịch dân sự được BLDS 2015 quy
định khá cụ thể tại Điều 116: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
Mặc dù giao dịch dân sự được hiểu một cách đơn giản là hành vi pháp
lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự nhưng chỉ
những giao dịch dân sự hợp pháp mới được pháp luật bảo vệ. Giao dịch dân
sự hợp pháp là giao dịch thỏa mãn tất cả các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch. Hay nói cách khác, giao dịch dân sự hợp pháp là giao dịch thỏa mãn các
yếu tố cần và đủ do pháp luật quy định, khi đó giao dịch dân sự được pháp
luật công nhận và bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên. Chỉ khi
thỏa mãn tất cả các điều kiện pháp luật quy định thì giao dịch dân sự mới phát
sinh hiệu lực.
Tùy thuộc vào pháp luật quốc gia mà mỗi nước quy định những điều kiện
có hiệu lực của giao dịch khác nhau. BLDS 2015 quy định điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự tại Điều 117:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập;


10

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp luật có quy định.”
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch gồm điều kiện về năng lực chủ thể, điều kiện về tự do định đoạt ý

chí của chủ thể trong giao dịch dân sự, điều kiện về mục đích và nội dung của
giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong trường hợp, pháp luật có quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch
dân sự thì hình thức của giao dịch dân sự cũng là một điều kiện có hiệu lực
của giao dịch.
Việc quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là hết sức cần
thiết. Một mặt để ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền dân sự để xác lập các
giao dịch trái pháp luật, vi phạm các điều cấm của của pháp luật hoặc vi phạm
đạo đức xã hội1. Mặt khác, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là yếu
tố đảm bảo tính ổn định trong giao lưu dân sự, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của chủ thể không bị xâm phạm và là công cụ của Nhà nước nhằm quản
lý và bảo vệ lợi ích công khi thấy cần thiết.
Hậu quả của giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện
có hiệu lực được pháp luật quy định là giao dịch bị vô hiệu. Thuật ngữ “Giao
dịch dân sự vô hiệu” được sử dụng rộng rãi nhưng chưa có tài liệu chính
thống nào định nghĩa thuật ngữ này một cách cụ thể. Theo từ điển tiếng Việt,
vô hiệu được hiểu là “không có hiệu lực, không có hiệu quả2”. Điều 122
BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự có
1

Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr 231.
2
Viện ngôn ngữ học (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.1083


11

quy định khác. Từ đó có thể hiểu một cách chung nhất, giao dịch dân sự vô

hiệu là giao dịch dân sự không có hiệu lực pháp luật.
Giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh hiệu lực đối với các bên,
không phụ thuộc vào việc các bên đã, đang hay đã thực hiện giao dịch. Bởi
khi một giao dịch bị xem là vô hiệu thì mọi cam kết, thỏa thuận của các bên
đều không được pháp luật ghi nhận, quyền và nghĩa vụ của các bên không bị
phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo nội dung giao dịch, dù là tại thời điểm
tuyên bố giao dịch vô hiệu, các bên chưa hoặc đang thực hiện hoặc đã thực
hiện xong nghĩa vụ theo thỏa thuận. Việc giao kết của các bên không có kết
quả như mong muốn nếu bị xem là vô hiệu. Như vậy, giao dịch dân sự vô
hiệu là giao dịch dân sự không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch do pháp luật quy định, không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên
mong muốn.
Giao dịch dân sự vô hiệu được phân biệt với giao dịch dân sự mất hiệu
lực. Giao dịch dân sự bị xem là vô hiệu là giao dịch vi phạm một trong các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch, giao dịch đó không có hiệu lực kể từ thời
điểm giao kết, quyền và nghĩa vụ của các bên không được xác lập. Còn giao
dịch dân sự mất hiệu lực là giao dịch dân sự có hiệu lực tại thời điểm giao kết
nhưng trong quá trình thực hiện, giao dịch bị mất hiệu lực do rơi vào tình
trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu lực của giao dịch dân sự
có thể do một bên vi phạm dẫn đến bên bị vi phạm yêu cầu hủy giao dịch
hoặc do hai bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của giao dịch hay do một trở
ngại khách quan nào khác3.
Có nhiều cách phân loại giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, trong
phạm vi phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, người viết chỉ tập trung phân loại
giao dịch dân sự vô hiệu thành giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch

3

Lê Thị Bích Thọ (2002), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó, Luận án tiến sĩ Luật học,
Viện nghiên cứu KHPL, tr27-28.



12

dân sự vô hiệu tương đối. Việc phân loại này không được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá bản
chất của giao dịch dân sự vô hiệu và trình tự thủ tục tuyên bố một giao dịch
dân sự vô hiệu.
Thông thường, giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối gồm các trường hợp:
Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội;
Giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu giao dịch
khác; Giao dịch dân sự vô hiệu khi hình thức của giao dịch không tuân thủ
theo các quy định bắt buộc của pháp luật; Giao dịch dân sự vô hiệu khi giao
dịch của pháp nhân xác lập vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động được cho phép,
đăng kí; Giao dịch được xác lập bởi người không có năng lực hành vi dân sự
(chưa đủ 6 tuổi); Giao dịch được xác lập bởi người mất năng lực hành vi dân
sự. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối gồm các trường hợp: Giao dịch dân sự
được xác lập bởi người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;
Giao dịch dân sự được xác lập bởi người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
Giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn; Giao dịch dân sự được xác lập khi
một bên chủ thể tham gia giao dịch bị lừa dối, đe dọa; Giao dịch dân sự được
xác lập do người không nhận thức được hành vi của mình.4
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương
đối khác nhau một số điểm cơ bản như sau:
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự không có hiệu
lực ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp lý, không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của các bên. Các bên phải chấm dứt thực hiện và quay lại
tình trạng ban đầu và hoàn lại cho nhau những gì đã nhận. “Giao dịch này
không có hiệu lực từ thời điểm kí kết dù Tòa án có tuyên bố vô hiệu hay
không”5. Nghĩa là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự

4

Bùi Đăng Hiếu (2001), “Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và tương đối”, Tạp chí Luật học, (05), tr. 37-38.
Lê Thị Bích Thọ (2002), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó, Luận án tiến sĩ Luật học,
Viện nghiên cứu KHPL, tr.73-74.

5


13

đương nhiên vô hiệu, quyết định của Tòa án công nhận giao dịch dân sự này
vô hiệu chỉ là hình thức công nhận sự vô hiệu của giao dịch dựa trên các quy
định của pháp luật.
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là loại giao dịch dân sự có khả năng
khắc phục, “nó được coi là một loại giao dịch dân sự có thể có hiệu lực nhưng
cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên tham gia giao
dịch”6. Giao dịch này thường không xâm phạm đến trật tự công cộng và đạo
đức xã hội. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối được coi là có hiệu lực pháp
lý đến đến khi nào bị tuyên bố vô hiệu. Nếu một bên hoặc các bên không yêu
cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực pháp
luật. Đối với loại giao dịch này, quyết định của Tòa án là cơ sở duy nhất là
cho giao dịch trở nên vô hiệu. “Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh
trước Tòa yêu cầu của mình là có căn cứ, dựa trên sự chứng minh của đương
sự, Tòa án cân nhắc để ra quyết định giao dịch đó có bị coi là vô hiệu hay
không”7.
Về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, đối với các
giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch vô hiệu không bị hạn chế còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
thì thời hiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là 02 năm (Điều 132 BLDS

2015).
Việc xem xét giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối hay giao dịch dân sự
vô hiệu tương đối có ý nghĩa trong việc nghiên cứu bản chất của giao dịch dân
sự vô hiệu, từ đó xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp lý.
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu là các giao dịch dân sự không đáp ứng đủ các
yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của giao dịch do pháp luật quy định. “Việc
6

Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr.23.
7
Bùi Đăng Hiếu (2001), Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và tương đối, Tạp chí Luật học, (05), tr. 39


14

dân sự cốt ở đôi bên”, tuy nhiên, các chủ thể chỉ được thực hiện quyền của
mình khi được pháp luật cho phép và chỉ được thực hiện trong phạm vi pháp
luật đề ra. Chủ thể chỉ được tham gia giao dịch khi có năng lực pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, đó
là các quyền và nghĩa vụ pháp luật trao cho các chủ thể và khả năng chủ thể
bằng khả năng tự có của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Trong quá trình xác lập giao dịch dân sự, chủ thể phải hoàn toàn tự nguyện.
Sự tự nguyện ở đây được hiểu là tự do định đoạt, thể hiện ý chí, không bị ép
buộc, lừa dối, không bị người khác áp đặt ý chí; có sự thống nhất giữa ý chí
bên trong và thể hiện ý chí ra bên ngoài. Bên cạnh đó, mục đích và nội dung
của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội và trong trường hợp pháp luật có quy định điều kiện về hình thức
thì giao dịch dân sự đó phải thỏa mãn yêu cầu về hình thức giao dịch. Khi

không đáp ứng các yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì việc
giao kết sẽ không được pháp luật công nhận hiệu lực và giao dịch đó bị xem
là vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên. Tính vô hiệu của giao dịch dân sự được thể
hiện ở chỗ nó không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh hậu quả
pháp lý mà các bên mong muốn đạt được khi tham gia xác lập giao dịch dân
sự đó. Dù cho khi tham gia giao dịch dân sự, các bên mong muốn đạt được
quyền lợi và nghĩa vụ nhất định, có thiện chí cùng nhau thực hiện để phát sinh
quan hệ pháp luật dân sự nhưng do giao dịch mà các bên xác lập không đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của pháp luật nên quyền và nghĩa vụ của các bên phát
sinh từ giao dịch này không được pháp luật công nhận. Khi không được pháp
luật công nhận thì quan hệ dân sự mà các bên xác lập sẽ không có giá trị về
mặt pháp lý. Như vậy, khi một giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu, quyền và


15

nghĩa vụ dân sự của các bên trong giao dịch sẽ không đạt được. Trường hợp
giao dịch dân sự vô hiệu được xem như giao dịch dân sự không được xác lập.
Giao dịch dân sự vô hiệu không phụ thuộc vào việc các bên đã thực
hiện giao dịch hay chưa. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối như
giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội;
Giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu giao dịch
khác; Giao dịch được xác lập bởi người không có năng lực hành vi dân sự
(chưa đủ 6 tuổi); Giao dịch được xác lập bởi người mất năng lực hành vi dân
sự thì việc khắc phục là điều không thể, giao dịch mặc nhiên bị coi là vô hiệu
tại thời điểm giao kết. Do đó, việc các bên đã, đang thực hiện cũng không có
ý nghĩa trong việc xem xét hiệu lực của giao dịch. Đối với các giao dịch
tương đối thì theo yêu cầu của một bên tham gia giao dịch hoặc theo yêu cầu

của người đại diện, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu mà không phụ thuộc
vào việc các bên đã thực hiện giao dịch hay chưa.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là việc các chủ thể cũng
sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi theo quy định của pháp luật, do
không tuân thủ các quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Theo từ điển Luật học, hậu quả pháp lý là “kết cục tất yếu mà cá nhân, tổ
chức phải gánh chịu trong trường hợp vi phạm pháp luật”8. Khi pháp luật quy
định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, các chủ thể tham gia giao
dịch đó có nghĩa vụ phải tôn trọng và tuân thủ. Việc chủ thể không tuân thủ
quy định về điều kiện có hiệu lực là lỗi của chủ thể khiến cho giao dịch bị vô
hiệu, do đó, chủ thể phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm gây ra.
Nội dung của hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch
dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của các bên; Các bên có nghĩa vụ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại
cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải
8

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.


16

hoàn trả bằng tiền. Hậu quả pháp lý bất lợi của việc vi phạm điều kiện có hiệu
lực của giao dịch đó là mọi thỏa thuận, cam kết của các bên không được pháp
luật thừa nhận, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi chưa có giao
dịch. Vấn đề đặt ra là tại thời điểm xác lập giao dịch, mặc dù giao dịch không
được pháp luật thừa nhận nhưng các bên đã chuyển giao tài sản hoặc lợi ích
vật chất, lợi ích tinh thần cho nhau. Vì thế, hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận là biện pháp cần thiết nhằm giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự vô hiệu. Nhưng không phải đối tượng nào cũng có thể hoàn trả lại như hiện

trạng ban đầu, ví dụ đối tượng của giao dịch là tài sản hao mòn hoặc đối
tượng là công việc; chính vì thế, với những đối tượng không thể hoàn trả
được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng vật ngang giá là tiền.
Bên có lỗi khiến cho giao dịch dân sự vô hiệu phải bồi thường thiệt hại
cho bên còn lại. Đây không phải là trách nhiệm dân sự phát sinh do không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ dân sự theo hợp
đồng. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trong trường hợp
này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi đủ các yếu tố luật định: 1) có
thiệt hại xảy ra; 2) có hành vi trái pháp luật, hành vi trái pháp luật trong
trường hợp này đó là hành vi không tuân thủ quy định về điều kiện có hiệu
lực của giao dịch; 3) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi
trái pháp luật, hay thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật;
4) người vi phạm phải có lỗi, lỗi ở đây được xem xét dưới góc độ lỗi làm cho
giao dịch bị vô hiệu. Khi xác định đầy đủ bốn yếu tố nói trên thì phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi khiến cho giao dịch dân sự vô
hiệu. Như vậy, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là hậu quả pháp
lý bất lợi mà các bên phải gánh chịu khi giao dịch vô hiệu. Do giao dịch dân
sự vô hiệu không được pháp luật công nhận, quyền và nghĩa vụ của các bên
không được phát sinh nên việc các bên đã thực hiện giao dịch hay chưa cũng


17

không có ý nghĩa. Các bên buộc phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận,
vì họ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với những gì đã chuyển giao cho
nhau.
Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu. Dù là giao dịch dân sự vô hiệu tương đối hay giao dịch dân sự vô
hiệu tuyệt đối thì quyết định của Tòa án là quyết định cao nhất trong việc xem

xét hiệu lực của giao dịch dân sự.
1.2.

Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ
quy định về hình thức

1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định
về hình thức
 Hình thức giao dịch dân sự
Theo từ điển Luật học, hình thức được hiểu là “cái bên ngoài, cái chứa
đựng nội dung bên trong”9. Hay nói cách khác, hình thức là những gì làm
thành bề mặt của sự vật, là cái chứa đựng biểu hiện nội dung. Do đó, hình
thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia
giao dịch dân sự ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Điểm đặc trưng của giao dịch dân sự là chủ thể tự do bày tỏ ý chí,
nguyện vọng của bản thân mình, trong trường hợp giao dịch dân sự là hành vi
pháp lý đa phương thì giữa các chủ thể phải có sự thỏa thuận, bàn bạc và đi
đến thống nhất ý chí về nội dung của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, ý chí tự
nguyện đó của các chủ thể phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình
thức nhất định để chủ thể phía bên kia hoặc người thứ ba biết được nguyện
vọng và nội dung của giao dịch dân sự. Chỉ khi các chủ thể biết đến ý chí,
nguyện vọng của nhau thì giao dịch dân sự mới có khả năng được xác lập.
Nếu chủ thể không thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài bằng một hình thức
nhất định thì ý chí đó, dù là ý chí tự nguyện, là nguyện vọng thiết thực không
9

Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 809.


18


bị pháp luật ngăn cấm, không trái với đạo đức xã hội nhưng cũng chỉ là ý chí
nằm trong suy nghĩ, không biến thành hành vi thì pháp luật không thể can
thiệp điều chỉnh. Hình thức của giao dịch dân sự còn là phương tiện để ghi
nhận nội dung chủ thể đã xác định, là chứng cứ thể hiện sự thống nhất giữa ý
chí bên trong và ý chí thể hiện ra bên ngoài của chủ thể. Như vậy, hình thức
giao dịch dân sự là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung giao dịch dân sự.
Trong giao lưu dân sự, trên cơ sở nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi
bên”, các chủ thể có thể tự do thể hiện ý chí của mình dưới các dạng hình
thức khác nhau. Hình thức thể hiện ý chí khá đa dạng như: lời nói; hành vi;
hành động quy ước; văn bản không có công chứng, chứng thực; văn bản có
công chứng, chứng thực. Hình thức giao dịch dân sự còn là căn cứ xác định
thời điểm có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Hình thức lời nói là hình thức mà ý chí của một bên hoặc các bên được
thể hiện thông qua lời nói. Đối với hành vi pháp lý đơn phương, một bên sẽ
tuyên bố ý chí của mình bằng lời nói. Đối với hành vi pháp lý đa phương, các
bên thỏa thuận nội dung giao dịch bằng lời nói như về đối tượng, giá cả,
phương thức thanh toán… và sau khi thỏa thuận xong thì giao dịch dân sự
được xác lập… Giao dịch được giao kết bằng lời nói có hiệu lực ngay sau khi
các bên thỏa thuận trực tiếp, do đó, khi lựa chọn hình thức này, các bên tham
gia hợp đồng nhanh chóng đạt được mục đích của mình. Hình thức này thông
thường được áp dụng trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng có độ tin
tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng có giá trị nhỏ có đối tượng là
hàng hóa tiêu dùng, lương thực, thực phẩm… hay đối với những hợp đồng mà
sau khi giao kết thì hợp đồng sẽ được thực hiện và chấm dứt. Khi có tranh
chấp xảy ra, hình thức hợp đồng này không đảm bảo giá trị chứng cứ mà các
bên phải tự chứng minh đã có giao kết trước đó.
Hình thức giao dịch dân sự bằng văn bản là hình thức mà một bên hoặc
các bên thể hiện ý chí bằng văn bản và kí tên vào đó. Hình thức bằng văn bản



×