Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NNPTNT PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI

NGUYỄN MINH TUẤN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ
ÁN CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NN&PTNT PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI

NGUYỄN MINH TUẤN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ
ÁN CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NN&PTNT PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Kinh tế TNTN và môi trường
Mã số



: 60 - 31 - 16

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HDKH: PGS.TS NGUYỄN BÁ UÂN

Hà Nội - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào trước đây.
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2012
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Tuấn


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được
sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Bá Uân, những ý kiến chuyên
môn quý báu của các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và Quản lý - Trường Đại học
Thủy lợi, và sự giúp đỡ tận tình của Ban giám đốc và các phòng ban chuyên
môn Ban Quản lý dự án Công trình xây dựng NN&PTNT Phú Thọ.
Tác giả xin chân thành cám ơn sự sự chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn
khoa học, sự giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, của cơ quan cung cấp số liệu
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Do trình độ, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu hạn chế nên Luận văn
khó tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng
góp.
Luận văn được hoàn thành tại Khoa Kinh tế và Quản lý Trường Đại học
Thủy lợi.
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2011
Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Tuấn


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Mục tiêu tổng thể của một dự án
Hình 1.2: Sơ đồ các nội dung quản lý dự án đầu tư xây dựng
Hình 1.3: Các giai đoạn của một dự án đầu tư xây dựng
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Phú Thọ

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa quản lý SX kinh doanh và quản lý dự án
B
0

Bảng 3.1: Kế hoạch đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi trong tương lai
B
1


DANH CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
ADB:


Ngân hàng phát triển Châu Á

BVTC:

Bản vẽ thi công

CNVC:

Công nhân viên chức

CT:

Công trình

ĐTXD:

Đầu tư xây dựng

GPMB:

Giải phóng mặt bằng

HC:

Hành chính

ISO:

International Oganization for Standardization


NĐ-CP:

Nghị định Chính phủ

NN&PTNT: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NQ:

Nghị quyết

NSNN:

Ngân sách nhà nước

ODA:

Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức

QĐ:

Quyết định

QLDA:

Quản lý dự án

TCVN:

Tiêu chuẩn Việt Nam


TDT:

Tổng dự toán

TH:

Tổng hợp

TKKT:

Thiết kế kỹ thuật

TTg:

Thủ tướng chính phủ

TW:

Trung ương

UBND:

Ủy ban nhân dân

WB:

Ngân hàng Thế giới

XD:


Xây dựng

XDCT:

Xây dựng công trình


Lời cam đoan
Lời cám ơn
Danh mục hình
Danh mục bảng
Danh mục chữ viết tắt

MỤC LỤC


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng cơ bản là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự
tăng trưởng hay phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn đầu tư
xây dựng cơ bản thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi ngân sách hàng năm.
Sản phẩm trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có đặc thù riêng không giống với
sản phẩm khác, nó được sản xuất đơn chiếc, trong các điều kiện khác nhau,
thời gian xây dựng dài, trải qua nhiều giai đoạn quản lý có tính đặc thù, đặc
biệt là có nhiều tổ chức cá nhân cùng tham gia quản lý đầu tư và xây dựng từ
khâu chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc dự án đưa vào khai thác sử dụng. Chính

vì vậy, việc quản lý chất lượng và hiệu quả các dự án đầu tư xây dựng có một
ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Ở nước ta hiện nay, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý đầu tư xây
T
0

dựng, công tác quản lý các dự án đầu tư xây dựng tại các ban quản lý dự án
đã có những đổi mới, bước đầu phát huy tác dụng trong công quản lý các hoạt
động xây dựng theo định hướng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Nhà nước đã ban hành các quy định, hướng dẫn và kiểm tra về quản lý
dự án đầu tư xây dựng nhằm bảo đảm bảo quá trình đầu tư đúng thủ tục, quy
trình, sử dụng hiệu quả vốn, đảm bảo chất lượng công trình xây dựng, đảm
bảo đưa các công trình vào sử dụng đúng tiến độ. Nhà nước cũng phân cấp
quản lý phù hợp với nguồn vốn đầu tư xây dựng công trình, giảm dần sự can
thiệp trực tiếp của nhà nước, tạo sự chủ động cho các chủ thể tham gia quản
lý và hoạt động xây dựng công trình. Những thay đổi này đã mang lại những
cho hoạt động xây dựng những diện mạo mới và thành tựu rất đáng kể.
T
0

Tuy vậy, trên thực tiễn, công tác quản lý dự án đầu tư của các ban quản

lý dự án cũng còn nhiều vấn đề bất cập, tồn đọng và thậm chí cả những tiêu
cực. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, song nguyên nhân chính
vẫn là do công tác quản lý dự án của ở các ban quản lý dự án đầu tư xây dựng
còn nhiều yếu kém.
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

1



Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

Để góp phần tìm ra những giải pháp góp phần tăng cường hơn nữa

công tác quản lý các dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc ngành Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, nơi mình công tác, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý đầu tư xây dựng tại
Ban Quản lý dự án Công trình xây dựng NN&PTNT Phú Thọ“ làm đề tài
luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về dự án đầu tư
và quản lý dự án đầu tư xây dựng, vai trò của các bên tham gia trong quá trình
chuẩn bị, thực hiện đầu tư và sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản lý thực
hiện các dự án đầu tư xây dựng trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
- Trên cơ sở đánh giá những mặt hạn chế trong công tác quản lý các dự
án, phân tích nguyên nhân và từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác quản lý dự án đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận chung về dự án đầu tư xây dựng, hệ thống các
văn bản pháp quy về quản lý đầu tư xây dựng của Nhà nước và thực trạng
triển khai thực hiện các dự án đầu tư xây dựng của cả nước nói chung, trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng trong thời gian qua. Đề tài tiếp cận phương pháp
duy vật biện chứng để phân tích để giải quyết các vấn đề liên quan đến quá
trình quản lý dự án đầu tư xây dựng. Luận văn sử dụng kết hợp một số
phương pháp nghiên cứu sau:

- Phân tích và hệ thống hóa lý luận;
- Điều tra thu thập và xử lý thông tin thứ cấp;
- Phân tích định tính kết hợp với định lượng;
- Tổng kết kinh nghiệm thực tế.
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

2


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Trường Đại học Thuỷ lợi

a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giải pháp quản lý dự áẳinhmf
nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư xây dựng các công trình xây dựng cơ sở
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ giai đoạn quy
hoạch đến giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, đưa công trình vào
khai thác sử dụng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung Nghiên cứu đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả
công tác quản lý đầu tư xây dựng các dự án đầu tư xây dựng tại Ban Quản lý
dự án Công trình xây dựng NN & PTNT Phú Thọ.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học
Đề tài đã nghiên cứu đã hệ thống những vấn đề lý luận về dự án đầu tư
xây dựng, quản lý dự án đầu tư xây dựng để làm cơ sở khoa học cho những
phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

quản lý dự án đầu tư xây dựng
b. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu , đề xuất biện pháp của luận văn là tài liệu
tham khảo hữu ích đối với việc nâng cao h ơn nữa chất lượng, hiệu quả công
tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng nói chung trên địa bàn cả nước, và
tại Ban Quản lý dự án Công trình xây dựng NN & PTNT Phú Thọ nói riêng.
6. Kết quả dự kiến đạt được
Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý đầu tư xây dựng các dự án đầu tư xây dựng nông nghiệp và phát triển
nông thôn trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng.
7. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận kiến nghị, Luận vân gồm có 3 chương
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

3


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

chính là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư
Chương 2: Phân tích hiện trạng công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng tại
Ban Quản lý dự án Công trình Xây dựng NN & PTNT Phú Thọ
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý dự án
đầu tư xây dựng tại Ban Quản lý dự án Công trình Xây dựng NN
& PTNT Phú Thọ

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K


4


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm về đầu tư và dự án đầu tư
1. Đầu tư
Đầu tư là hoạt động kinh tế sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực,
tài lực, vốn) trong thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi ích kinh tế - tài
chính - xã hội. Nói theo cách khác, hoạt động đầu tư đầu tư là việc huy động
các nguồn lực ở hiện tại, thực hiện một dự án cụ thể, với kỳ vọng trong tương
lai sẽ thu hoạch được hiệu quả mong muốn. Như vậy, hành vi của người đầu
tư là sự hy sinh tiêu dùng ở hiện tại, tập trung tiền bạc, vốn cho việc thực hiện
một hoạt động cụ thể để hy vọng trong tương lai sẽ kiếm được nhiều tiền bạc
hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn. Thùy theo giác độ nghiên cứu
khác nhau, đầu tư có thể được phân ra như sau:
a. Theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư:
Theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư vào đối tượng mà họ bỏ
vốn, theo tiêu thức này, đầu tư được chia thành 3 loại:
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn và người sử
dụng vốn cùng là một chủ thể.
- Đầu tư gián tiếp: là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn
không phải là một. Loại đầu tư này còn được coi là đầu tư tài chính, đầu tư
chứng khoán, với phương thức này, người bỏ vốn không trực tiếp tham gia

quản lý kinh doanh.
b. Theo tính chất đầu tư thì đầu tư được chia thành:
- Đầu tư mới: Đây hình thức đưa toàn bộ vốn đầu tư xây dựng một
công trình mới hoàn toàn.

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

5


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

- Đầu tư mở rộng: là hình thức đầu tư nhằm mở rộng công trình cũ

đang hoạt động để nâng cao công suất của công trình cũ.
- Đầu tư sửa chữa, cải tạo: là việc đầu tư nhằm khôi phục năng lực của
công trình đang hoạt động.
- Cho vay (tín dụng): đây là hình thức dưới dạng cho vay kiếm lời qua
lãi suất tiền cho vay, hình thức này phổ biến nhất là hoạt động của các ngân
hàng thương mại.
c. Theo nội dung kinh tế:
- Đầu tư vào ngườn nhân lực: Là việc đầu tư cho lực lượng lao động
nhằm mục đích tăng về lượng và chất. Gồm các hình thức đào tạo dài hạn,
ngắn hạn, cấp chứng chỉ,...
- Đầu tư vào tài sản lưu động: nhằm bảo đảm sự hoạt động liên tục của
quá trình sản xuất kinh doanh trong từng chu kỳ sản xuất;
- Đầu tư xây dựng cơ bản: là việc đầu tư nhằm tạo mới hoặc nâng cao
mức độ hiện đại tài sản cố định thông qua việc xây dựng mới nhà xưởng, các

công trình hạ tầng và đầu tư cho thiết bị máy móc, công nghệ,…
d. Theo thời gian sử dụng:
Theo thời gian sử dụng người ta phân ra: Đầu tư ngắn hạn (dưới 3
năm); đầu tư trung hạn (từ 3-5 năm); đầu tư dài hạn (> 5 năm)
e. Theo lĩnh vực đầu tư:
Theo lĩnh vực đầu tư, hoạt động đầu tư được chia thành đầu tư cho
nghiên cứu khoa học, đầu tư cho sản xuất, đầu tư cho quản lý,…
f. Theo chủ thể đầu tư:
Theo tiêu thức này đầu tư được chia thành đầu tư Nhà nước và đầu tư
của các thành phần kinh tế khác. Đầu tư Nhà nước là đầu tư mà Nhà nước là
người bỏ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ
phát triển. Đầu tư của các thành phần kinh tế khác là đầu tư mà chủ đầu tư
thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

6


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

2. Dự án và dự án đầu tư

Trường Đại học Thuỷ lợi

a. Dự án:
Theo định nghĩa của Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn ISO 9000:2000 và
theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN ISO 9000:2000) thì dự án được định nghĩa
như sau:
- Dự án (Project) là một quá trình đơn nhất, gồm một tập hợp các hoạt
động có phối hợp và được kiểm soát, có thời hạn bắt đầu và kết thúc, được

tiến hành để đạt được một mục tiêu phù hợp với các yêu cầu quy định, bao
gồm cả các ràng buộc về thời gian, chi phí và nguồn lực.
- Dự án là một quá trình gồm các công tác, nhiệm vụ có liên quan đến
nhau, được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện ràng
buộc về thời gian, nguồn lực và ngân sách.
b. Dự án đầu tư:
Có nhiều khái niệm khác nhau về dự án đầu tư, nhưng những khái niệm
thường xuyên được sử dụng khi nghiên cứu về dự án đầu tư như sau:
- Dự án là tổng thể những chính sách, hoạt động về chi phí liên quan
với nhau được thiết kế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một
thời gian nhất định;
- Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở
rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về
số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó
trong một khoảng thời gian xác định;
- Dự án đầu tư là việc sử dụng hiệu quả đầu vào để thu được đầu tư vì
mục đích cụ thể;
- Dự án đầu tư là tổng thể các Biện pháp nhằm sử dụng các nguồn lực
tài nguyên hữu hạn vốn có để đem lại lợi ích thực cho xã hội càng nhiều càng
tốt;
- Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn lực và
chi phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

7


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi


địa điểm xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất
định nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định.
Như vậy, về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một hồ sơ tài liệu trình bày
một cách chi tiết, có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch
nhằm đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong
tương lai; Về mặt quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng
vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế, xã hội trong một
thời gian dài; Về mặt nội dung: Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động và chi
phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa
điểm xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất
định nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Một dự án đầu tư bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
- Các mục tiêu của dự án, đó là những kết quả và lợi ích mà dự án đem
lại cho nhà đầu tư và cho xã hội;
- Các hoạt động gồm các biện pháp về tổ chức, kinh tế, kỹ thuật,… để
thực hiện mục tiêu của dự án;
- Các nguồn lực cần thiết để thực hiện các hoạt động của dự án và chi
phí về các nguồn lực đó;
- Thời gian và địa điểm thực hiện các hoạt động của dự án;
- Các nguồn vốn đầu tư để tạo nên vốn đầu tư của dự án;
- Các sản phẩm và dịch vụ được tạo ra của dự án.
Như vây, một dự án đầu tư không phải dừng lại là một một ý định hay
phác thảo, mà có tính cụ thể và mục tiêu xác định. Dự án không phải là một
nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng, hay lặp lại, mà phải tạo nên một thực tế
mới, một thực tế mà trước đó chưa từng tồn tại .
c. Dự án đầu tư xây dựngcông trình:
Dự án đầu tư xây dựng công trình được hiểu là các dự án đầu tư có liên
quan tới hoạt động xây dựng cơ bản như xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu
cống,... Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng, không phải tất cả các dự án đầu

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

8


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

tư đều có liên quan tới hoạt động xây dựng cơ bản. Vì thế, đối với những dự
án đầu tư không liên quan tới hoạt động xây dựng cơ bản không gọi là dự án
đầu tư xây dựng.
Xét theo quan điểm động, có thể hiểu dự án đầu tư xây dựng công trình
là một quá trình thực hiện các nhiệm vụ từ ý tưởng đầu tư xây dựng công
trình thành hiện thực trong sự ràng buộc về kết quả (chất lượng), thời gian
(tiến độ) và chi phí đã xác định trong hồ sơ dự án và được thực hiện trong
những điều kiện không chắc chắn (rủi ro).
Dự án đầu tư xây dựng công trình, xét về mặt hình thức là tập hợp các
hồ sơ và bản vẽ thiết kế kiến trúc, thiết kế kỹ thuật và tổ chức thi công công
trình xây dựng và các tài liệu liên quan khác xác định chất lượng công trình
cần đạt được, tổng mức đầu tư của dự án và thời gian thực hiện dự án, hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội của dự án,...
Theo định nghĩa của Luật Xây dựng Việt Nam (2003) thì: “Dự án đầu
tư xây dựng công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để
xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục
đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch
vụ trong một thời hạn nhất định. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm
phần thuyết minh và phần thiết kế cơ sở”. Cũng cần hiểu rõ thêm khái niệm
“Dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước” là dự án có thành phần vốn
nhà nước tham gia chiếm từ 30% tổng mức đầu tư của dự án trở lên và được

xác định tại quyết định phê duyệt dự án. Trong đó, vốn nhà nước bao gồm
vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà
nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý.
1.1.2. Các giai đoạn của dự án đầu tư
Theo cách thông thường, vòng đời của một dự án đầu tư được chia ra
làm 3 giai đoạn khác nhau trong, đó là: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và
vận hành các kết quả đầu tư. Tuy nhiên, xét theo quá trình, thì từ khi hình

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

9


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

thành ý tưởng đến khi kết thúc dự án, thông thường phải trải qua các giai đoạn
sau:
1. Xác định dự án
Đây là giai đoạn đầu tiên, có nhiệm vụ phát hiện những lĩnh vực có
tiềm năng để đầu tư, trên cơ sở đó hình thành sơ bộ các ý đồ đầu tư.
Việc xác định và sàng lọc các ý đồ dự án có ảnh hưởng quyết định tới
quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án. Dự án có thể thất bại hoặc không đạt
được kết quả mong muốn cho dù việc thực hiện và chuẩn bị dự án tốt đến đâu,
nếu như ý đồ ban đầu đã hàm chứa những sai lầm cơ bản.
2. Phân tích và lập dự án
Phân tích và lập dự án là giai đoạn nghiên cứu chi tiết ý tưởng đầu tư đã
được đề xuất trên các phương diện: kỹ thuật, tổ chức - quản lý, thể chế xã hội,

thương mại, tài chính, kinh tế. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là nghiên
cứu một cách toàn diện tính khả thi của dự án. Trong giai đoạn này (có thể)
gồm hai bước: nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi. Các dự án lớn
và quan trọng thường phải thông qua hai bước này, còn các dự án nhỏ và
không quan trọng thì trong giai đoạn này chỉ cần thực hiện bước nghiên cứu
khả thi. Chuẩn bị tốt và phân tích kỹ lưỡng sẽ làm giảm những khó khăn và
chi phí trong giai đoạn thực hiện đầu tư.
3. Thẩm định và phê duyệt dự án
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách, giai đoạn này thường được
thực hiện với sự tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính và
các thành phần khác tham gia dự án, nhằm xác minh, thẩm tra lại toàn bộ kết
luận đã được đưa ra trong quá trình chuẩn bị và phân tích dự án, trên cơ sở đó
chấp nhận hay bác bỏ dự án. Dự án sẽ được phê duyệt, thông qua và đưa vào
thực hiện, nếu nó được xác nhận là có hiệu quả và khả thi. Ngược lại, thì tùy
theo mức độ, dự án có thể được sửa đổi hay buộc phải làm lại.
4. Triển khai thực hiện dự án
Là giai đoạn bắt đầu triển khai vốn và các nguồn lực vào thực hiện đến
khi dự án chấm dứt hoạt động. Thực hiện dự án là kết quả của một quá trình
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

10


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

chuẩn bị và phân tích kỹ lưỡng, song thực tế rất ít khi được tiến hành đúng
như hoạch định. Nhiều dự án không đảm bảo được tiến độ thời gian và chi phí
dự kiến, thậm chí một số dự án phải thay đổi thiết kế ban đầu do giải pháp kỹ

thuật không thích hợp. Nhiều khó khăn và các biến động thường xảy ra trong
giai đoạn thực hiện dự án, nên đòi hỏi các nhà quản lý dự án phải hết sức linh
hoạt, thường xuyên đánh giá và giám sát quá trình thực hiện để kịp thời thấy
được các khó khăn và đề ra các biện pháp giải quyết thích hợp, xem xét điều
chỉnh lại các mục tiêu và phương tiện nếu cần.
5. Nghiệm thu tổng kết và giải thể dự án
Giai đoạn đánh giá nghiệm thu tiến hành sau khi thực hiện dự án nhằm
làm rõ những thành công và thất bại trong toàn bộ quá trình triển khai thực
hiện dự án, qua đó rút ra những kinh nghiệm và bài học cho quản lý các dự án
khác trong tương lai. Kết thúc và giải thể dự án phải giải quyết việc phân chia
sử dụng kết quả của dự án, những phương tiện mà dự án còn để lại và bố trí
lại công việc cho các thành viên tham gia dự án.
1.1.3. Các yêu cầu của dự án đầu tư
Muốn đảm bảo tính khả thi, một dự án đầu tư cần phải đáp ứng các yêu
cầu cơ bản sau:
Tính khoa học: tính khoa học của các dự án đầu tư đòi hỏi những người
soạn thảo dự án phải có một trình tự nghiên cứu tỉ mỉ, thận trọng, chính xác
từng nội dung dự của dự án, đặc biệt là nội dung về tài chính và công nghệ kỹ
thuật. Cần có sự tư vấn của các cơ quan chuyên môn về dịch vụ đầu tư trong
quá trình soạn thảo dự án.
Tính thực tiễn: muốn đảm bảo tính thực tiễn, các nội dung của dự án
phải được nghiên cứu và xác định trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá
đúng mức các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể liên quan trực tiếp và gián tiếp
tới hoạt động đầu tư.
Tính pháp lý: dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với
chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

11



Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản
pháp quy liên quan tới hoạt động đầu tư.
Tính đồng nhất: để đảm bảo tính đồng nhất của dự án, các dự án phải
tuân thủ các quy định chung của các cơ quan chức năng về hoạt động đầu tư,
kể cả các quy định về thủ tục đầu tư. Đối với các dự án quốc tế thì chúng còn
phải tuân thủ những quy định chung mang tính quốc tế.
1.1.4. Phân loại dự án đầu tư
Dự án đầu tư được phân loại theo các tiêu chí sau:
1. Theo cơ cấu tái sản xuất
Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án
đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng thường đòi hỏi khối lượng
vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ
vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều
sâu thường đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không
lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
2. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội
Dự án đầu tư có thể phân chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng,... hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ với
nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ
tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt
hiệu quả cao; còn các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt
mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở
hạ tầng và các dự án đầu tư khác.

3. Theo quy mô và tính chất
Theo quy mô và tính chất, dự án đầu tư được chia làm 3 nhóm: dự án
nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C tuỳ theo tầm quan trọng và quy mô
của dự án. Dự án trọng điểm quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định về chủ
trương đầu tư. Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, là dự án
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

12


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

nhóm A khi tổng mức đầu tư trên 1000 tỷ đồng, là dự án nhóm B khi tổng
mức đầu tư từ 50 tỷ đến 1000 tỷ đồng và là dự án nhóm C khi tổng mức đầu
tư dưới 50 tỷ đồng.
4. Theo cấp độ nghiên cứu
Theo tiêu chí này thì dự án đầu tư được chia làm hai loại: Dự án tiền
khả thi và dự án khả thi.
a. Dự án tiền khả thi:
Nội dung của dự án còn sơ bộ chưa chi tiết, chưa đề cập tới tác động
của các yếu tố bất định và chưa đi vào phân tích từng năm mà chỉ chọn một
năm làm đại diện để nghiên cứu. Do đó kết quả nghiên cứu mới chỉ được tính
sơ bộ, mức độ chính xác chưa cao. Dự án tiền khả thi chỉ được lập cho những
dự án có quy mô đầu tư lớn, giải pháp đầu tư phức tạp và thời gian đầu tư dài,
không thể đạt ngay tính khả thi mà phải qua nghiên cứu sơ bộ, lập dự án sơ
bộ. Vì nghiên cứu khả thi là công việc tốn kém về tiền bạc, thời gian. Khi có
kết luận về nghiên cứu tiền khả thi có hiệu quả mới bắt tay nghiên cứu khả
thi. Đối với dự án có quy mô đầu tư nhỏ, giải pháp đầu tư không phức tạp, có

triển vọng rõ ràng có thể bỏ qua bước lập dự án tiền khả thi và ngay dự án khả
thi.
b. Dự án khả thi:
Dự án khả thi là dự án chi tiết, các giải pháp có căn cứ và mang tính
hợp lý, có thể thực hiện được và khả năng mang lại kết quả vững chắc. Vì ở
giai đoạn nghiên cứu khả thi các vấn đề (nội dung) của dự án được xem xét ở
trạng thái động theo tình hình từng năm trong suốt cả đời dự án. Do đó mọi
yếu tố không ổn định đều được đề cập đến. Vì vậy các kết quả nghiên cứu
một cách chi tiết và đạt độ chính xác cao.
5. Theo nguồn vốn:
Theo nguồn vốn, dự án đầu tư có thể phân chia thành dự án đầu tư có
vốn huy động trong nước, dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn
đầu tư trực tiếp và gián tiếp).

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

13


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn, vai

trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành,
từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế cũng như có các giải pháp thích hợp
đối với việc quản lý các dự án đối với từng nguồn vốn huy động.
6. Theo vùng lãnh thổ
Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư liên quốc gia, dự án quốc

gia, của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.
Ngoài ra trong để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu khác nhau,
người ta còn phân chia dự án đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo
nhiều tiêu thức khác.
1.1.5. Các đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng
Dự án đầu tư xây dựng là các dự án thực hiện trong lĩnh vực xây dựng
như: xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thủy lợi, đường xá, cầu cống..,
xây dựng các trường học, trụ sở làm việc, khu chung cư cao tầng,...
Dự án xây dựng hàm chứa bản chất lưỡng tính: một mặt dự án xây
dựng tập hợp các hồ sơ và bản vẽ thiết kế, trong đó bao gồm các tài liệu pháp
lý, quy hoạch tổng thể, kiến trúc, kết cấu, công nghệ tổ chức thi công… được
giải quyết đối với công trình xây dựng; mặt khác đây là môi trường hoạt động
phù hợp với những mục đích đã đặt ra, nghĩa là một quá trình xây dựng có
định hướng đối với các công trình mới hoặc cải tạo đối với các công trình
hiện hữu sản xuất.
Loại dự án xây dựng thường được xác định bởi quy mô, thời gian thực
hiện, chất lượng, mục tiêu, sự hạn chế tài nguyên,… và quản lý dự án xây
dựng đòi hỏi phải có một tổ chức năng động, các thành viên thông thạo công
việc, biết phối hợp hoạt động với nhau một cách hiệu quả. Khởi đầu một dự
án xây dựng có thể được tính từ điểm xuất vốn đầu tư để thực hiện công trình.
Tuy nhiên trước đó người ta có thể phải chờ đợi, cân nhắc các phương án và
lựa chọn chúng, nhưng dù sao thì dự án vẫn tồn tại một cách trừu tượng cho
đến khi hiện diện một quá trình thực thi thực tế.
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

14


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế


Trường Đại học Thuỷ lợi

Kết thúc dự án xây dựng được tính vào thời điểm bàn giao công trình

đưa vào sử dụng và vận hành sản xuất ra sản phẩm đạt công suất thiết kế.
Trong điều kiện thị trường, chủ đầu tư kỳ vọng không chỉ ở công trình đang
xây dựng mà điều chính yếu là kết quả từ công trình xây dựng mang lại nguồn
thu và lợi nhuận như thế nào sau khi đưa công trình vào sản xuất kinh doanh.
Bởi vậy, chủ đầu tư xem sự vận hành của công trình quan trọng tương quan
với những mục đích kinh doanh của mình. Chính vì thế mà chủ đầu tư hết sức
thận trọng xem xét các yếu tố chi phí trong toàn bộ dự án. Khoản chi phí trực
tiếp cho quá trình vận hành công trình có thể giảm đáng kể do việc tăng chi
phí ban đầu ở giai đoạn xây dựng của dự án.
Một dự án xây dựng được xem là thành công khi: Tổng các chi phí
không vượt quá tổng dự toán hoặc tổng mức đầu tư (trong bước lập dự án);
Thời gian thực hiện phải tương ứng với hạn định trong kế hoạch; Và chất
lượng đảm bảo thỏa mãn nhu cầu khách hàng và các bên tham gia.
1.2. QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
1.2.1. Khái niệm, vai trò, mục tiêu của quản lý dự án
1. Khái niệm về quản lý dự án
Thực tế có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm quản lý dự án,
có thể nêu ra một số khái niệm thường được nhiều học giả sử dụng như sau:
- Quản lý dự án là nghệ thuật và khoa học phối hợp con người, thiết bị,
vật tư, tiền bạc, cùng với tiến độ để hoàn thành một dự án cụ thể đúng
thời hạn trong vòng chi phí đã được duyệt;
- Quản lý dự án là việc điều phối và tổ chức các bên khác nhau tham gia
vào một dự án nhằm hoàn thành dự án đó theo những hạn chế được áp
đặt bởi chất lượng, thời gian và chi phí
- Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực

và giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án
hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và đạt
được các yêu cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

15


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

bằng những phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép;

- Quản lý dự án đầu tư là sự tác động của chủ đầu tư và các chủ thể có
liên quan khác đến quá trình lập dự án đầu tư và thực hiện dự án đầu tư
bằng ủy nhiệm hoặc ký kết hợp đồng với các đơn vị thực hiện thông
qua sử dụng các công cụ và kỹ thuật quản lý và mô hình tổ chức không
có tính tập trung cao, mềm dẻo, linh hoạt để dự án được thực hiện trong
những ràng buộc về chi phí, thời gian và các nguồn lực.
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất: Quản lý dự án là sự vận
dụng lý luận, phương pháp, quan điểm có tính hệ thống để tiến hành quản lý
có hiệu quả toàn bộ công việc liên quan tới dự án dưới sự ràng buộc về nguồn
lực có hạn. Để thực hiện mục tiêu dự án, các nhà đầu tư phải lên kế hoạch tổ
chức, chỉ đạo, phối hợp, điều hành, giám sát, khống chế và đánh giá toàn bộ
quá trình từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc dự án. Quản lý dự án được thực hiện
trong tất cả các giai đoạn khác nhau của chu trình dự án.
Quản lý dự án bao gồm các công việc sau:
- Định ra mục tiêu của dự án;
- Xác định các phương tiện cần huy động (nguyên liệu, nhân lực, vật lực,

thông tin,...);
- Đánh giá các rủi ro có thể xảy ra, đề xuất các biện pháp theo dõi và
hành động;
- Động viên nhân lực tham gia và kết phối hợp các hoạt động của họ;
- Theo dõi dự án, thông báo cho ban chỉ đạo dự án thông tin về tiến trình
thực hiện dự án và tất cả những gì có thể dẫn tới sự thay đổi mục tiêu
hoặc chương trình dự án.
Vậy, quản lý dự án không thể chỉ đơn thuần là thực hiện một khối công
việc đã được hoạch định sẵn, mà nhiều khi chính lại là việc hình thành lên
khối công việc đó. Điều này có nghĩa là không thể quan niệm đơn giản quản
lý dự án chỉ là theo dõi thực hiện dự án.
Để thực hiện mục tiêu đề ra một cách hiệu quả, các nhà quản lý dự án
phải biết và có khả năng vận dụng các lý luận khoa học, các công cụ khoa
Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

16


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

học, các phương pháp khoa học vào quá trình quản lý. Quản lý dự án cũng
như các lĩnh vực quản lý khác luôn đòi hỏi các nhà quản lý phải có năng lực
ứng xử và giải quyết các vấn đề nảy sinh từ các mối quan hệ con người, vì thế
có thể thấy rằng quản lý dự án phải trở thành một nghệ thuật ứng xử.
Quản lý dự án có những khác biệt so với quản lý sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, do dự án có những đặc điểm mang tính đặc thù so với sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Mục tiêu cần đạt được của dự án đã
được xác định trước trong sự ràng buộc về thời gian và chi phí nguồn lực để

thực hiện mục tiêu ấy; thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của dự án đã
được xác định cụ thể; địa điểm thực hiện dự án đã được lựa chọn;...
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa quản lý SX kinh doanh và quản lý dự án
Tiêu chí so
sánh
Mục tiêu

Quản lý sản xuất kinh doanh

Quản lý dự án

Phục vụ sản xuất kinh doanh Nhằm đáp ứng một nhu cầu
bình thường hàng ngày của hoặc một mục tiêu cụ thể và
doanh nghiệp

thường có tính thời điểm

Tính chất

Có tính lặp đi lặp lại

Hoạt động duy nhất

Tài chính

Thực hiện bằng nguồn vốn Hoạt động bằng nguồn vốn
kinh doanh của doanh nghiệp đầu tư

Thời gian


Hoạt động diễn ra theo chu Hoạt động được kế hoạch
trình liên tục lặp lại của sản hóa trong một khoảng thời
xuất

gian có giới hạn

Nhân tố ảnh
hưởng

Chịu ảnh hưởng của cả các
Chịu ảnh hưởng chủ yếu của
yếu tố bên trong và bên
các yếu tố bên trong
ngoài

Sản phẩm

Sản phẩm đầu ra biến thiên
Sản phẩm đầu ra biến thiên
rất khó dự tính được chính
nhưng có thể dự tính được
xác

Hiệu quả

Hiệu quả trong tương lai có
thể được dự đoán trước với Hiệu quả trong tương lai rất
một khoảng sai số có thể biết khó dự báo chính xác
được


Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

17


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

Trường Đại học Thuỷ lợi

2. Vai trò quản lý dự án
Quản lý dự án có vai trò sau:
- Bảo đảm sự liên kết tất cả các hoạt động, công việc của dự án một cách
trình tự và có hợp lý;
- Tăng cường sự hợp tác giữa các thành viên và chỉ rõ trách nhiệm của
các thành viên tham gia dự án, chính vì vậy tận dụng một cách có hiệu
quả các nguồn lực;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hệ thường xuyên, gắn bó giữa
nhóm quản lý dự án với khách hàng (chủ đầu tư) và các nhà cung cấp
đầu vào cho dự án;
- Bảo đảm phát hiện sớm và giải quyết nhanh chóng những khó khăn,
vướng mắc nảy sinh để xử lý, điều chỉnh kịp thời;
- Bảo đảm thời gian hoàn thành của dự án đúng theo kế hoạch tiến độ;
- Bảo đảm tạo ra sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao.
3. Mục tiêu của quản lý dự án
Một dự án có thể được xem như một hệ thống gồm 3 yếu tố:
1. Kết quả cuối cùng cần đạt được (chất lượng của dự án):
Mỗi một dự án thường đặt ra một hay nhiều mục tiêu cần đạt được
(mục tiêu kỹ thuật công nghệ, mục tiêu kinh tế tài chính, mục tiêu kinh tế xã
hội, quốc phòng,...)
2. Nguồn lực:

Để có thể đạt được kết quả mong muốn, mỗi dự án đều dự trù chi phí
nguồn lực huy động cho dự án (nhân lực, tài lực, vật lực, kinh phí,...). Trên
thực tế, do những biến cố rủi ro làm cho chi phí, nguồn lực thực tế thường có
nguy cơ vượt quá dự kiến ban đầu. Cũng có những trường hợp không đủ
nguồn lực huy động cho dự án như đã dự kiến làm cho dự án triển khai không
thuận lợi, phải điều chỉnh, thay đổi lại mục tiêu so với dự kiến ban đầu,...
3. Thời gian:

Học viên: Nguyễn Minh Tuấn - Lớp: Cao học 17K

18


×