Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Tác động của thu nhập lên hạnh phúc của người dân tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
___________________

LÊ MINH LỘC

TÁC ĐỘNG CỦA THU NHẬP LÊN HẠNH PHÚC CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
___________________

LÊ MINH LỘC

TÁC ĐỘNG CỦA THU NHẬP LÊN HẠNH PHÚC CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 8310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THANH LOAN


Tp. Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất cứ công trình nào.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 10 năm 2018
Tác giả Luận văn

Lê Minh Lộc


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU .....................................................................................1
1.1 Đặt vấn đề ............................................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................................... 2
1.3 Phạm vi nghiên cứu................................................................................................................ 2
1.3.1 Khái niệm ......................................................................................................................... 2
1.3.2 Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................................... 2
1.3.3 Không gian và thời gian nghiên cứu .............................................................................. 2
1.4 Cấu trúc luận văn ................................................................................................................... 3


CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................4
2.1 Lược khảo lý thuyết ............................................................................................................... 4
2.1.1 Khái niệm thu nhập ........................................................................................................ 4
2.1.2 Khái niệm hạnh phúc ...................................................................................................... 4
2.1.3 Mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc .................................................................... 6
2.2 Lược khảo nghiên cứu thực nghiệm có liên quan ............................................................... 8

CHƯƠNG 3 : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................13
3.1. Khung phân tích .................................................................................................................. 13
3.2 Mô hình phân tích ................................................................................................................ 13
3.2.1 Mô hình kinh tế lượng .................................................................................................. 13
3.2.2 Thực hiện mô hình ........................................................................................................ 17
3.2.3 Đo lường các biến số ..................................................................................................... 18
3. Dữ liệu nghiên cứu ................................................................................................................. 18

CHƯƠNG 4 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................20
4.1 Tổng quan về các chỉ tiêu phân tích tại Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn
khác tại Việt Nam ....................................................................................................................... 20


4.1.1 Tổng quan về thu nhập bình quân đầu người từ năm 2010 đến 2016 ở Thành phố
Hồ Chí Minh so với cả nước .................................................................................................. 20
4.1.2 Tổng quan về chỉ số hạnh phúc ở Việt Nam ............................................................... 21
4.2 Thống kê mô tả mẫu ............................................................................................................ 23
4.2.1 Đặc điểm chung của mẫu .............................................................................................. 23
4.2.2 Những khác biệt giữa cá nhân có thu nhập và không có thu nhập........................... 29
4.3 Kết quả hồi quy .................................................................................................................... 32
4.3.1 Mô hình ordered probit ................................................................................................ 32
4.3.2 Kết luận ý nghĩa các biến độc lập của mô hình hồi quy ordered probit .................. 37
4.3.3 So sánh sự thay đổi mức độ hài lòng về cuộc sống khi gia tăng thu nhập................ 42


CHƯƠNG 5 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................45
5.1 Kết luận ................................................................................................................................. 45
5.2 Hàm ý chính sách ................................................................................................................. 45
5.3 Giới hạn của nghiên cứu ...................................................................................................... 46

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.2: Các biến số trong mô hình ordered probit ..............................................15
Bảng 4.3: Đặc điểm chung của mẫu dữ liệu ...........................................................24
Bảng 4.5: So sánh giữa cá nhân có thu nhập và không có thu nhập .......................29
Bảng 4.6: Kết quả chạy mô hình ordered probit với biến phụ thuộc HP ................32
Bảng 4.7: So sánh giá trị R bình phương và R bình phương hiệu chỉnh ................33
Bảng 4.8: Kết quả chạy mô hình ordered probit đã loại bỏ biến Age2...................34
Bảng 4.9: So sánh giá trị của sai số chuẩn ..............................................................35
Bảng 4.10: So sánh mức độ hài lòng về cuộc sống ở vấn đề sức khỏe...................36
Bảng 4.11: So sánh dấu kỳ vọng và kết quả mô hình .............................................37


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Khung phân tích ........................................................................................ 13
Hình 4.1: Thu nhập bình quân đầu người/tháng ở Thành phố Hồ Chí Minh 20102016 ........................................................................................................................... 20
Hình 4.2: Chỉ số HPI Việt Nam 2006-2016 .............................................................. 22
Hình 4.4: Mức độ phân bổ thu nhập của người tham gia phỏng vấn ........................ 28
Hình 4.12: Mối quan hệ giữa thu nhập và mức độ hài lòng trong cuộc sống ........... 43



TÓM TẮT
Hạnh phúc là một khái niệm khá đa dạng, với hạnh phúc ngắn hạn biểu hiện
cho những cảm xúc vui vẻ trong một thời gian ngắn, trong khi hạnh phúc dài hạn lại
mang ý nghĩa trừu tượng hơn, bởi nó thể hiện nguyện vọng, ước mơ khác nhau của
cuộc đời mỗi con người như có được sự tôn trọng trong xã hội, đạt được các thành
tựu to lớn, được cống hiến sức mình cho cộng đồng, hay đơn giản là có được một
mái ấm hạnh phúc. Bài nghiên cứu phân tích về tác động của thu nhập lên hạnh
phúc dài hạn, ảnh hưởng của các yếu tố khác lên hạnh phúc dài hạn của người dân
sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu STEP 2012
của World Bank và mô hình ordered probit nhằm phù hợp với thang đo thứ bậc của
mức độ hài lòng về cuộc sống của người tham gia khảo sát. Kết quả của bài nghiên
cứu cho thấy, thu nhập có ảnh hưởng tích cực đến hạnh phúc trong ngắn hạn hơn là
so với hạnh phúc dài hạn, các yếu tố khác như sức khỏe, giáo dục, tính cách cũng có
ảnh hưởng tích cực đến hạnh phúc dài hạn.


1

CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Hạnh phúc có nhiều định nghĩa khác nhau đối với mỗi người, mỗi nơi và ở
mỗi thời điểm. Theo như Kahneman và Deaton (2010) có hai loại hạnh phúc. Thứ
nhất là hạnh phúc trong ngắn hạn, hay còn gọi là hạnh phúc ngày qua ngày, biểu thị
cho cảm xúc thỏa mãn trong một khoảng thời gian như ăn một bữa ăn ngon, trúng
xổ số hay nhặt được tiền. Thứ hai là hạnh phúc trong dài hạn. Loại này nhằm trả lời
câu hỏi “Nhìn lại cuộc đời mình, bạn có cảm thấy hài lòng, hay có tìm được mục
đích và ý nghĩa sống không?”. Hạnh phúc trong dài hạn mang ý nghĩa trừu tượng và
khó nắm bắt hơn loại hạnh phúc ngắn hạn.
Có một câu nói nổi tiếng: “Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc”. Tuy
nhiên tiền bạc có thể mua được các đồ đạc, của cải, vật chất thỏa mãn được các nhu

cầu thiết yếu của con người. Tiền bạc có thể mua được bảo hiểm sức khỏe, dịch vụ
y tế, giáo dục nhằm mang lại sự yên tâm trước các rủi ro bệnh tật, tai nạn trong
tương lai. Như vậy tiền bạc có thể làm thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của con
người, từ cơ bản đến xa hoa, xa xỉ.
Theo một cuốn sách nổi tiếng của Graham (2010) Happiness Around the
World: The Paradox of Happy Peasants and Miserable Millionaires, về hạnh phúc
của mọi người trên toàn thế giới. Tại sao có những người tuy nghèo nàn về vật chất
nhưng họ vẫn cảm thấy thỏa mãn và hài lòng với cuộc sống của mình. Và ngược lại,
có những triệu phú nhưng khi được hỏi họ lại trả lời cuộc sống của mình không
hạnh phúc.
Như vậy, có thật sự tồn tại tác động của tiền bạc hay thu nhập lên hạnh phúc
của con người hay không? Nếu như thu nhập có tác động lên hạnh phúc thì sự ảnh
hưởng này là lên hạnh phúc ngắn hạn hay dài hạn? Và khi thu nhập không còn là
một yếu tố quan trọng để tác động lên hạnh phúc nữa, thì yếu tố nào sẽ là tác nhân
mang đến sự hạnh phúc của người dân.
Bài nghiên cứu phân tích tác động của thu nhập lên hạnh phúc. Đồng thời
tìm hiểu các tác động khác ảnh hưởng lên hạnh phúc dài hạn, qua đó có được các


2

chính sách phù hợp nhằm cải thiện đời sống tinh thần của người dân sinh sống tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
-Mục tiêu chính: Phân tích tác động của thu nhập ảnh hưởng đến hạnh phúc
dài hạn của người dân sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
-Mục tiêu cụ thể:
+ Thu nhập có tác động tiêu cực hay tác động tích cực đến hạnh phúc đối với những
người dân sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phân tích tác động của các yếu tố khác gồm giới tính, sức khỏe, học vấn, gia đình,

tính cách có ảnh hưởng đến hạnh phúc dài hạn của người dân sinh sống tại Thành
phố Hồ Chí Minh không?
1.3 Phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Khái niệm
Hạnh phúc trong bài nghiên cứu này được định nghĩa qua mức độ hài lòng,
thỏa mãn về cuộc sống thông qua các giá trị đạt được trong cuộc đời của người
được phỏng vấn.
1.3.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tác động của thu nhập (thể hiện qua thu nhập của cá
nhân từ tiền lương, tiền công, hoạt động kinh doanh trong một năm) lên sự hạnh
phúc.
Khách thể của bài nghiên cứu là người dân đang sinh sống và làm việc tại
Thành phố Hồ Chí Minh tuổi từ 15 đến 64.
1.3.3 Không gian và thời gian nghiên cứu
Dữ

liệu

của

bài

nghiên

cứu

được

lấy


tại

/>
website:
của

World Bank (2012). Bộ dữ liệu này được thự hiện khảo sát trên địa bàn hai thành
phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Thời gian thu thập là từ tháng 5 đến tháng 6
năm 2012. Bài nghiên cứu chỉ sử dụng số liệu thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.


3

1.4 Cấu trúc luận văn
Chương 1: Trình bày cơ bản về vấn đề cần nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu
và phạm vi nghiên cứu.
Chương 2: Nội dung lược khảo lý thuyết, trình bày khái niệm thu nhập và
hạnh phúc cũng như nói lên mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc. Nêu các
nghiên cứu khác có liên quan đến mục tiêu nghiên cứu của bài viết này.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu trong bài đề cập đến khung phân tích
thể hiện các yếu tố tác động đến hạnh phúc, giới thiệu sơ lược về mô hình phân tích,
loại mô hình được thực hiện, ý nghĩa các biến giải thích, lý do lựa chọn và kỳ vọng
dấu của các biến độc lập, trình bày nội dung của bộ dữ liệu mà bài nghiên cứu sử
dụng.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu được trình bày bao gồm thông tin nền về
hạnh phúc và thu nhập, thực hiện thống kê mô tả bộ dữ liệu, kết quả hồi quy cũng
như kiểm định mô hình hồi quy của bài nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận về kết quả mô hình và đưa ra hàm ý chính sách dựa trên
nghiên cứu đạt được.



4

CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Lược khảo lý thuyết
2.1.1 Khái niệm thu nhập
Thu nhập thường có nhiều định nghĩa. Trong kinh tế học, thu nhập đối với cá
nhân được hiểu là tất cả các khoản thu bằng tiền hay bằng hiện vật mà người lao
động nhận được trong một khoảng thời gian làm việc nhất định. Thu nhập đối với
doanh nghiệp là khoản lợi nhuận ròng (doanh thu trừ đi chi phí) nhận được trong
một khoảng thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khái niệm thu nhập cá nhân trong bài nghiên cứu được hiểu là toàn bộ các
khoản thu nhập mà cá nhân đó đã kiếm được trong năm qua. Thu nhập được đo
lường từ thu nhập mà cá nhân kiếm được trong một đơn vị thời gian nhân với số
lượng thời gian mà cá nhân đó đã làm trong năm. Ví dụ: cá nhân kiếm được thu
nhập 10 triệu một tháng và trong năm chỉ làm 9 tháng thì thu nhập của cá nhân này
là 90 triệu một năm.
2.1.2 Khái niệm hạnh phúc
Hạnh phúc thường được khái niệm trên các quan điểm chủ quan dựa trên
kinh nghiệm trong cuộc sống. Với người này, hạnh phúc là có chỗ ăn chỗ ở, một
cuộc sống bình yên qua ngày. Với người khác, hạnh phúc là phải cống hiến cho xã
hội, được lưu danh tên mình trong sử sách. Vì vậy, có thể thấy rằng nếu mục tiêu
của cuộc đời khác nhau thì giá trị hạnh phúc ở mỗi người cũng khác nhau. Và việc
hoàn thành được mục đích sống của bản thân hay không ảnh hưởng không nhỏ đến
việc người đó có cảm thấy hạnh phúc hay không.
Quan niệm về hạnh phúc cũng khác nhau giữa các tôn giáo. Như trong Kito
giáo: “Hạnh phúc của người công giáo chính là được làm con Thiên Chúa, là Cha
đầy lòng yêu thương, và được làm con trong cung lòng Mẹ Hội Thánh.” Thể hiện
rằng đối với người công giáo, hạnh phúc đơn giản là được sinh ra, được sống, được

cảm nhận về tình thương Thiên Chúa. Hay trong Phật giáo, hạnh phúc là khi con
người làm chủ được ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), chỉ xem tiền bạc vật chất là


5

phương tiện sống, chọn lối sống hướng thiện, yêu thương con người sinh vật, tu
dưỡng tâm tính để bản thân cảm thấy thanh tịnh, bình an.
Hạnh phúc trong nghiên cứu khoa học lần đầu tiên được thể hiện qua cuốn
sách The Science of Happiness của nhiều tác giả vào năm 1861. Từ đó, đề tài về
hạnh phúc của con người được nghiên cứu trong nhiều công trình, bài báo và được
xem như một đối tượng của kinh tế học.
Một nghiên cứu của Chan và Joseph (2000) cho thấy hạnh phúc là được thỏa
mãn các khát vọng, nhu cầu mà bản thân họ mong muốn. Các nhu cầu của con
người được thể hiện rõ nét qua học thuyết tháp nhu cầu của nhà tâm lý học
Abraham Maslow (1943). Cụ thể, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm
chính: nhu cầu cơ bản (basic needs), nhu cầu bậc cao (meta needs) và được sắp xếp
trong năm tầng:
- Tầng thứ nhất: Các nhu cầu sinh lý như ăn, uống, nơi trú ngụ, bài tiết.
- Tầng thứ hai: Các nhu cầu an toàn mang lại cảm giác yên tâm như đảm bảo
về sức khỏe, công việc, gia đình, tài sản.
- Tầng thứ ba: Các nhu cầu về xã hội như có một gia đình yên ấm, người
thân bạn bè thân thiết, sinh sống trong một cộng đồng văn minh.
- Tầng thứ tư: Các nhu cầu được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng.
- Tầng thứ năm: Các nhu cầu được tự thể hiện mình như muốn được thể hiện
khả năng, thể hiện bản thân, được mọi người công nhận là sự thành công.
Con người chỉ có thể thỏa mãn các nhu cầu ở tầng trên khi đã thỏa mãn nhu
cầu ở các tầng phía dưới đáy. Ví dụ một người sẽ không quan tâm đến việc được
tôn trọng hay thể hiện bản thân nếu như họ không có đầy đủ thức ăn, nơi ở. Và việc
đáp ứng được các nhu cầu ở các tầng cao thì mang đến một sự thỏa mãn mãnh liệt

hơn, hạnh phúc hơn so với các tầng dưới. Nghiên cứu về hạnh phúc của con người
sẽ dựa trên mức độ thỏa mãn trong cuộc sống của họ.
Khái niệm hạnh phúc trong bài nghiên cứu được hiểu như hạnh phúc dài hạn
của con người, hay nói về mức độ hài lòng hoặc thỏa mãn của con người về cuộc
sống của họ. Con người khi nhìn nhận về cuộc đời mình, thì cảm thấy hạnh phúc,


6

hay hài lòng về cuộc sống ở một mức độ như thế nào. Khái niệm hạnh phúc trong
bài nghiên cứu được đo lường qua câu hỏi “Theo thang từ 1 đến 10 với 10 là hoàn
toàn thỏa mãn, bạn hiện tại đang thỏa mãn đến đâu với cuộc sống của mình?” được
lấy

từ

website:

/>
description của World Bank (2012). Qua đó, theo diễn giải về ý nghĩa của câu hỏi
này, hạnh phúc được đo bằng việc người này cảm thấy hài lòng, hay thỏa mãn về
cuộc đời mình ở mức độ như thế nào, bởi người có mức độ hài lòng càng cao thì
mức độ hạnh phúc dài hạn của họ cũng cao tương ứng.
2.1.3 Mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc
Theo nghiên cứu của Diener (1984) và Graham (2010), hạnh phúc có hai
khái niệm cần phải được phân biệt rõ ràng để tránh sự nhầm lẫn. Đầu tiên, con
người thường bị cảm xúc về mặt tình cảm làm ảnh hưởng đến suy nghĩ về sự hạnh
phúc. Các cảm giác thường ngày như buồn bã, vui vẻ, lo lắng, áp lực, tức giận chỉ
biểu thị lên mặt cảm xúc trong thời gian ngắn, và được định nghĩa là loại hạnh phúc
ngắn hạn. Loại thứ hai, hạnh phúc trong dài hạn, đề cập đến suy nghĩ của bản thân

về cuộc đời của chính mình. Thường thông qua những câu hỏi như: “Bạn đã làm
được điều gì để cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn?”. Tác giả sẽ lựa chọn loại hạnh
phúc thứ hai này làm thước đo để sử dụng trong bài nghiên cứu này.
Ngoài ra, một nghiên cứu của Howell (2008) khi nghiên cứu về thước đo
hạnh phúc tại 54 quốc gia đang phát triển. Ông đã chứng minh rằng SWB
(subjective well-being) nên được đo lường bằng sự hài lòng, thỏa mãn trong cuộc
sống (thông qua nhận thức, suy ngẫm và trải nghiệm) hơn là sử dụng các thang đo
hạnh phúc (thông qua đánh giá cảm xúc, tình cảm). Điều này củng cố thêm giả thiết
về việc lựa chọn hạnh phúc dài hạn làm thang đo trong bài nghiên cứu. Và câu hỏi:
“Theo thang từ 1 đến 10 với 10 là hoàn toàn thỏa mãn, bạn hiện tại đang thỏa mãn
đến đâu với cuộc sống của mình?” trong cuộc khảo sát STEP (2012) sẽ được chọn
làm cơ sở để đánh giá hạnh phúc của người dân sinh sống tại TP Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu của Diener và Biswas (2002) đã chứng minh được rằng có mối
quan hệ giữa thu nhập với hạnh phúc. Khi thu nhập tăng lên sẽ kéo theo hạnh phúc


7

của họ cũng tăng theo. Điều này được lý giải qua việc khi có nhiều tiền hơn, con
người ta có thể trang trải được cho cuộc sống, đáp ứng được các nhu cầu cơ bản
thiết yếu (đối với những cá nhân nghèo đói), hay đáp ứng được các sở thích, ham
muốn vật chất của con người. Ngoài ra, bài nghiên cứu này còn đưa ra nhận định
rằng, với những người có thu nhập cao, việc thu nhập tăng lên cũng làm tăng mức
độ hạnh phúc của họ.
Sự tác động của thu nhập lên hạnh phúc còn được nêu qua nghiên cứu của
Headey và Muffels (2008) khi sử dụng bộ dữ liệu kinh tế hộ gia đình ở 5 quốc gia là
Anh, Úc, Đức, Hungary và Hà Lan. Thông qua đánh giá lại tác động của phúc lợi
kinh tế lên hạnh phúc, tác giả đã kết luận rằng sự giàu có ảnh hưởng nhiều đến sự
hài lòng về cuộc sống, kể cả tại các quốc gia có chi tiêu tiêu dùng không bền vững (
như Anh và Hungary), thu nhập cũng ảnh hưởng lên hạnh phúc.

Tuy nhiên, có một số ý kiến cho rằng, việc hạnh phúc tăng lên không phải do
tác động của thu nhập mà là do sự giàu có lên của một quốc gia, hay một nền kinh
tế. Nghiên cứu của Clark (2009) tại Đan Mạch, qua phân tích hồi quy bảng cho thấy
rằng tùy thuộc vào thu nhập của hộ gia đình, người trả lời báo cáo đều có mức độ
hài lòng về cuộc sống tăng lên khi thu nhập trung bình của khu vực lân cận tăng lên.
Hay nghiên cứu của Shields (2008) nhằm giải thích nghịch lý Easterlin (Hạnh phúc
trung bình sẽ không thay đổi theo thời gian bất chấp sự tăng mạnh của GNP trên
đầu người) đã nêu lên mối quan hệ giữa hạnh phúc và độ hữu dụng. Qua đó, con
người cảm thấy hạnh phúc hơn khi độ hữu dụng cao hơn, thông qua việc tiêu dùng
hàng hóa, đầu tư và tiết kiệm, mà điều này lại đến từ việc tăng trưởng nền kinh tế
dẫn đến tăng thu nhập.
Chủ nhân của giải Nobel kinh tế năm 2015 là Angus Deaton và cộng sự của
mình là Daniel Kahneman trong tác phẩm “Does Money Buy Happiness?” (2010)
đã nêu lên mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc, liệu tiền bạc có thể mua được
hạnh phúc hay không. Kết quả của bài nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tiền bạc mang đến
cho con người sự cải thiện về cuộc sống vật chất, họ cảm thấy hạnh phúc hơn khi


8

được thỏa mãn các nhu cầu mà khi thu nhập thấp không thể mang lại cho họ, nói
cách khác thu nhập tăng làm hạnh phúc ngắn hạn của họ tăng theo.
Ngoài ra, Deaton và Kahneman đã chứng minh được rằng, khi thu nhập tăng
lên qua một mức nhất định, mà cụ thể là khoảng 75.000 USD trong năm tại Mỹ, thì
ảnh hưởng của thu nhập là không còn đáng kể, nghĩa là thu nhập tăng chỉ làm cho
hạnh phúc tăng rất ít hoặc không tăng. Giải thích cho điều này, khi một người dân
có mức thu nhập vượt ngưỡng 75.000 USD trong năm, các nhu cầu vật chất cơ bản
của họ đều đã được đáp ứng, khi đó họ sẽ muốn thỏa mãn các nhu cầu cao cấp hơn
trong tháp nhu cầu của Maslow như nhu cầu được tôn trọng, được cống hiến. Khi
đó, thu nhập sẽ không còn ảnh hưởng đến mức thỏa mãn trong cuộc sống, hay hạnh

phúc dài hạn nữa, mà yếu tố hạnh phúc sẽ được tác động bởi các biến số khác. Bài
nghiên cứu sẽ sử dụng lý thuyết này để tìm hiểu mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh
phúc, cũng như tìm ngưỡng thu nhập mà tại đó ít tác động lên hạnh phúc của người
dân sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2 Lược khảo nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
Ngoài các nghiên cứu về sự tác động của thu nhập lên hạnh phúc đã được
trình bày ở phần trên. Hạnh phúc của con người còn bị ảnh hưởng bởi một số các
biến liên quan khác.
Nghiên cứu của Gerdtham (2001) cho thấy rằng hạnh phúc gia tăng khi sức
khỏe được cải thiện tốt hơn (Dễ dàng thấy được rằng một người khỏe mạnh thì sẽ
tận hưởng cuộc sống tốt hơn là một người hay nằm viện). Tuy nhiên, kết quả của
cuộc thăm dò ảnh hưởng của sức khỏe lên sự hài lòng về cuộc sống của Deaton
(2008) lại chỉ ra rằng không có một sự ảnh hưởng rõ rệt giữa tuổi thọ kéo dài và sự
hạnh phúc trong cuộc sống. Theo giải thích của Deaton, rằng khi được tận hưởng
một nền y học tốt, sức khỏe tăng lên và tuổi thọ trung bình sẽ được kéo dài ra. Tuổi
thọ tăng chắc chắn sẽ giúp cho con người làm được nhiều việc hơn, và họ sẽ hài
lòng về cuộc sống của mình hơn? Không, điều này chỉ làm thay đổi kỳ vọng trong
cuộc sống. Minh chứng rõ nét được thể hiện ở các quốc gia có thu nhập cao, khi
người ở độ tuổi 50 lại không cảm thấy thỏa mãn về cuộc sống của mình so với


9

những người ở độ tuổi 60, 70. Giải thích rằng, ở độ tuổi 50 đây là độ tuổi bắt đầu
gặp các vấn đề về sức khỏe, trong khi những người ở độ tuổi lớn hơn đã quen với
bệnh tật.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa sức khỏe và hạnh phúc cũng được chứng minh
qua nghiên cứu khác của Miquelon ( 2006). Một nghiên cứu của Veenhoven (2008)
đã chỉ ra sức khỏe cộng đồng được thúc đẩy khi các chính sách về y tế (bảo hiểm xã
hội, an sinh…) được đảm bảo, do vậy việc người dân mua bảo hiểm y tế có thể

được xem như cách để tăng cường sức khỏe của mình, mang lại sự an tâm trong
tương lai.
Qua nghiên cứu của Mechanic (1961) rằng những người đang mắc hay mới
trải qua bệnh tật thì thường có xu hướng căng thẳng hơn so với người khỏe mạnh,
và nghiên cứu của Schiffrin (2010) nêu lên mối quan hệ giữa căng thẳng và hạnh
phúc thông qua việc giảm căng thẳng để có được hạnh phúc.
Các nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng tính cách của cá nhân có thể giải
thích đáng kể ý nghĩa của hạnh phúc chủ quan (Lucas 2003). Cảm giác căng thẳng
mang đến một dấu hiệu tiêu cực đến cảm giác thỏa mãn trong cuộc sống (Harter
2009). Và việc hút thuốc (thường được sự dụng như một thang đo trong chỉ số sức
khỏe) theo nghiên cứu của Munafò (2008) và Clark (2007) lại là một yếu tố tiên
đoán mạnh mẽ về sự không thỏa mãn trong cuộc sống. Nguyên nhân trong các
nghiên cứu này đã nói lên rằng việc hút thuốc ảnh hưởng một phần của gen di
truyền, và những người hút thuốc có các đặc điểm tính cách ảnh hưởng tiêu cực lên
việc cảm thấy thỏa mãn về cuộc sống.
Ngoài ra, tác động của tuổi tác lên hạnh phúc chủ quan cũng cần được quan
tâm và xem xét. Cụ thể, trong nghiên cứu của David (1980) đã chỉ ra sự ảnh hưởng
tích cực của tuổi tác lên mức độ hạnh phúc, tuy rằng sự ảnh hưởng này là không
nhiều. Hay nghiên cứu của Stone (2010) nói lên mối quan hệ giữa hạnh phúc và tuổi
tác. Ở đây, kết quả nghiên cứu là đường sơ đồ hình dạng U với hạnh phúc tăng lên
sau năm 50 tuổi. Giải thích điều này, tác giả nhận định khi một người bắt đầu vào
tuổi trưởng thành với áp lực từ công việc đời sống dẫn đến căng thẳng, giận dữ,


10

điều này tăng dần ở tuổi trung niên và sau đó giảm đi khi đến tuổi an nhàn trong
cuộc sống.
Nghiên cứu về các yếu tố tác động lên hạnh phúc trong đó có trình độ giáo
dục cũng được đề cập trong nghiên cứu của Oreopoulos (2007). Oreopoulos đã đưa

ra kết luận rằng cứ một năm học tăng lên thì thu nhập lại tăng lên 15%, ngoài ra
việc bỏ học sẽ mang lại sự thỏa mãn trong cuộc sống thấp hơn là người đi học đầy
đủ. Mối quan hệ giữa giáo dục và hạnh phúc cũng được nhắc đến trong nghiên cứu
của Hartog và Oosterbeek (1998), nghiên cứu sử dụng thang đo chỉ số IQ lúc nhỏ và
hoàn cảnh gia đình của một nhóm người ở Hà Lan sinh khoảng năm 1940 để làm
thước đo cho giáo dục, kết quả cho thấy rằng chỉ số IQ ảnh hưởng nhiều đến sức
khỏe hơn là sự giàu có và sự hạnh phúc, và có chút khác biệt ở giới tính như người
phụ nữ thì không giàu có và khỏe mạnh hơn đàn ông nhưng họ lại sống hạnh phúc
hơn.
Tình trạng hôn nhân cũng được xem là một nhân tố tác động lên hạnh phúc
của con người. Một nghiên cứu của Glenn (1975) từ dữ liệu của ba cuộc điều tra tại
Mỹ đã đưa ra kết luận rằng những người kết hôn thì có cuộc sống hạnh phúc hơn
những người chưa kết hôn, trong đó phụ nữ thì có cuộc sống hạnh phúc hơn đàn
ông, nguyên nhân có thể đến từ tâm sinh lý của phụ nữ giúp cho họ dễ dàng cảm
thấy hài lòng về cuộc sống hôn nhân hơn đàn ông. Ngược lại với điều này, nghiên
cứu của Gove và Hughes (1983) thì nói rằng phải là một cuộc hôn nhân thành công
hay cuộc sống độc thân thì mới mang lại giá trị hạnh phúc trong cuộc sống. Đồng ý
với quan điểm này còn có nghiên cứu của Williams (2003), bổ sung thêm rằng tình
trạng hôn nhân và chất lượng cuộc hôn nhân ảnh hưởng lên tâm lý là như nhau ở cả
nam và nữ, ngoài ra việc ly hôn còn mang lại hạnh phúc nhiều hơn là các cặp vợ
chồng vẫn cố gắng chung sống với nhau trong một cuộc hôn nhân không trọn vẹn.
Làm việc giúp cho con người thỏa mãn trong cuộc sống. Như nghiên cứu của
Fisher (2010) nói lên mối quan hệ giữa công việc và hạnh phúc, mà trong đó công
việc được đo bằng cam kết về việc làm, sự hài lòng trong công việc, mà kết quả là
khi công việc đạt được các yêu cầu của người lao động như môi trường làm việc,


11

đảm bảo công việc trong dài hạn thì có ý nghĩa tích cực lên hạnh phúc. Tương tự

như một nghiên cứu ở Nam Phi của Field và Buitendach (2011) một công việc đảm
bảo cùng với chính sách đào tạo dạy nghề sẽ có tác động tích cực lên hạnh phúc của
người lao động. Ngoài ra, việc tham gia vào các công việc tình nguyện cũng có tác
động lên hạnh phúc, qua nghiên cứu của Thoits và Hewitt (2001) trên dữ liệu bảng
Americans' Changing Lives (House 1995) (N = 2681), đã chỉ ra công việc tình
nguyện thực sự nâng cao hạnh phúc cá nhân và ngược lại, những người có hạnh
phúc cá nhân cao sẽ đầu tư nhiều giờ hơn cho việc đi làm tình nguyện. Một nghiên
cứu khác của Schaufeli và các cộng sự (2009) trên mẫu 2115 bác sĩ ở Hà Lan, cho
thấy nghiện công việc có tác động tích cực đến sự hạnh phúc và tác động tiêu cực
đến sự kiệt sức (ví dụ như tình cảm kiệt sức, làm mất nhân cách và giảm thành tích
y tế). Vì vậy, các hoạt động tình nguyện làm tăng sự hạnh phúc của những người
tham gia, và ngược lại những người có cuộc sống hạnh phúc thì thường đầu tư
nhiều thời gian hơn cho các hoạt động này.
Theo nghiên cứu của Yellen (1995) về quyết định điều trị bệnh ung thư của
bệnh nhân, thì người bệnh có xu hướng đồng ý điều trị khi sống chung với gia đình,
thay vì bỏ cuộc. Có thể hiểu, việc sống chung với người thân mang lại cho họ một
động lực sống, và với việc tìm ra mục đích sống, họ sẽ cảm thấy thỏa mãn về cuộc
đời của mình hơn.
Nghiên cứu của Parks (2012) đã thể hiện các hành vi tự nhiên và tính cách
của con người có ảnh hưởng đến sự hạnh phúc trong cuộc sống. Như nghiên cứu
của Maltby (2005) về mối quan hệ giữa sự sẵn lòng tha thứ và hạnh phúc, kết quả
qua khảo sát với 224 sinh viên Anh Quốc đã cho thấy lòng vị tha có tác động lên
hạnh phúc, tuy ý nghĩa thống kê không được cao. Nguyên nhân là do sự sẵn lòng
tha thứ ít tác động đến hạnh phúc ngắn hạn, nhưng lại được xem là một phần đánh
giá cho hạnh phúc dài hạn. Có thể hiểu, khi tha thứ cho việc làm của một ai đó, bản
thân họ chỉ nhận ra đây là việc nên làm trong khoảng thời gian dài sau này. Kết quả
tương tự với nghiên cứu của Eldeleklioğlu (2015), người có lòng vị tha thì có cuộc
sống hạnh phúc hơn, có thể hiểu việc tha thứ cho người khác giúp cho bản thân họ



12

cảm thấy nhẹ nhàng, yên bình trong lòng hơn, từ đó dẫn đến việc sống hạnh phúc
hơn. Hay nghiên cứu của Kim và Lee (2011) mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng như
thế nào đến hạnh phúc, với mối quan hệ xã hội được đo lường bằng số bạn bè thực
tế trên facebook, kết quả cho thấy lượng bạn bè trên facebook tác động lên hạnh
phúc là một đồ thị dạng chữ U ngược, cho thấy rằng ban đầu khi mối quan hệ xã hội
tăng thì hạnh phúc tăng nhưng khi đến một điểm thì việc tăng bạn bè lại làm cho
niềm hạnh phúc giảm xuống.


13

CHƯƠNG 3 : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Khung phân tích

Hình 3.1: Khung phân tích tác động của thu nhập và các yếu tố khác lên hạnh
phúc
Nguồn: Đề xuất của tác giả 2018
Trên cơ sở lược khảo nghiên cứu thực nghiệm có liên quan được trình bày
bên trên, khung phân tích của đề tài được trình bày tại hình 3.1. Các yếu tố tác động
đến sự hài lòng, thoả mãn về cuộc sống bao gồm: thu nhập, tuổi, giới tính, giáo dục,
sức khoẻ, hôn nhân, tính cách và gia đình.
3.2 Mô hình phân tích
3.2.1 Mô hình kinh tế lượng
Biến phụ thuộc (HP) của bài nghiên cứu thể hiện mức độ thỏa mãn về cuộc
sống của người được phỏng vấn, được đo theo thang từ 1 đến 10 với 10 là hoàn toàn
thỏa mãn. Nghiên cứu sẽ sử dụng mô hình ordered probit, do giá trị giữa các thang
đo của biến HP thể hiện độ thỏa mãn tốt hơn dần từ 1 đến 10, nghĩa là người ở mức



14

độ 2 sẽ hạnh phúc hơn người ở mức độ 1, chứ không phải người có mức độ 2 thì sẽ
hạnh phúc gấp 2 lần so với người chỉ ở mức độ 1.
Mô hình sẽ có dạng tổng quát:
𝑦 = 𝛼 + 𝛽𝑥 + 𝛾𝑖 𝑧𝑖 + 𝜀𝑖
Trong đó:
𝑦: Biến phụ thuộc (HP), theo thang đo từ 1-10 với 1 là hoàn toàn không thỏa
mãn và 10 là hoàn toàn thỏa mãn về cuộc sống. Mức độ thỏa mãn về cuộc sống sẽ
được sử dụng làm thước đo cho mức độ hạnh phúc của người dân sinh sống tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
𝑥: Biến độc lập (Income_Y) thể hiện thu nhập của người dân trong một năm
tại Thành phố Hồ Chí Minh, đơn vị tính là triệu đồng. Thu nhập trong bộ dữ liệu
được tính bằng thời hạn trả lương hay thời hạn nhận thu nhập ròng từ hoạt động
kinh doanh, nhân với số thời gian làm việc trong năm. Ví dụ: nếu thời gian trả
lương theo tuần, thì sẽ nhân với tổng số tuần làm việc trong năm của người được
phỏng vấn.
𝑧𝑖 : Các biến kiểm soát khác có tác động lên mức độ thỏa mãn cuộc sống của
người dân sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ý nghĩa các biến kiểm soát:
Biến Gtinh là biến giả biểu hiện giới tính của người tham gia khảo sát. Giá trị
1 là giới tính nam và giá trị 0 là giới tính nữ. Kỳ vọng dấu +.
Trong bài nghiên cứu này, tuổi tác của người tham gia khảo sát sẽ được thể
hiện qua hai biến là biến Age, thể hiện độ tuổi của người tham gia phỏng vấn, và
biến Age^2, thể hiện giá trị bình phương độ tuổi của họ. Kỳ vọng dấu +.
Tình trạng hôn nhân sẽ được thể hiện qua ba biến giả. Biến Mar, giá trị 1 là
đã kết hôn, giá trị 0 là khác. Biến Div, giá trị 1 là ly hôn, giá trị 0 là khác. Biến NMar, giá trị 1 là chưa kết hôn, giá trị 0 là khác. Khi cả ba biến giả đều mang giá trị
0, tình trạng hôn nhân đang trong các giai đoạn khác như sống thử, ly thân, góa
chồng/vợ. Dấu kỳ vọng lần lượt là +, -, +.



15

Biến Edu thể hiện trình độ học vấn của người tham gia khảo sát. Giá trị của
biến Edu sẽ đi từ 0 đến 7, lần lượt từ không được đi học, bậc tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông, cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ. Kỳ vọng dấu +.
Biến giả L_Edu thể hiện người tham gia khảo sát có bỏ học hay không, với
giá trị 1 là có và giá trị 0 là không. Kỳ vọng dấu -.
Việc sống chung với gia đình sẽ được biểu diễn qua ba biến giả. Biến Child,
giá trị 1 là có sống chung với con, giá trị 0 là không sống chung với con. Tương tự
với biến giả w_mom và w_dad về việc có sống chung với ba mẹ hay không. Kỳ
vọng dấu ở cả ba biến +.
Biến giả Sick dùng để biểu hiện cho tình trạng sức khỏe của người tham gia
khảo sát. Với câu hỏi số ngày bị bệnh trong tháng qua của bộ dữ liệu, biến Sick với
giá trị 1 mang ý nghĩa trong tháng vừa qua, người tham gia phỏng vấn có mắc bệnh,
giá trị 0 thì không có. Kỳ vọng dấu -.
Biến giả Insu để thể hiện việc người tham gia khảo sát có mua bảo hiểm y tế
hay không, với giá trị 1 là có và giá trị 0 là không. Kỳ vọng dấu +.
Biến Gene có giá trị từ 0 đến 3 để biểu đạt cho mức độ vị tha của người được
khảo sát, với 3 là thường xuyên tha thứ và 0 là hoàn toàn không. Kỳ vọng dấu +.
Nghiên cứu này sẽ đưa thêm biến W_hard có giá trị từ 0 đến 3 để biểu đạt
việc thường xuyên làm thêm công việc (giờ) trong khi những đồng nghiệp đã nghỉ
ngơi, với giá trị 3 là thường xuyên làm thêm và giá trị 0 là thường xuyên không làm
thêm.
Bảng 3.2: Các biến số trong mô hình ordered probit đối với mẫu khảo sát các
cá nhân sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tên biến

Ký hiệu


Đơn vị tính

Kỳ
vọng
dấu

Nghiên cứu thực nghiệm

Biến phụ thuộc
Mức độ thỏa mãn
HP
về cuộc sống

Thang đo từ
1-10

Diener (1984), Diener và
Biswas (2002), Howell
(2008), Shields (2008) ,


16

Headey và Muffels (2008),
Clark (2009), Graham
(2010), Angus Deaton và
cộng sự (2010).
Biến giải thích
Diener (1984), Diener và

Biswas (2002), Howell
(2008), Shields (2008) ,
Headey và Muffels (2008),
Clark (2009), Graham
(2010), Angus Deaton và
cộng sự (2010).

Thu nhập

Income_Y

Triệu
đồng/năm

+

Giới tính

Gtinh

1=Nam,
0=Nữ

+

Glenn (1975), Gove và
Hughes (1983).

Tuổi


Age
Age2

+

Gerdtham (2001), Deaton
(2008).

Kết hôn

Ly hôn

Độc thân

Mar

Div

N-Mar

Trình độ học vấn

Edu

Bỏ học

L_Edu

Sống chung với
con cái

Sống chung với
bố
Sống chung với
mẹ

Child
w_dad
w_mom

Năm
1=kết hôn
0=khác

1=ly hôn
0=khác
1=độc thân
0=khác
Thang đo từ
1-7
1=có
0=khác
1=có
0=khác
1=có
0=khác
1=có
0=khác

+


-

+

+

Glenn (1975), Gove và
Hughes (1983), Williams
(2003).
Glenn (1975), Gove và
Hughes (1983), Williams
(2003).
Glenn (1975), Gove và
Hughes (1983), Williams
(2003).
Hartog và Oosterbeek
(1998), Oreopoulos
(2007).

-

Oreopoulos (2007).

+

Yellen (1995).

+

Yellen (1995).


+

Yellen (1995).


17

Tình trạng sức
khỏe

Sẵn sàng tha thứ

HEA

Gene

Làm thêm giờ

W_hard

Mua bảo hiểm

Insu

1=cá nhân bị
bệnh trong
tháng qua
0=ngược lại
0=Không

bao giờ
1=thỉnh
thoảng
+
2=thường
hay
3=luôn luôn
0=Không
bao giờ
1=thỉnh
thoảng
+
2=thường
hay
3=luôn luôn
1=có
0=khác

+

Casey và cộng sự (2006),
Orgill và cộng sự (2013).

Maltby (2005), Kim và
Lee (2011), Parks (2012),
Eldeleklioğlu (2015).

Thoits và Hewitt (2001),
Schaufeli và các cộng sự
(2009), Fisher (2010),

Field và Buitendach
(2011).
Miquelon ( 2006),
Veenhoven (2008)
Nguồn: Đề xuất của tác giả 2018

Phạm vi quan sát của bài nghiên cứu là các cá nhân đang sinh sống tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Số lượng người được phỏng vấn là 2160 quan sát, qua các bước
điều chỉnh để lược bỏ các trường hợp đặc biệt (thu nhập tính theo số căn nhà bán
được, số lần đi công tác, số sản phẩm, hay các cá nhân không muốn cung cấp về
tình trạng hôn nhân…) thì thông tin về người được phỏng vấn được sử dụng trong
bài nghiên cứu là 2070 quan sát.
3.2.2 Thực hiện mô hình
Bài nghiên cứu lựa chọn mô hình ordered probit để tiến hành nghiên cứu.
Biến phụ thuộc của mô hình này có dạng thang đo thứ bậc nhưng ý nghĩa
giữa các thứ bậc là không tương ứng nhau. Kể cả khi được đánh mã số 1, 2, 3, thì sự
khác biệt giữa giá trị 1 và giá trị 2 không giống với sự khác biệt giữa giá trị 2 và giá
trị 3. Khác với mô hình OLS, giá trị 2 gấp đôi giá trị 1, thì ở ordered probit giá trị 2
chỉ mang ý nghĩa là tốt hơn giá trị 1.


×