Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
------

TRẦN THỊ MỸ TRINH

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG
LỢI NHUẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
------

TRẦN THỊ MỸ TRINH

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG
LỢI NHUẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kế toán
Mã số

: 8340301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thị Thu

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng luận văn: “Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là bài nghiên cứu
của chính tôi.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận văn này, tôi cam
đoan rằng toàn phần hay những phần nhỏ của luận văn này chưa từng được công bố
hoặc được sử dụng để nhận bằng cấp ở những nơi khác.
Không có sản phẩm / nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong luận
văn này mà không được trích dẫn theo đúng quy định.
Luận văn này chưa bao giờ được nộp để nhận bất kỳ bằng cấp nào tại các
trường đại học hoặc cơ sở đào tạo khác.

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018.

Trần Thị Mỹ Trinh


MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG

TÓM TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do thực hiện đề tài: .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ....................................................... 2
2.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 2
2.2. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 4
5. Đóng góp của nghiên cứu ..................................................................................... 4
6. Kết cấu luận văn .................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ......................................................... 7
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài liên quan đến chất lượng lợi nhuận .................. 7
1.2. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến chất lượng lợi nhuận ................ 11
1.3. Các nhân tố tác động đến chất lượng lợi nhuận............................................ 14
1.4. Tóm lược kết quả nghiên cứu liên quan......................................................... 18
1.5. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................ 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 21
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...................................................................... 22
2.1. Các khái niệm ................................................................................................... 22
2.1.1. Chất lượng báo cáo tài chính .......................................................................... 22


2.1.2. Quản trị lợi nhuận ........................................................................................... 23
2.1.3. Chất lượng lợi nhuận ...................................................................................... 24
2.2. Các lý thuyết nền .............................................................................................. 27
2.2.1. Lý thuyết đại diện ............................................................................................ 27
2.2.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng ..................................................................... 28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 30

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 32
3.1. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. 32
3.2. Mô hình nghiên cứu ......................................................................................... 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 37
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ................................. 38
4.1. Dữ liệu nghiên cứu và thống kê mô tả ............................................................ 38
4.2. Kết quả nghiên cứu .......................................................................................... 41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ........................................................................................ 49
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................... 50
5.1. Kết luận ............................................................................................................. 50
5.2. Đề xuất, gợi ý từ kết quả nghiên cứu .............................................................. 51
5.2.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước .................................................................. 51
5.2.2. Đối với công ty niêm yết.................................................................................. 52
5.2.3. Đối với công ty kiểm toán ............................................................................... 52
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai .............................................. 53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5 ........................................................................................ 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCTC

Báo cáo tài chính

Big4

Nhóm các công ty Kiểm toán, gồm: Ernst & Young, Deloitte
Touche, KPMG và PriceWaterhouseCoopers


FEM

Fixed Effects Model (Fixed Effects Model)

POLS

Mô hình hồi quy gộp (Pooled Ordinary Least Squared)

REM

Random Effects Model (Random Effects Model)


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1.
Bảng tổng hợp tác động những nhân tố tác động đến chất lượng lợi nhuận doanh
nghiệp từ các nghiên cứu liên quan ........................................................................... 18
Bảng 4.1.
Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu .......................................................................... 39
Bảng 4.2.
Ma trận hệ số tương quan .......................................................................................... 40
Bảng 4.3.
Kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến chất lượng lợi nhuận trên khía cạnh tính
bền vững (Persistence) .............................................................................................. 42
Bảng 4.4.
Kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến chất lượng lợi nhuận trên khía cạnh khả
năng dự cáo (Predictability) ...................................................................................... 44
Bảng 4.5.
Kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến chất lượng lợi nhuận trên khía cạnh tính

biến động (Variability) .............................................................................................. 46
Bảng 4.6.
Kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến chất lượng lợi nhuận về khả năng lợi
nhuận doanh nghiệp có dấu hiệu điều chỉnh (Smoothing) ........................................ 47


TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng các kỹ thuật ước lượng cho dữ liệu bảng
bao gồm: mô hình hồi quy gộp, mô hình tác động cố định, mô hình tác động ngẫu
nhiên để nhận diện các nhân tố tác động đến chất lượng lợi nhuận của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả cho thấy các yếu tố được
đưa vào nghiên cứu đều thể hiện tác động có ý nghĩa về mặt thống kê đến ít nhất một
khía cạnh trong tất cả bốn khía cạnh của chất lượng lợi nhuận gồm: tính bền vững
của lợi nhuận, khả năng dự báo của lợi nhuận, tính biến động của lợi nhuận và cuối
cùng là khả năng cho thấy lợi nhuận của doanh nghiệp bị can thiệp trên báo cáo tài
chính.
Các phương pháp ước lượng cho dữ liệu bảng tĩnh (Static Panel Data
Techniques) được sử dụng tương ứng với các giả định khác nhau về mặt kinh tế lượng.
Mô hình hồi quy gộp không xem xét các đặc điểm riêng của các đối tượng
(characteristics). Mặt khác, mô hình tác động cố định lại xem xét đến các đặc điểm
riêng này nhưng với giả định rằng các đặc điểm riêng phải cố định. Mô hình tác động
ngẫu nhiên lại giả định các đặc điểm riêng là ngẫu nhiên. Mặc dù giả định đối với
mỗi kỹ thuật ước lượng khác nhau nhưng các kết quả ước lượng thể hiện tính ổn định
và bền vững khi dấu của các hệ số tác động có ý nghĩa thống kê không đổi khi tác giả
các kỹ thuật ước lượng khác nhau cho thấy mức độ tin cậy của kết quả nghiên cứu có
thể trả lời câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trung bình chất lượng lợi nhuận bền vững hơn
đối với các công ty được kiểm toán và các thông tin trên báo cáo tài chính cũng ít có
dấu hiệu bị can thiệp hơn các công ty không được kiểm toán. Mặt khác, quy mô của
doanh nghiệp thể hiện tác động không tốt đến tính bền vững và sự ổn định trong chất

lượng lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc sử dụng nợ còn được tìm thấy làm
giảm khả năng dự báo lợi nhuận của doanh nghiệp. Hơn nữa, số năm doanh nghiệp
có lợi nhuận âm có tác động tiêu cực đến sự bền vững của lợi nhuận nhưng lại là dấu
hiệu tích cực cho thất doanh nghiệp ít có dấu hiệu cho thấy báo cáo tài chính bị can
thiệp.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do thực hiện đề tài:

Trong những năm gần đây, chất lượng lợi nhuận đã nổi lên là vấn đề quan tâm
của các nhà phân tích, các nhà đầu tư, các nhà quản lý và những đối tượng khác tham
gia thị trường (Lipe, 1990). Bellovary và cộng sự (2005) cho rằng chất lượng lợi
nhuận là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, chất
lượng lợi nhuận phụ thuộc vào mức độ lợi nhuận thực được báo cáo cũng như dùng
các con số lợi nhuận này để dự báo lợi nhuận trong tương lai. Chất lượng lợi nhuận
đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu và doanh nhân vì nó kết hợp nhiều
thông tin hơn về hoạt động của công ty và báo cáo tài chính, và do đó có thể ảnh
hưởng đến hiệu quả công ty (Minnis và Shroff, 2017).
Chất lượng lợi nhuận là mức độ mà con số lợi nhuận phản ánh thực tế tài chính
của một công ty (Dechow và cộng sự, 2010). Chất lượng lợi nhuận còn phản ánh khả
năng lợi nhuận doanh nghiệp tồn tại, duy trì trong tương lai (Richardson và cộng sự,
2001). Khi chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp không ổn định là dấu hiệu cho
thấy sự không chắc chắn về lợi nhuận, hàm ý rủi ro cho hoạt động của công ty trong
tương lai (Minnis và Shroff, 2017). Chất lượng lợi nhuận tốt sẽ cung cấp những con
số lợi nhuận đáng tin cậy cho việc dự đoán lợi nhuận trong tương lai; từ đó, hỗ trợ

các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra những quyết định quản lý đúng đắn, cũng như
hỗ trợ các nhà đầu tư khi ra quyết định đầu tư. Cải thiện chất lượng lợi nhuận trong
doanh nghiệp sẽ giúp cải thiện tính minh bạch của thị trường; đồng thời, giúp làm
giảm các vấn đề liên quan đến chi phí đại diện và vấn đề bất cân xứng thông tin trên
thị trường (Penman, 2003).
Báo cáo tài chính là nguồn chính cung cấp thông tin ra bên ngoài về tình hình
tài chính và hiệu quả hoạt động của một công ty. Trong đó, con số lợi nhuận là chỉ số
quan trọng nhất của công ty để cung cấp thông tin hữu ích về giá trị của công ty và
có ảnh hưởng lớn trong việc ra quyết định (Schipper và Vincent, 2003, Francis và


2

cộng sự, 2004). Vì vậy, chất lượng lợi nhuận là một phần quan trọng của các báo cáo
tài chính vì thể hiện lợi nhuận đạt được của công ty.
Lợi nhuận kế toán giúp đánh giá lợi nhuận của công ty, nhưng nhà đầu tư
không chỉ cân nhắc về những con số lợi nhuận mà còn quan tâm đến chất lượng lợi
nhuận. Do lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng, được sử dụng để đánh
giá hiệu quả hoạt động, quyết định đến giá cổ phiếu của công ty, vì vậy thời gian qua
có nhiều lo ngại, sai phạm trọng yếu dẫn đến chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm
toán báo cáo tài chính. Thực tế những năm qua trên thị trường chứng khoán cho thấy
tỷ lệ sai lệch sau kiểm toán rất cao, tuy nhiên đang có xu hướng giảm dần qua các
năm. Xét riêng cho chỉ tiêu lợi nhuận, số liệu thống kê của Vietstock từ năm 2012
đến 6 tháng năm 2015 cho thấy mỗi năm tỷ lệ doanh nghiệp niêm yết có điều chỉnh
sau kiểm toán đều trên mức 70%, còn 6 tháng đầu năm 2015 cũng chiếm quá bán
52%. Đây là một cảnh báo rất lớn về chất lượng báo cáo tài chính và độ minh bạch
về số liệu kế toán do doanh nghiệp tự lập.
Đa số các nghiên cứu về vấn đề chất lượng lợi nhuận được thực hiện ở các
nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Mỹ, Trung Quốc …Ở Việt Nam, có ít nghiên
cứu về vấn đề chất lượng lợi nhuận. Chủ yếu nhiều nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam

hiện nay chỉ tập trung vào chất lượng của báo cáo tài chính và quản trị lợi nhuận. Hơn
nữa, gần đây các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp ở Việt Nam đã tăng lên rất
lớn, sự cần thiết phải cải thiện chất lượng lợi nhuận để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư
nước ngoài là không thể tránh khỏi.
Chính vì tất cả các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2.

Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

2.1.

Mục tiêu nghiên cứu



Mục tiêu tổng quát:


3

Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi
nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.


Mục tiêu cụ thể:

Thứ nhất: nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thứ hai: đo lường, đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến các khía
cạnh chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
2.2.

Câu hỏi nghiên cứu

Để giải quyết được các mục tiêu trên, bài nghiên cứu cần trả lời các câu hỏi
nghiên cứu sau:
Câu hỏi 1: Những nhân tố nào ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các
công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam?
Câu hỏi 2: Tác động của các nhân tố sẽ như thế nào ở các khía cạnh khác nhau
của chất lượng lợi nhuận?
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi
nhuận qua các khía cạnh của chất lượng lợi nhuận bao gồm: tính bền vững, khả năng
dự báo, mức độ biến động và khả năng lợi nhuận có dấu hiệu bị can thiệp trên báo
cáo tài chính.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Về mặt thời gian, tác giả sẽ sử dụng dữ liệu trên báo cáo tài chính của các công

ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 –
2017. Nguyên nhân là do thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới thành lập và bắt
đầu có doanh nghiệp niêm yết từ năm 2000, ngay thời điểm mới thành lập thì số lượng


4

các doanh nghiệp niêm yết là rất ít, chỉ từ sau năm 2007 các doanh nghiệp được niêm
yết nhiều hơn và chất lượng báo cáo tài chính cũng dần hoàn thiện hơn.
Về mặt không gian, tác giả phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bỏ qua
các công ty thuộc nhóm ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm vì các công ty này có
quy định hiện hành về lập và trình bày báo cáo tài chính riêng.
4.

Phương pháp nghiên cứu:

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra, tác giả sử dụng kết hợp cả phương
pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Trong đó, nghiên cứu định tính được sử
dụng để xác định các nhân tố tác động đến chất lượng lợi nhuận. Nghiên cứu định
lượng giúp đo lường chất lượng lợi nhuận và các nhân tố tác động đến chất lượng lợi
nhuận, kiểm định tác động các nhân tố đến chất lượng lợi nhuận thông qua các phép
kiểm định thích hợp.
Cụ thể, tác giả sẽ thu thập thông tin, số liệu có liên quan đến đề tài từ báo cáo
tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn
2007 – 2017 từ Thomson Reuters Eikon để xác định giá trị biến phụ thuộc và biến
độc lập trong mô hình của tác giả. Dữ liệu thu thập được tổng hợp thành dạng bảng
(panel data) để phục vụ cho việc nghiên cứu. Tác giả sử dụng phần mềm STATA 15
để xử lý bảng số liệu thu thập được bằng các kỹ thuật hồi quy cho dữ liệu bảng tĩnh
gồm mô hình hồi quy gộp, mô hình tác động cố định và mô hình tác động ngẫu nhiên.

Từ đó, tác giả phân tích các chỉ tiêu cần thiết để thấy được thực trạng các nhân tố tác
động đến chất lượng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam giai đoạn 2007 – 2017.
5.

Đóng góp của nghiên cứu

Đề tài này được thực hiện mang tính thời sự vì cả nhà đầu tư và các nhà quản
trị công ty đều quan tâm đến chất lượng lợi nhuận. Theo đó, các đóng góp gồm: đề
tài xác định nhân tố dựa trên phân tích thực trạng tại thị trường chứng khoán Việt


5

Nam, từ đó, tác giả đo lường, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất
lượng lợi nhuận và nhận xét, đưa ra các đề xuất phù hợp với thực tiễn để nâng cao
chất lượng lợi nhuận của các công ty tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Như vậy,
khi lợi nhuận của các công ty sẽ được báo cáo chất lượng hơn, sẽ giúp các bên liên
quan có được cái nhìn chính xác hơn về hiệu quả công ty hiện tại và đánh giá được
triển vọng trong tương lai nhằm đưa ra những quyết định tốt nhất.
Kết quả nghiên cứu hữu ích đối với nhiều bên khác nhau như:
+ Các nhà quản lý chất lượng thông tin báo cái tài chính nói chung và kiểm
toán báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam:
Về hoàn thiện văn bản pháp lý, kiểm soát chất lượng cũng như thiết lập các chế tài
xử phạt.
+ Kiểm toán viên và công ty kiểm toán trong việc đảm bảo và nâng cao chất
lượng thông tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết, giúp nâng cao vai trò của
kiểm toán độc lập trong nền kinh tế.
+ Những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán (công ty niêm yết,
nhà đầu tư tổ chức và cá nhân), góp phần phát triển lành mạnh tại các công ty niêm

yết và thị trường chứng khoán, giúp nhà đầu tư nâng cao hiểu biết về vai trò của kiểm
toán, những rủi ro cũng như quyền lợi sử dụng báo cáo tài chính đã được kiểm toán.
6.

Kết cấu luận văn:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Trong chương này tác giả sẽ trình bày những nghiên cứu thực nghiệm trong
và ngoài nước liên quan đến chất lượng lợi nhuận và các khía cạnh về chất lượng lợi
nhuận mà các nghiên cứu trước đã tiếp cận. Bên cạnh đó, tác giả cũng lược khảo các
nhân tố tác động đến chất lượng lợi nhuận ở các khía cạnh khác nhau từ các nhà khoa
học trong và ngoài nước để từ đó chọn lọc những nhân tố phù hợp để đưa vào nghiên
cứu cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết


6

Sau khi lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan, tác giả tóm lược
các khái niệm về chất lượng báo cáo tài chính, chất lượng lợi nhuận, quản trị lợi nhuận
theo nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu trong nước và thế giới. Bên
cạnh đó, các lý thuyết nền có liên quan cũng được tác giả tổng hợp trong chương này
với hai lý thuyết kinh điển là lý thuyết đại diện và lý thuyết bất cân xứng thông tin.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Ở chương này, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để trả lời câu hỏi
nghiên cứu sẽ được tác giả diễn giải chi tiết. Trong đó, tác giả sẽ chỉ rõ phương pháp
để đo lường từng khía cạnh của chất lượng lợi nhuận cũng như các biến giải thích
được sử dụng trong nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu sử
dụng dữ liệu nghiên cứu tại Việt Nam với những lập luận chi tiết từ những nghiên
cứu trước để giải thích lý do của từng nhân tố được sử dụng trong luận văn. Thêm

vào đó, chương này cũng trình bày phương pháp thu thập và thống kê mô tả kết quả
tính toán các biến được sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4 trình bày dưới dạng tổng hợp các bằng chứng thống kê về tác động
của các nhân tố đến chất lượng lợi nhuận ở từng khía cạnh. Ở chương này, tác giả
báo cáo và diễn giải các hệ số tác động của các yếu tố có ý nghĩa thống kê đến từng
khía cạnh của chất lượng lợi nhuận. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích các kiểm định
sự phù hợp của mô hình về mặt thống kê. Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận về tác
động của các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận ở các khía cạnh trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 5: Kết luận và những gợi ý chính sách
Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận về tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng lợi nhuận ở các khía cạnh trên thị trường chứng khoán Việt Nam.


7

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
Trong chương này, những nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước liên
quan đến chất lượng lợi nhuận và các khía cạnh về chất lượng lợi nhuận sẽ được tác
giả trình bày. Bên cạnh đó, tác giả cũng lược khảo các nhân tố tác động đến chất
lượng lợi nhuận ở các khía cạnh khác nhau mà các nghiên cứu trước đã tiếp cận để từ
đó chọn lọc những nhân tố phù hợp để đưa vào nghiên cứu cho thị trường chứng
khoán Việt Nam.
1.1.

Các nghiên cứu nước ngoài liên quan đến chất lượng lợi nhuận

Các lý thuyết liên quan tới việc đánh giá chất lượng lợi nhuận của doanh
nghiệp ban đầu chủ yếu được đề xuất bởi các chuyên gia phân tích tài chính hay các

nhà môi giới cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần. Họ phát hiện thấy rằng lợi nhuận
được đề cập trên báo cáo tài chính không minh chứng được khả năng kiếm được lợi
nhuận của doanh nghiệp như họ hình dung. Họ cho rằng do các hạn chế hay yếu kém
nảy sinh trong quá trình đo lường số liệu kế toán nên việc phân tích báo cáo tài chính
của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy khi phân tích báo cáo tài chính họ
rất cẩn trọng với yếu tố lợi nhuận hay lợi nhuận ròng trên cổ phiếu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc chỉ xem xét các yếu tố lợi nhuận đơn thuần đã vô tình bỏ qua việc đánh
giá chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp. Như vậy, chất lượng lợi nhuận có thể
được xem như khả năng tăng trưởng lợi nhuận tiềm năng của doanh nghiệp hay khả
năng là doanh nghiệp sẽ đạt được mức tăng lợi nhuận mong đợi trong tương lai. Giá
trị cổ phiếu của doanh nghiệp, vì lẽ đó, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận mỗi cổ
phiếu đem lại mà còn phụ thuộc vào kỳ vọng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
trong tương lai và độ tin cậy đối với kỳ vọng về lợi nhuận. Doanh nghiệp với các
khoản mục kế toán có sự báo cáo ổn định về phần gia tăng và giảm sút được cho là
có chất lượng lợi nhuận tốt vì sự ổn định này cho phép các nhà phân tích dự đoán lợi
nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp với độ tin cậy cao hơn.
Nguyên nhân gây ra sự bóp méo về lợi nhuận công bố của doanh nghiệp nảy
sinh từ xung đột về lợi ích giữa nhà quản lý và chủ doanh nghiệp và các hạn chế về


8

mặt kế toán trong doanh nghiệp như sai sót trong quá trình dự báo và ước tính giá trị
tương lai hay sử dụng các phương pháp kế toán chưa phù hợp tạo ra sự khác biệt giữa
lợi nhuận dự báo và lợi nhuận trong báo cáo tài chính. Chất lượng lợi nhuận là sự
trình bày trung thực lợi nhuận dự báo và lợi nhuận được công bố, và lợi nhuận công
bố sẽ hữu dụng cho người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định có liên quan.
Revsine và cộng sự (1999) cho rằng lợi nhuận ổn định là yếu tố cho thấy chất
lượng lợi nhuận cao. Richardson và cộng sự (2001) đánh giá chất lượng lợi nhuận
dựa trên tính ổn định của doanh thu trong tương lai. Beneish và Vargus (2002) cũng

cho rằng tính ổn định trong doanh thu của doanh nghiệp sẽ minh chứng cho chất
lượng lợi nhuận doanh nghiệp. Penman và Zhang (2002) định nghĩa chất lượng lợi
nhuận như là khả năng dự báo thu nhập tương lai của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư
hay các bên có liên quan trên thị trường vốn thường dựa vào thông tin trên báo cáo
tài chính để đánh giá dòng tiền tương lai của doanh nghiệp từ đó ước tính lợi nhuận
mong đợi (Francis và cộng sự, 2004). Như vậy, để có thể dự đoán về dòng tiền tương
lai tốt hơn thì lợi nhuận công bố trên báo cáo tài chính nên là lợi nhuận chất lượng
tốt. Việc công bố thông tin tài chính chất lượng tốt của doanh nghiệp giúp giảm thông
tin bất cân xứng giữa bên quản trị doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng thông tin
của doanh nghiệp trên thị trường. Giảm thông tin bất cân xứng giúp doanh nghiệp
giảm chi phí vốn, giảm rủi ro về mặt thông tin, tăng khả năng dự báo dòng tiền, nâng
cao giá trị doanh nghiệp, và tăng tính thanh khoản cổ phiếu (Ardestani, 2007). Báo
cáo tài chính doanh nghiệp là phương tiện giúp chủ sở hữu doanh nghiệp và nhà đầu
tư trên thị trường có thể tiếp cận với thông tin về hoạt động của doanh nghiệp. Do
vậy, chất lượng báo cáo tài chính nhận được mối quan tâm vô cùng lớn từ các bên
khác nhau trên thị trường đặt biệt là sau giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới bởi
vì báo cáo tài chính đem lại thông tin cần thiết để giúp họ ra quyết định. Dechow và
cộng sự (2010) định nghĩa chất lượng báo cáo tài chính là sự thể hiện trung thực tình
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một giai đoạn cụ thể. Báo cáo tài
chính nên chứa thông tin dễ hiểu, có thể so sánh được, độ tin cậy cao, và liên quan
với tình hình doanh nghiệp. Độ tin cậy liên quan tới chất lượng thông tin, tức là thông


9

tin không bị thiên lệch và được phản ánh một cách trung thực (Karami và Akhgar,
2014). Độ tin cậy báo cáo tài chính phụ thuộc vào môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp và thường khác nhau giữa các quốc gia (Martínez-Ferrero, 2014).
Chất lượng báo cáo tài chính được đo lường bằng chất lượng lợi nhuận dựa
trên các thuộc tính khác nhau của lợi nhuận và phản ứng của nhà đầu tư đối với lợi

nhuận doanh nghiệp. Chất lượng lợi nhuận cao đem lại nhiều thông tin hơn về hoạt
động tài chính của doanh nghiệp hỗ trợ các bên có liên quan trong việc ra quyết định.
Chất lượng lợi nhuận là sự trình bày chân thực lợi nhuận báo cáo của doanh
nghiệp. Khả năng hoạt động sinh lợi của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại sẽ cho
thấy bức tranh hiện thực về khả năng sinh lời và tồn tại của doanh nghiệp trong tương
lai. Chasten (1992) cho rằng chất lượng lợi nhuận có liên quan tới dòng tiền doanh
nghiệp. Mối tương quan càng cao thì chất lượng lợi nhuận càng tốt.
Feltham và Ohlson (1995) định nghĩa chất lượng lợi nhuận là khả năng nhà
đầu tư có thể đoán được sự bất thường trong lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp
dựa trên số liệu hiện tại. Lợi nhuận chất lượng tốt là lợi nhuận có sự đảm bảo bằng
dòng tiền của doanh nghiệp từ quá khứ tới hiện tại và tương lai (Sloan, 1996, Dechow
và Dichev, 2002, Penman và Zhang, 2002, Dechow và Schrand, 2004) định nghĩa lợi
nhuận chất lượng tốt là lợi nhuận mà ít thay đổi qua các năm và cho thấy tính hữu
dụng của nó trong việc ra quyết định của người sử dụng.
Lợi nhuận chất lượng tốt là lợi nhuận cho thấy sự ít biến động trong các khoản
dồn tích của doanh nghiệp (DeAngelo và Masulis, 1980). Dựa trên đặc trưng của lợi
nhuận, chất lượng lợi nhuận có thể được đánh giá dựa trên tính duy trì (persistence),
tính khả năng dự báo (predictability), và tính biến động (variability) (Kormendi và
Lipe, 1987). Lợi nhuận có chất lượng tốt là lợi nhuận có tính liên tục và có khả năng
dự báo cao (Bernstein và Wild, 1989, Bricker và cộng sự, 1995). Schipper và Vincent
(2003) cho rằng tính khả năng dự báo của lợi nhuận không liên quan tới tính chính
xác của lợi nhuận được báo cáo bởi vì công tác quản trị doanh nghiệp sẽ làm các vấn
đề liên quan tới số liệu kế toán biến mất giúp tăng tính khả năng dự báo của lợi nhuận.


10

Nhà quản trị có thể đưa các yếu tố ngắn hạn vào chuỗi thời gian của dòng tiền
thu nhập của doanh nghiệp. Nếu đo lường chất lượng lợi nhuận bằng tính duy trì thì
chất lượng lợi nhuận sẽ giảm nhưng trong trường hợp này sự giảm biến động trong

chuỗi thời gian của lợi nhuận làm gia tăng tính khả năng dự báo của lợi nhuận. Leuz
và cộng sự (2003) cùng quan điểm cho rằng lợi nhuận khi bị che giấu các vấn đề rủi
ro thông qua quy trình kế toán sẽ không mang tính đại diện cho tình hình doanh
nghiệp như đã được báo cáo trong báo cáo tài chính. Watts (2003) thấy rằng lợi nhuận
mà được tính toán dựa trên nguyên tắc kế toán khắt khe thường có chất lượng tốt.
Schipper và Vincent (2003) xem lợi nhuận như một tín hiệu thông tin tài chính doanh
nghiệp trên thị trường và đánh giá tính hữu dụng của thông tin này trong việc ra quyết
định của nhà đầu tư trên thị trường.
Dechow và Schrand (2004) cho rằng chất lượng lợi nhuận đóng vai trò quan
trọng trong tiến trình phân tích tài chính và rằng lợi nhuận chất lượng tốt giúp nhà
phân tích đánh giá ba khía cạnh cơ bản của thông tin như hiệu quả doanh nghiệp hiện
tại, hiệu quả doanh nghiệp trong tương lai, và giá trị doanh nghiệp. Altamuro và
Beatty (2006) đánh giá chất lượng lợi nhuận dựa trên tính duy trì của lợi nhuận, tức
là mối quan hệ giữa lợi nhuận hiện tại và tương lai. Như vậy, lợi nhuận chất lượng
tốt có thể dùng để dự đoán hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai hiệu quả hơn.
Báo cáo tài chính liên quan tới hệ thống kế toán trong doanh nghiệp và đem
lại thông tin cần thiết để đánh giá hiệu quả hoạt động, khả năng tạo ra lợi nhuận, và
dòng tiền mong đợi của doanh nghiệp. Thu nhập ròng là một khoản mục trong báo
cáo tài chính. Vì nhiều lý do khác nhau như đảm bảo vị trí trong doanh nghiệp, khoản
đền bù (compensation), giá trị gia tăng của doanh nghiệp, tạo ra một bức tranh đẹp
về hoạt động của doanh nghiệp bằng cách cộng dồn các khoản mục gia tăng từ đó
làm cho lợi nhuận và dòng tiền hoạt động gia tăng. Nếu lợi nhuận được báo cáo dựa
trên kết quả hoạt động thực sự của doanh nghiệp có chất lượng kém thì nó không
đóng vai trò hiệu quả trong tiến trình ra quyết định kinh tế. Dechow (1994) cho rằng
lợi nhuận hiện tại là yếu tố dự báo tốt cho dòng tiền doanh nghiệp trong tương lai và
khoản mục đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong báo cáo tài chính là lợi


11


nhuận ròng. Chất lượng lợi nhuận kém có thể dẫn tới tình trạng thông tin bất cân
xứng. Thông tin bất cân xứng và chi phí đại diện giảm cho thấy chất lượng lợi nhuận
cao, tức lợi nhuận có tính ổn định qua thời gian.
Chất lượng lợi nhuận là chỉ số đánh giá khả năng mà lợi nhuận được báo cáo
có thể dùng để dự báo dòng tiền tương lai. Khi chất lượng lợi nhuận giảm thì dòng
tiền tương lai không thể được dự đoán chính xác bởi vì lợi nhuận báo cáo đã được
kiểm soát và việc dự đoán dòng tiền tương lai dự vào lợi nhuận báo cáo không còn
chính xác nữa. Lợi nhuận được kiểm soát khắt khe dùng để dự báo dòng tiền tương
lai so với dòng tiền hiện tại và khoản dồn tích tốt hơn vì nó cung cấp nhiều thông tin
hơn. Tuy nhiên, lợi nhuận cũng được kiểm soát bởi nhà quản trị để chỉ ra vị thế tốt
của doanh nghiệp vì vậy khoản dồn tích có thể là dự báo xấu cho dòng tiền tương lai
của doanh nghiệp (Qamar và cộng sự, 2016).
Chất lượng lợi nhuận được báo cáo của doanh nghiệp dùng để đo lường hiệu
quả hoạt động kinh doanh và liệu nó có phải là sự đại diện mang tính thông tin hiệu
quả tài chính của doanh nghiệp (Dechow và cộng sự, 2010). Dechow và cộng sự
(2010) cho rằng chất lượng lợi nhuận cao sẽ chứa nhiều thông tin hữu ích cho việc
doanh nghiệp đưa ra các chính sách, quyết định đúng đắn. Chất lượng lợi nhuận còn
phụ thuộc vào sự hữu dụng của quyết định trong ngữ cảnh của đại diện thông tin của
hiệu quả hoạt động tài chính. Schipper và Vincent (2003) phân biệt giữa sự hữu dụng
của quyết định và quan điểm thu nhập Hicksian về chất lượng lợi nhuận. Họ đồng ý
rằng tính hữu dụng của quyết định là tiêu chuẩn đối với đánh giá lựa chọn kế toán mà
có lẽ nắm bắt được mục tiêu của tiêu chuẩn báo cáo tài chính (cung cấp thông tin mà
hữu ích đối với quyết định của doanh nghiệp) (Beaver, 1998, Schipper và Vincent,
2003).
1.2.

Các nghiên cứu trong nước liên quan đến chất lượng lợi nhuận

Nghiên cứu của Dương Nguyễn Thanh Tâm (2013):
Nghiên cứu về tác động của cấu trúc nợ đến chất lượng lợi nhuận doanh nghiệp

với bộ dữ liệu BCTC của 295 Công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán


12

Thành phố Hồ Chí Minh từ 2008 – 2011. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy dữ
liệu: Mô hình hồi quy Pool, mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên, mô hình hồi quy
tác động cố định và khái niệm tổng dồn tích được tính theo phương pháp của
Richardson và cộng sự (2005) và Keefe (2010) để đo lường chất lượng lợi nhuận.
Nghiên cứu cho thấy cấu trúc nợ gồm khoản vay ngắn hạn, dài hạn và phải trả
người bán có tác động đến chất lượng lợi nhuận được báo cáo và cấu trúc nợ được
xem là một công cụ “cảnh báo sớm” về chất lượng lợi nhuận được báo cáo.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng ( 2016):
Nghiên cứu đánh giá thực trạng chất lượng BCTC và xác định, phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC đo lường thông qua quản trị lợi nhuận và
giá trị thích hợp của thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ 2012 – 2014 để đo lường chất lượng báo cáo
tài chính dựa trên cả 2 cơ sở là cơ sở kế toán và cơ sở thị trường. Tác giả đưa ra mô
hình nghiên cứu với kết quả là 17 trong tổng số 23 nhân tố được kiểm định có ảnh
hưởng đến chất lượng BCTC, 23 nhân tố chia làm 5 nhóm sau: cơ cấu sở hữu, quản
trị công ty, cơ cấu vốn, đặc điểm thị trường và hiệu quả công ty.
Nghiên cứu cho thấy phương pháp đo lường chất lượng BCTC qua quản trị lợi
nhuận có ưu điểm là đáng tin cậy và để thực hiện đo lường, tác giả sử dụng mô hình
của Jones đã qua điều chỉnh của Dechow (1994) và sử dụng dữ liệu chéo theo nghiên
cứu của DeFond và Jiambalvo (1994) và mô hình EBO điều chỉnh.
Nghiên cứu của Hoang Trang Cam (2014):
Nghiên cứu hướng đến mục tiêu tìm hiểu những tác động của sự đa dạng trong
hội đồng quản trị đối với chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết ở Việt Nam
từ năm 2005 đến 2011. Tác giả nghiên cứu hai khía cạnh của sự đa dạng trong hội
đồng quản trị là sự đa dạng của cấu trúc gồm bốn thuộc tính: (i) tách vai trò CEO /

Chủ tịch HĐQT; (ii) các giám đốc điều hành không phải là giám đốc điều hành sở
hữu trên 5% cổ phần của công ty (người nắm giữ); (iii) quyền sở hữu của giám đốc


13

đại diện; (iv) người sáng lập và bốn thuộc tính nhân khẩu học của hội đồng quản trị
gồm: (i) giới tính; (ii) tuổi; (iii) trình độ học vấn; (iv) quốc tịch để thấy tác động đến
chất lượng lợi nhuận. Tác giả đo lường chất lượng lợi nhuận dựa trên đo lường chất
lượng dồn tích theo mô hình của Dechow và Dichev (2002).
Kết quả đo lường cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể trong mối quan
hệ giữa sự đa dạng hội đồng quản trị và chất lượng lợi nhuận. Nghiên cứu có ý nghĩa
cho một thị trường nhỏ, là một trong những quốc gia mới nổi như Việt Nam (Bank,
2012). Các phát hiện của nghiên cứu này giúp các nhà hoạch định chính sách Việt
Nam xem xét những gợi ý của các quy định quản trị công ty hiện tại về các Hội đồng
quản trị trong bối cảnh của Việt Nam để tăng cường báo cáo minh bạch và trách
nhiệm giải trình cho các nhà đầu tư. Nó cũng có thể hỗ trợ các quốc gia mới nổi khác
có mức độ bảo vệ nhà đầu tư thấp nhưng đang nỗ lực để cải thiện quản trị công ty.
Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương (2017):
Nghiên cứu về hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết khi phát
hành thêm cổ phiếu, áp dụng mô hình Modified Jones với dữ liệu chéo nghiên cứu
điều chỉnh tăng lợi nhuận ở ngay quý trước thời điểm phát hành thêm cổ phiếu.
Nghiên cứu cung cấp bằng chứng về hành vi của nhà quản trị công ty thực
hiện hành động quản trị lợi nhuận khi phát hành thêm cổ phiếu nhằm mục đích thu
hút nhà đầu tư; những công ty báo cáo lợi nhuận tăng thì có giá cổ phiếu tăng lên và
huy động vốn nhìn chung là thành công. Tác giả đã chỉ ra trường hợp tại sao các công
ty lại điều chỉnh giảm lợi nhuận; thực tế có thể do các công ty này chịu áp lực hay
theo đuổi mục tiêu khác (như thuế, thu nhập của nhà quản lý) hay do trình độ của
nhân viên kế toán. Kết quả của nghiên cứu này gợi dẫn một vài hàm ý liên quan đến
chất lượng lợi nhuận, cho rằng lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu

quả công ty, một khi lợi nhuận kế toán báo cáo không trung thực sẽ mang lại rủi ro
cho người sử dụng thông tin để ra quyết định. Vì vậy, chất lượng kiểm toán báo cáo
tài chính đóng vai trò quan trọng để nâng cao, tăng độ tin cậy cho chỉ tiêu chất lượng
lợi nhuận của một công ty.


14

Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Anh và Nguyễn Thị Tú (2017)
Bài viết này tập trung đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thu nhập
các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE từ năm 2012 đến năm 2016, kết quả nghiên
cứu đã cho thấy trung bình những công ty có tăng trưởng cao có thì quy mô thường
nhỏ và khi đó tính thanh khoản cao. Bên cạnh đó, nghiên cứu này còn cho thấy chất
lượng thu nhập trung bình của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE cao hơn đối với
những doanh nghiệp có sở hữu nước ngoài cao, trong khi các doanh nghiệp có quy
mô lớn hay sử dụng nhiều chính sách vay nợ lại có chất lượng thu nhập thấp. Bài viết
còn đưa ra các gợi ý chính sách giúp hỗ trợ, cải thiện chất lượng thu nhập các doanh
nghiệp niêm yết trên sàn HOSE.
Thông qua việc tóm lược các nghiên cứu trong nước, tác giả nhận thấy các
nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận không nhiều. Đặc biệt là chất lượng lợi nhuận
trên nhiều phương diện theo cách tiếp cận đa chiều đang còn rất hạn chế. Trong khi
đó, bằng việc lược khảo nhiều nghiên cứu trên thế giới, tác giả nhận thấy chất lượng
lợi nhuận đa chiều, nhiều khía cạnh như: tính bền vững, tính khả năng dự báo, độ biến
động và khả năng chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp có dấu hiệu bị can thiệp đã
được chứng minh là hiệu quả và được kiểm định qua rất nhiều nghiên cứu trên thế
giới.
1.3.

Các nhân tố tác động đến chất lượng lợi nhuận


Ban kiểm toán
Ban kiểm toán được định nghĩa là các thành viên được doanh nghiệp chọn để
tham gia giám sát chính sách, quy trình kế toán, và chất lượng báo cáo tài chính của
doanh nghiệp. Để có thể quản trị doanh nghiệp tốt hơn và đảm bảo tính đầy đủ và
chính xác của BCTC thì ban kiểm toán phải là một bộ phận tích hợp trong cơ cấu
quản trị của doanh nghiệp và là bộ phần được ủy quyền bởi ban giám đốc để hỗ trợ
cho ban giám đốc trong việc đưa ra các tham vấn về rủi ro, kiểm soát, và quản trị
trong doanh nghiệp. Vai trò của ban kiểm toán là giám sát tính minh bạch và liêm
chính của báo cáo tài chính cung cấp bởi bên quản lý doanh nghiệp.


15

Ban kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động tài chính
của doanh nghiệp (Xie và cộng sự, 2003). Ban kiểm toán cũng giám sát chính sách,
kế toán, và chất lượng báo cáo tài chính. Ban này cũng giúp hạn chế xung đột lợi ích
giữa bên sở hữu và giám đốc doanh nghiệp (Menon và cộng sự, 1997). Việc lập ban
kiểm toán trong doanh nghiệp cho thấy tầm quan trọng của ủy ban kiểm toán như là
một cơ chế quản trị doanh nghiệp (Saidin, 2007). Cadbury (1992) cho rằng ban kiểm
toán được xem là cơ chế quản trị giúp bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu doanh nghiệp và
giúp cải thiện chất lượng kiểm toán từ đó đạt được tính minh bạch trong báo cáo tài
chính. Ban kiểm toán đem lại những lợi ích sau: (1) tăng cường mức độ độc lập của
kiểm toán ngoài; (2) tăng cường độ tin cậy của báo cáo tài chính được kiểm toán; (3)
đảm bảo lợi ích mà chính sách doanh nghiệp đem lại cho chủ sở hữu và cộng đồng;
(4) củng cố vị thế của kiểm toán nội bộ; (5) cải thiện hoạt động của ban quan trị cấp
cao và giúp ban giám đốc trao đổi với kiểm toán ngoài hiệu quả hơn (Okaro, 2001).
Bhattacharya và Sen (2003) cho rằng ban kiểm toán đóng vai trò hiệu quả trong việc
nâng cao tính độc lập của kiểm toán doanh nghiệp và cho phép kiểm toán viên đưa ra
đánh giá độc lập mà không có áp lực từ ban quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp
không có ban kiểm toán có khả năng báo cáo số liệu trên báo cáo tài chính một cách

cường điệu hóa (DeFond và Jiambalvo, 1991).
Chính vì vậy, ban kiểm toán được xem là yếu tố chính nên được cân nhắc khi
nghiên cứu chất lượng lợi nhuận vì nhà quản trị có ít sự tương tác với chủ doanh
nghiệp nên giữa hai bên có thể tồn tại một sự không tin tưởng nhất định. Ban kiểm
toán sẽ xóa bỏ sự ngờ vực giữa hai bên thông qua tính chuẩn xác của báo cáo tài chính
(Salehi và cộng sự, 2012).
Quy mô doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp không chỉ liên quan tới hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp mà quy mô doanh nghiệp còn liên quan tới mức độ dòng tiền và khoản dồn
tích có liên quan tới việc đánh giá chất lượng lợi nhuận. Doanh nghiệp quy mô lớn
thường chịu nhiều áp lực hơn các doanh nghiệp quy mô nhỏ (Karami và Akhgar,


16

2014). Doanh nghiệp lớn có khả năng thương lượng với kiểm toán viên và có cơ sở
vật chất được dùng cho quy trình kế toán doanh nghiệp hiện đại hơn. Như vậy, mối
quan hệ giữa quy mô doanh nghiệp và chất lượng lợi nhuận được mong đợi là có tồn
tại trong nghiên cứu (Francis và cộng sự, 2004, Gaio, 2010).
Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính cho thấy sự đánh đổi giữa lợi ích của thuế và chi phí của
kiệt quệ tài chính và phá sản. Cụ thể, mức độ đòn bẩy tài chính phản ánh rủi ro tiềm
tàng của doanh nghiệp và tác động tới chính sách kế toán dồn tích cũng như BCTC
của doanh nghiệp. Đòn bẩy tài chính và chất lượng lợi nhuận có mối quan hệ mật
thiết với nhau (Waweru và Riro, 2013). Hassan và Bello (2013); Dechow và Dichev
(2002) tìm thấy tác động âm của đòn bẩy tài chính lên chất lượng lợi nhuận doanh
nghiệp. Francis và cộng sự (2005) cho rằng chi phí tài chính có tác động tới khoản
dồn tích của doanh nghiệp. Chi phí vốn của khoản dồn tích nơi các doanh nghiệp có
chất lượng lợi nhuận thấp thì nhiều hơn. Khi phân tích mối quan hệ giữa nợ và chất
lượng lợi nhuận thông qua mô hình Jones tại 276 doanh nghiệp phi tài chính trong

giai đoạn 1998 – 2009, Qamar và cộng sự (2016) chỉ ra mối quan hệ âm giữa mức độ
nợ thấp và lợi nhuận báo cáo trong khi đó mức nợ cao lại có tác động dương tới lợi
nhuận doanh nghiệp. Đòn bẩy tài chính cho phép doanh nghiệp giao dịch với số lượng
vốn lớn và doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính có ít lợi nhuận hơn và quản trị lợi
nhuận kém hơn. Đòn bẩy tài chính hạn chế công tác quản trị lợi nhuận của doanh
nghiệp. Khi đó, mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và chất lượng lợi nhuận thể hiện
tương quan dương với nhau (Francis và cộng sự, 2004, Gaio, 2010).
Tỷ lệ lợi nhuận doanh nghiệp
Thông tin kế toán chất lượng tốt cung cấp những đánh giá chính xác hơn về
lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Doanh nghiệp với lợi nhuận
dương càng cao thì càng có khả năng cung cấp thông tin chất lượng tốt để có thể ước
tính giá trị thực của doanh nghiệp chính xác hơn (Lin và Wu, 2014). Lợi nhuận có tác
động đến chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp (Hamidzadeh và Zeinali, 2015). Lợi


17

nhuận càng cao thì vị thế tài chính của doanh nghiệp càng cao và thanh khoản doanh
nghiệp cũng cao hơn. Điều này làm gia tăng động thái của doanh nghiệp trong việc
báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình với chất lượng tốt. Khajavi và cộng
sự (2016) nghiên cứu mối liên hệ giữa chất lượng lợi nhuận và lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu (ROE) và tìm thấy rằng lợi tức cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi khoản cộng dồn.
Độ biến động doanh thu
Ghosh và cộng sự (2005) khẳng định rằng doanh nghiệp với biến động doanh
thu thấp thì chất lượng lợi nhuận thường cao hơn so với doanh nghiệp có biến động
doanh thu cao hơn. Francis và cộng sự (2004) tìm thấy mối quan hệ dương giữa độ
lệch chuẩn của doanh thu bán hàng với chất lượng lợi nhuận doanh nghiệp.
Biến động dòng tiền doanh nghiệp
Chất lượng lợi nhuận có mối tương quan mạnh mẽ với dòng tiền doanh nghiệp.
Tương quan càng cao thì chất lượng lợi nhuận càng tốt (Chasten, 1992). Feltham và

Ohlson (1995) cho rằng chất lượng lợi nhuận là khả năng đoán được sự bất thường
trong lợi nhuận từ nhà đầu tư dựa trên số liệu hiện tại. Lợi nhuận chất lượng tốt là lợi
nhuận có sự đảm chứng bằng dòng tiền doanh nghiệp qua thời gian (Sloan, 1996,
Dechow và Dichev, 2002). Penman và Zhang (2002), Dechow và Schrand (2004), và
Ahmadpour và Ahmadi (2008) xem chất lượng lợi nhuận tốt là lợi nhuận mà ít thay
đổi qua các năm và hữu dụng trong việc ra quyết định đối với người sử dụng. Chất
lượng lợi nhuận là chỉ số đánh giá khả năng lợi nhuận báo cáo có thể dùng để dự báo
dòng tiền tương lai. Khi chất lượng lợi nhuận kém thì dòng tiền tương lai không thể
được dự đoán chính xác bởi vì lợi nhuận báo cáo đã được điều chỉnh và dự báo dựa
trên dòng tiền này không còn chính xác nữa.
Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính được nhiều nghiên cứu sử dụng như một yếu tố đại
diện cho yếu tố vĩ mô nói chung hay cú sốc của thị trường nói riêng (Callao và Jarne,
2011, Iatridis và Dimitras, 2013, Kousenidis và cộng sự, 2013, Strobl, 2013,


×