Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài chính tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------------------

NGUYỄN VĂN HIẾU

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘ MỞ TÀI CHÍNH, ĐỘ MỞ
THƯƠNG MẠI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH TẠI
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở
thương mại và sự phát triển tài chính tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi.
Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung
trích dẫn đều có ghi nguồn gốc và các kết quả được trình bày trong luận văn chưa được
công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian
lận nào, tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm trước Hội Đồng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày ..... tháng ..... năm 2019
Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Hiếu


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .............................................................................................. 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................ 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 3
1.3 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 3
1.4 Kết cấu của đề tài .................................................................................................. 3
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................................ 5
2.1 Các khái niệm cơ bản ............................................................................................ 5
2.1.1 Độ mở thương mại ........................................................................................ 5
2.1.2 Độ mở tài chính ............................................................................................. 6
2.1.3 Sự phát triển tài chính .................................................................................. 7
2.1.4 Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển
tài chính .................................................................................................................... 8
2.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu ................................................................. 9
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................... 17
3.1 Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................. 17
3.1.1 Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................... 17
3.1.2 Mô hình nghiên cứu và các giả thiết ......................................................... 17
3.2 Phương pháp xử lý số liệu................................................................................... 20



3.2.1 Phân tích thống kê mô tả : ......................................................................... 20
3.2.2 Kiểm định tính dừng: ................................................................................. 21
3.2.3 Kiểm định đồng liên kết của Johansen: .................................................... 21
3.2.4 Kiểm định nhân quả Granger: .................................................................. 21
3.2.5 Phân tích mô hình VECM và hàm phản ứng xung IRF: ........................ 21
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................... 24
4.1 Mô tả và phân tích thống kê ............................................................................... 24
4.2. Phân tích mối quan hệ giữa độ mở thương mại, độ mở tài chính và phát triển
tài chính tại Việt Nam .................................................................................................. 29
4.2.1 Kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) .............................................. 29
4.2.2 Kiểm định đồng liên kết của Johansen (1991) ......................................... 30
4.2.3 Kiểm định quan hệ nhân quả (Granger causibility) ............................... 33
4.2.4 Phân tích mô hình VECM và phân tích hàm phản ứng xung IRF ........ 36
4.3 Kết quả nghiên cứu ............................................................................................. 47
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ............................................................................................. 50
5.1 Kết luận ................................................................................................................ 50
5.2 Hạn chế nghiên cứu ............................................................................................. 51

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Cụm viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Anh


Tên đầy đủ tiếng Việt

TO

Trade Openness

Độ mở thương mại

FO

Financial Openness

Độ mở tài chính

FD

Financial Development

Sự phát triển tài chính

RGDP

Real Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội thực

GOV

Government Spending


Chi tiêu chính phủ

STATE

Share of Industrial Production of
State-owned
Enterprises

VECM

Vector Error Correction Model

DEPT

The Ratio of Total Loans in The
Financial System (Including
BothBanking and Non-Banking
Financial Institutions) to The
Nominal GDP
The Ratio of Credit Allocated to
Private Enterprises to Total
Domestic Credit
The Ratio of Total Household
Savings to The Nominal GDP

Tỷ lệ sản lượng công nghiệp
của khu vực nhà nước chia
cho tổng sản lượng công
nghiệp
Mô hình Vector hiệu chỉnh sai

số.
Tỷ lệ tổng dư nợ trong hệ
thống tài chính (bao gồm cả
ngân hàng và phi ngân hàng
tổ chức tài chính) trên GDP
danh nghĩa
Tỷ lệ tín dụng được phân bổ
cho các doanh nghiệp tư nhân
trên tổng tín dụng trong nước
Tỷ lệ của tổng số tiền tiết
kiệm hộ gia đình trên GDP
danh nghĩa
Tỷ lệ của tổng số tiền cho vay
và tiền gửi trong hệ thống tài
chính trên GDP danh nghĩa
Doanh nghiệp nhà nước

PRV

SAV

FIR

SOEs

The Ratio of Total Loans and
Deposits in The Financial System
to Nominal GDP
State-Owned Enterprises



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Bảng tổng hợp các biến dùng trong mô hình ................................................. 19
Bảng 4.1. Thống kê mô tả biến nghiên cứu ................................................................... 24
Bảng 4.2. Kiểm định nghiệm đơn vị ADF .................................................................... 29
Bảng 4.3. Kiểm định đồng liên kết ................................................................................ 31
Bảng 4.4. Xác định độ trễ tối ưu .................................................................................... 33
Bảng 4.5. Kiểm định Granger causibility (mô hình 1)................................................... 33
Bảng 4.6. Kiểm định Granger causibility (mô hình 2)................................................... 34
Bảng 4.7. Kiểm định Granger causibility (mô hình 3)................................................... 34
Bảng 4.8. Kiểm định Granger causibility (Mô hình 4) .................................................. 35
Bảng 4.9: Kiểm định tự tương quan Portmanteau ......................................................... 37
Bảng 4.10. Phân tích mô hình VECM ........................................................................... 37


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Độ mở thương mại của Việt Nam giai đoạn 1990-2017 ........................... 26
Biểu đồ 4.2. Độ mở tài chính của Việt Nam giai đoạn 1990-2017 ................................ 27
Biểu đồ 4.3. Sự phát triển tài chính của Việt Nam giai đoạn 1990-2017 ...................... 28
Hình 4.4. Hàm phàn ứng xung mô hình 1 ................................................................. . ...41
Hình 4.5. Hàm phàn ứng xung mô hình 2 ...................................................................... 42
Hình 4.6. Hàm phản ứng xung mô hình 3 ...................................................................... 44
Hình 4.7. Hàm phàn ứng xung mô hình 4 ...................................................................... 46


TÓM TẮT

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ giữa
độ mở tài chính và độ mở thương mại lên sự phát triển thị trường tài chính tại Việt

Nam. Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu 28 năm giai đoạn 1990-2017.
Tác giả thực hiện các kiểm định tính dừng (Augmented Dicky-Fuller (1979),
kiểm định quan hệ nhân quả (Granger causibility), kiểm định Johansen, phân tích mô
hình VECM và phân tích hàm phản ứng xung IRF để phân tích dữ liệu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa độ mở thương
mại, độ mở tài chính và sự phát triển tài chính của Việt Nam giai đoạn 1990-2017. Kết
quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước, là một trong những cơ sở đáng tin cậy
để phân tích và dự báo.


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Chương 1 của nghiên cứu sẽ giới thiệu khái quát lý do chọn đề tài và vấn đề
nghiên cứu. Nội dung của chương 1 bao gồm 4 phần: (1) Tính cấp thiết của đề tài, (2)
Mục tiêu nghiên cứu, (3) Phương pháp nghiên cứu, (4) Kết cấu của đề tài.
1.1

Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Đây là cơ hội nhưng đi

kèm là không ít khó khăn và thách thức đòi hỏi cạnh tranh gay gắt và quyết liệt hơn.
Hiện Việt Nam đang hoàn thiện tiến trình đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới như: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU; Hiệp định Thương
mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu..., tạo nên sức cộng hưởng để thúc đẩy
nền kinh tế cũng như các các doanh nghiệp bước sang một giai đoạn mới.Việt Nam vẫn
đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nên còn rất nhiều việc phải
làm, nhất là đứng trước những yêu cầu ngày càng cao hơn để hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới.
Kể từ khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập Tổ chức thương mại thế

giới (WTO) năm 2007, hợp tác đa phương cho đến nay, các bộ phận của thị trường tài
chính Việt Nam cơ bản được hình thành. Hệ thống định chế tài chính đã phát triển cả
về số lượng và chất lượng. Hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính
được thể chế hóa từng bước; các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị
trường tài chính có sự phối hợp trong kiểm tra, giám sát… Thị trường tài chính tại Việt
Nam đã hình thành khuôn khổ pháp lý cần thiết cho sự vận hành của thị trường, từng
bước đa dạng hóa các sản phẩm và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Công
tác quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính ngày càng được hoàn thiện. Bên cạnh
những mặt tích cực đã đạt được, thị trường tài chính cũng bộc lộ không ít bất cập cũng


2

như tiềm ẩn nhiều rủi ro dẫn đến bất ổn đối với hoạt động của thị trường tài chính nói
riêng và của nền kinh tế nói chung.
Mở cửa thương mại và mở cửa tài khoản vốn (Yanikkaya, 2003; Fereidouni et
al, 2011; Eichengreen và Leblang, 2008), hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít;
một quốc gia mở cửa đối với thương mại có thể gây ra một mức độ mở cửa tài chính
lớn bằng cách thu hút (thông qua đầu tư) các dòng vốn trong lĩnh vực tài chính của
quốc gia. Aizenman và Noy (2003) thấy rằng sự gia tăng của độ lệch chuẩn của độ mở
thương mại có liên quan với mức tăng 9,5 phần trăm trong độ mở tài chính. Lý thuyết
kinh tế chỉ ra rằng các quốc gia có quyền tự do trao đổi quốc tế nhiều hơn để nó có thể
được hưởng lợi từ sự cởi mở về sản xuất sản lượng lớn hơn và đạt được thu nhập cao
hơn. Điều này là phù hợp với lý thuyết của Ricardo: khẳng định rằng thương mại quốc
tế mang lại sự sử dụng về hiệu quả hơn các nguồn lực của một quốc gia, do đó tăng
cường sự tăng trưởng kinh tế chung của một quốc gia (Georgios, 2002; Yanikkaya,
2003; Gwartney năm 2001; Niroomand và Nissan, 1997). Nó cũng khẳng định rằng
trong hầu hết các trường hợp, độ mở kinh tế lớn hơn thúc đẩy hoạt động kinh doanh và
tính sáng tạo dựa trên thực tế rằng sẽ có kỳ vọng sản xuất hiệu quả và khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Gwartney (2001) chỉ ra rằng sự cởi mở có thể khiến các

nước phải có chính sách và tổ chức để họ có thể cạnh tranh trong việc tạo ra môi
trường thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư. Rõ ràng trong thế giới toàn cầu
hóa, không có nhà đầu tư nào sẽ hứng thú đối với việc đầu tư vào một quốc gia có đặc
trưng bởi sự thù địch đối với các nhà đầu tư kinh doanh, bất ổn tiền tệ, phạm pháp, thuế
cao, và các dịch vụ công cộng chất lượng thấp (Gwartney, 2001).Với mục đích cách
tiếp cận để đạt được cái nhìn sâu sắc vào các tác động năng động của độ mở thương
mại và độ mở tài chính đối với sự phát triển tài chính ở Việt Nam, tác giả đã lựa chọn
đề tài “Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài
chính tại Việt Nam”, nghiên cứu xem xét các khía cạnh khác nhau của sự phát triển tài


3

chính, cụ thể là quy mô, hiệu quả và cạnh tranh, và kiểm tra cả tác động biên trực tiếp
của độ mở đối với các chỉ số khác nhau của phát triển tài chính. Nghiên cứu có thể
được coi như là một mô hình minh họa của liên kết giữa độ mở và phát triển tài chính
trong một quốc gia đang phát triển. Kết quả nghiên cứu này đóng góp quan trọng sự
phát triển nghiên cứu về lĩnh vực tài chính.
1.2

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở tài

chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài chính tại Việt Nam giai đoạn 1990-2017.
1.3

Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tiến hành nghiên cứu các cơ sở lý thuyết về độ mở tài chính, độ mở

thương mại và sự phát triển của tài chính và tổng quan về các kết quả nghiên cứu trước

đây để hình thành khung lý thuyết và xác định mô hình nghiên cứu của đề tài;
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả sẽ đưa ra mô hình nghiên cứu định lượng
dựa trên mô hình của Chengsi Zhang , Yueteng Zhu , Zhe Lu (2015) với kích thước
mẫu trong phân tích thống kê cần phải đủ lớn để đạt được độ tin cậy nhất định theo
mục tiêu đã đề ra của luận văn. Riêng trong luận văn này, tác giả sử dụng mô hình hồi
quy với số liệu điều tra là dạng số liệu theo chuỗi thời gian (số liệu thống kê theo năm)
nên theo Greene W. H. (2003) và Tabachnick & Fidell (2007) thì kích thước mẫu sẽ
được xác định theo công thức n–k≥20 với n là số năm tham khảo, k là số biến độc lập.
Nghiên cứu này chọn số quan sát là 28 năm (từ năm 1990 đến năm 2017) để đảm bảo
được ý nghĩa thống kê; Nghiên cứu này thực hiện các kiểm định tính dừng (Augmented
Dicky-Fuller (1979), kiểm định quan hệ nhân quả (Granger causibility), kiểm định
Johansen và phân tích mô hình VECM, phân tích hàm phản ứng xung IRF để nghiên
cứu mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài chính.
1.4

Kết cấu của đề tài
Luận văn có kết cấu 5 chương bao gồm :


4

Chương 1: Giới thiệu
Chương này tác giả nêu tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu và cuối cùng trình bày bố cục, kết cấu của đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương này tác giả tổng hợp các khái niệm cơ bản về: độ mở thương mại, độ
mở tài chính, sự phát triển tài chính và trình bày tổng quan các nghiên cứu trước đây.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Tác giả trình bày thiết kế nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
và các giả thiết. Tác giả cũng trình bày phương pháp xử lý số liệu ở chương này.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Nội dung chính của chương thể hiện các kết quả kiểm nghiệm đơn vị (Unit Root
Test), kiểm định đồng liên kết của Johansen, kiểm định quan hệ nhân quả (Granger
causibility) phân tích mô hình VECM và hàm phản ứng xung IRF.
Chương 5: Kết luận
Chương này, tác giả trình bày các thảo luận về kết quả nghiên cứu từ chương 4,
nêu lên hạn chế của đề tài và hướng mở rộng đề tài.
Tóm tắt chương 1
Chương 1 trình bày bức tranh toàn cảnh của nghiên cứu và đưa ra các cơ sở cho
các chương tiếp theo. Chương 1 cung cấp một cái nhìn tổng quan của nền tảng nghiên
cứu và mô tả ngắn gọn về nghiên cứu, bao gồm lý do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu.
Cuối cùng là trình bày cấu trúc luận văn làm cơ sở để tác giả phát triển nghiên cứu ở
các chương tiếp theo.


5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết về đề tài nghiên cứu bao gồm hai phần. Phần
thứ nhất trình bày các khái niệm cơ bản như: độ mở thương mại; độ mở tài chính; sự
phát triển tài chính. Phần thứ hai trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu trước
đây.
2.1

Các khái niệm cơ bản

2.1.1 Độ mở thương mại
Độ mở thương mại cho thấy mức độ mà các quốc gia hoặc nền kinh tế cho phép
buôn bán trao đổi đổi mậu dịch với quốc gia hoặc nền kinh tế khác. Theo các nghiên
cứu trước đây, Marelli và Signorelli (2011); Yanikkaya (2003) Edwards (1993), xác

định độ mở thương mại là tỷ lệ của tổng giá trị thương mại (nhập khẩu + xuất khẩu)
trên thu nhập quốc dân của một quốc gia (GDP).
Mặc dù có nhiều bài nghiên cứu đã khám phá mối quan hệ độ mở thương mại
với các biến số kinh tế khác nhau, tuy nhiên các phát hiện của các tác giả lại cho kết
quả trái ngược nhau do xuất phát từ những khó khăn trong việc đo lường độ mở thương
mại (Yanikkaya, 2003; Manole và Spatareanu, 2010; Squalli và Wilson, 2011). Vấn đề
này đã đặt ra câu hỏi về tính hợp lệ về các kết quả nghiên cứu thực nghiệm đối với độ
mở thương mại vì các nghiên cứu khác nhau đã được đưa ra các biện pháp đo lường độ
mở thương mại khác nhau (Kandiero và Wadhawan, 2003). Rose (2004) cung cấp một
cách đo lường hữu ích đó là nhóm các biện pháp này thành bảy nhóm: đo lường dựa
trên các tỷ lệ thương mại (thương mại như là một tỷ lệ GDP); dòng chảy thương mại
điều chỉnh; biện pháp dựa trên kết quả giá; các hàng rào phi thuế quan; chỉ số hỗn hợp
(kết hợp các chỉ tiêu thuế quan và phi thuế quan với các chỉ số kinh tế và chính trị
khác) và các biện pháp chính thức và định lượng. Các phân loại có thể được xem xét
theo hai khía cạnh: xem xét độ mở thương mại là các dòng chảy thương mại và các


6

mức giá, phần còn lại là dựa trên những hạn chế thương mại hay đúng hơn là chính
sách. Yanikkaya (2003) phân loại các biện pháp này thành hai loại, các biện pháp dựa
trên khối lượng, quy mô thương mại và dựa trên hạn chế thương mại, trong đó xác định
mức độ phòng ngừa, ổn định của một nền kinh tế nói riêng. Tỷ lệ phụ thuộc thương
mại và tăng trưởng xuất khẩu là dựa trên kết quả các biện pháp mở cửa thương mại
(Balassa, 1982).
Trong bài này độ mở thương mại được đo lường bằng tổng giá trị thương mại
(xuất khẩu+ nhập khẩu)/ GDP.
2.1.2 Độ mở tài chính
Độ mở tài chính được thể hiện qua sự tự do hóa khu vực tài chính. Tự do hóa
khu vực tài chính đề cập đến việc loại bỏ hoặc nới lỏng các quy định được áp đặt bởi

chính phủ đối với khu vực tài chính trong nước. Độ mở tài chính nền kinh tế thường
được đo bằng tổng của các dòng vốn tư nhân trên tổng sản phẩm quốc dân (Aizenman
và Noy, 2003). Đo lường độ mở tài chính khó khăn hơn đo lường độ mở thương mại.
Các quốc gia sở hữu một mảng rộng và hệ thống kiểm soát giá cả phức tạp; khối lượng
rất nhiều các giao dịch tài chính phức tạp. Do đó, đo lường độ mở tài chính là một
thách thức lớn và thường không bao giờ hiệu quả (Eichengreen, 2001), đo lường độ mở
tài chính thực sự khó khăn (Edison, Levine, Ricci và Slok, 2002). Các nghiên cứu thực
nghiệm đã phát triển một số biện pháp đo lường độ mở tài chính khác nhau và sử dụng
chúng để phân tích ảnh hưởng của độ mở tài chính đối với tăng trưởng và rút ra những
kết luận chính sách. Các tài liệu nghiên cứu về độ mở tài chính và mối quan hệ tăng
trưởng có thể được xem xét trên 2 kênh tiếp cận: dựa trên thực tế (de facto) và dựa trên
luật (de jure). Lane và Milesi –Frerretti (2007), đã phát triển cách đo lường độ mở tài
chính dựa trên thực tế bằng số lượng tài sản và nợ nước ngoài trên GDP. Các nghiên
cứu tiếp cận theo phương pháp này tìm kiếm mối quan hệ giữa độ mở tài chính và tăng
trưởng kinh tế; mặt khác Chinn và Ito (2006) đo lường phát triển tài chính dựa trên luật


7

bằng cách xây dựng các biến giả đại diện cho các hạn chế giao dịch tài chính xuyên
biên giới. Các nghiên cứu trên kênh này cho rằng tác dụng tăng trưởng tích cực từ độ
mở tài chính là phát triển tốt hơn về hệ thống tài chính, chất lượng thể chế, môi trường
pháp lý và chính sách kinh tế vĩ mô (Bekaert, Harvey, Lundbland, 2005).
Mỗi thước đo về độ mở tài chính đều có ưu và nhược điểm. Thước đo thực tế ít
nhạy cảm với yếu tố nội sinh hơn thước đo dựa trên luật. Trong khi đó thước đo dựa
trên luật có được căn cứ tốt hơn về mặt lý thuyết (Baltagi và cộng sự, 2009).
Trong bài này tác giả áp dụng đo lường độ mở tài chính theo thực tế vì sự sẵn có
của dữ liệu. Biến độ mở tài chính được đo lường bằng tỷ lệ khối lượng các tài sản và
các khoản nợ nước ngoài của một quốc gia trên GDP danh nghĩa.
2.1.3 Sự phát triển tài chính

Một số biện pháp đo lường sự phát triển tài chính bao gồm tỷ lệ nợ phải trả của
hệ thống tài chính trên GDP danh nghĩa (Levine và công sự, 2000), tỷ lệ tiền gửi trên
GDP (Rajan và Zingales, 2003), tỷ lệ tín dụng cho khu vực tư nhân trên GDP (Levine
và cộng sự, 2000), và tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP (Baltagi và cộng
sự, 2009, Rajan và Zingales, 2003). Theo định nghĩa, có thể phân loại thành các biện
pháp đo lường theo quy mô ( ví dụ: tổng nợ phải trả hoặc tổng tín dụng ), và các biện
pháp đo lường tính hiệu quả (ví dụ: tín dụng phân bổ cho khu vực tư nhân) để đo lường
sự phát triển tài chính.
Biện pháp đầu tiên đo lường phát triển tài chính là quy mô, được đo bởi ba biến
sau đây: biến đầu tiên là tỷ lệ tổng dư nợ trong hệ thống tài chính (bao gồm cả ngân
hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng ) trên GDP danh nghĩa; được ký hiệu là DEPT,
nó đo lường độ sâu tổng thể của các trung gian tài chính (Lu và Yao, 2009). Thứ hai là
tỷ lệ của tổng số tiền cho vay và tiền gửi trong hệ thống tài chính trên GDP danh nghĩa,
và được ký hiệu là FIR, nó đo lường quy mô tổng thể của các trung gian tài chính
(Goldsmith, 1969). Chỉ số thứ ba là tỷ lệ của tổng số tiền tiết kiệm hộ gia đình trên


8

GDP danh nghĩa; được ký hiệu là SAV, nó đại diện cho sự phát triển tài chính về các
nguồn tài trợ phi ngân hàng (Guariglia và Poncet, 2008) .
Biện pháp thứ hai là các chỉ số hiệu quả được đo bằng tỷ lệ tín dụng được phân
bổ cho các doanh nghiệp tư nhân trên tổng tín dụng trong nước (ký hiệu là PRV).
(Beck et al, 2000;. Chinn và Ito, 2006; Levine et al. , 2000). Sự đàn áp và bóp méo tài
chính là đặc điểm nội tại của hệ thống tài chính Việt Nam, do đó là hợp lý khi xem xét
sự phát triển tài chính ở Việt Nam trên khía cạnh hiệu quả. Tín dụng tư nhân được coi
như là một thước đo ẩn đo lường sự phát triển tài chính. Tín dụng tư nhân là tín dụng
cấp cho khu vực tư nhân, và trái ngược lại là tín dụng cấp cho các doanh nghiệp nhà
nước (DNNN), nơi được biết đến với hiệu quả thấp. Tỷ lệ PRV cao cho thấy các dịch
vụ tài chính hiệu quả hơn và sự phát triển trung gian tài chính lớn hơn (Levine et al.,

2000). Trong một hệ thống tài chính do ngân hàng chi phối, tín dụng tư nhân có lẽ là
chỉ số hiệu quả tài chính quan trọng nhất (Brandt và Zhu, 2000; Song và Yao, 2006).
Thật vậy, nó đo lường mức độ mà các công ty tư nhân có cơ hội để tiếp cận được tín
dụng của ngân hàng (Baltagi et al., 2009) và sự dễ dàng mà các doanh nghiệp có được
các dự án (Rajan và Zingales, 2003).
2.1.4 Mối quan hệ giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài
chính
Lý thuyết kinh tế chỉ ra rằng các quốc gia có quyền tự do trao đổi quốc tế nhiều
hơn để nó có thể được hưởng lợi từ sự cởi mở từ việc sản xuất sản lượng lớn hơn và
đạt được thu nhập cao hơn. Điều này là phù hợp với lý thuyết của Ricardo: khẳng định
rằng thương mại quốc tế mang lại sự sử dụng về hiệu quả hơn các nguồn lực của một
quốc gia, do đó tăng cường sự tăng trưởng kinh tế nói chung và sự phát triển tài chính
nói riêng của một quốc gia (Georgios, 2002; Yanikkaya, 2003; Gwartney năm 2001;
Niroomand và Nissan, 1997).
Có lẽ kênh trực tiếp nhất mà qua đó sự cởi mở sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tài
chính là thông qua sự gia tăng quy mô của thị trường và nhu cầu về các dịch vụ tài


9

chính. Mở cửa thương mại tạo ra nhu cầu cho các sản phẩm tài chính mới, bao gồm các
công cụ cho tài chính thương mại và phòng ngừa rủi ro (Svaleryd và Vlachos, 2002) do
sự gia tăng của sự không chắc chắn, biến động thu nhập, cạnh tranh nước ngoài và các
cú sốc từ bên ngoài. Tuy nhiên Do and Levchenko (2004) cho rằng mở cửa thương mại
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển tài chính tùy thuộc vào mức thu
nhập của các quốc gia. Những quốc gia có thu nhập tương đối cao chịu ảnh hưởng tích
cực từ tăng độ mở thương mại, trong khi những quốc gia có thu nhập tương đối thấp
chịu ảnh hưởng tiêu cực từ tăng độ mở thương mại. Lý do vì các nước này nhập khẩu
tài chính chuyên sâu hàng hóa hơn là phát triển hệ thống tài chính của riêng họ.
Sự cởi mở về tài chính có tiềm năng tăng thanh khoản và giảm chi phí vốn, do

đó thúc đẩy phát triển tài chính. Tăng độ mở tài chính có thể đóng góp cho tài chính
phát triển bằng cách cải thiện chức năng và dịch vụ tài chính của ngành tài chính và
nâng cao hiệu quả phân bổ vốn. Mishkin (2009) lập luận rằng sự gia nhập của vốn
nước ngoài thúc đẩy một loại hình chuyển giao công nghệ trên mạng, khiến các ngân
hàng trong nước nâng cấp cho vay theo tiêu chuẩn và theo thông lệ quốc tế tốt nhất.
Kose và những người khác (2009) cho rằng vốn tự do hóa tài khoản có thể áp đặt kỷ
luật đối với các chính sách kinh tế vĩ mô bằng cách tăng lợi ích của các chính sách phù
hợp, đồng thời làm tăng chi phí của những chính sách không phù hợp. Một số nghiên
cứu thực nghiệm chỉ ra rằng mở cửa tài chính nhiều khả năng làm cho chính sách tiền
tệ có kết quả tốt hơn.
Tuy nhiên việc tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính làm cho nền kinh tế
của một số quốc gia bị lệ thuộc vào các quốc gia khác, chính điều này có thể mang lại
những tác động tiêu cực đến sự phát triển tài chính của một quốc gia khi chịu tác động
từ các cú sốc từ bên ngoài (khủng hoảng).
2.2

Tổng quan các công trình nghiên cứu
Có nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ tiềm tàng giữa

phát triển tài chính và phát triển kinh tế bao gồm: Beck và cộng sự, 2000; Darrat và


10

cộng sự, 2006; Ductor và Grechyna, 2015; Guariglia và Poncet, 2008; Levine, 1997.
Một số bài nghiên cứu xem xét đến nguồn gốc của sự phát triển tài chính xuất phát từ
quan điểm là từ sự tự do hóa tài chính (McKinnon, 1973), hệ thống pháp luật (La Porta
và cộng sự, 1998), sự sở hữu của chính phủ đối với các ngân hàng (Andrianova và
cộng sự, 2008), ổn định chính trị (Girma và Shortland, 2008).
Một nguồn khác của sự phát triển tài chính, được nêu lên ở một số ít bài nghiên

cứu nhưng đang ngày càng tăng lên về số lượng là sự mở cửa. Các tài liệu có liên quan
đã tập trung vào hai biến liên quan đến sự mở cửa bao gồm: giữa độ mở thương mại và
sự phát triển tài chính (Beck, 2002; Braun and Raddatz, 2005; Do and Levchenko,
2004; Mishkin, 2009); giữa độ mở tài chính và sự phát triển tài chính (Chinn và Ito,
2006; Levine, 2001); và giữa độ mở thương mại và độ mở tài chính (Aizenman và
Noy, 2009). Các nghiên cứu này thường tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa sự cởi mở
và sự phát triển tài chính, và giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài chính ở các nền
kinh tế đã và đang phát triển.
2.2.1 Tác động của độ mở thương mại đến phát triển tài chính
Do, Q.-T và Levchenko, A.A (2004), sử dung hồi quy OLS cho dữ liệu được thu
thập từ 20 quốc gia OECD và 55 nước đang phát triển trong giai đoạn 1965-1995 để
nghiên cứu về độ mở thương mại có tác động đến phát triển tài chính của một quốc gia
hay không. Trong bài nghiên cứu tác giả đã đưa ra các biến: phát triển tài chính (được
đo lường bằng tín dụng tư nhân/ GDP); độ mở thương mại (được đo lường bằng tổng
xuất nhập khẩu/GDP) và một số biến kiểm soát khác. Kết quả nghiên cứu đầu tiên cho
thấy rằng mức độ tác động của độ mở thương mại đến phát triển tài chính của mỗi quốc
gia phụ thuộc vào mức thu nhập trung bình của quốc gia đó. Đối với những quốc gia có
mức thu nhập trung bình cao, độ mở thương mại có tương quan dương với phát triển
tài chính, trong khi đối với những quốc gia có mức thu nhập thấp, mối tương quan này
là nghịch chiều.


11

Kim và cộng sự (2009) nghiên cứu tác động của độ mở thương mại đến phát
triển tài chính cho các quốc gia trên thế giới. Trong những bài nghiên cứu trước, các
tác giả đã cho thấy tác động tích cực của tự do thương mại đến phát triển tài chính. Tuy
nhiên, tác giả cho rằng mở cửa thương mại có thể làm gia tăng áp lực cạnh tranh, gia
tăng rủi ro từ đó dẫn đến những cuộc khủng hoảng thường xuyên, tức là tác động trong
ngắn hạn của độ mở thương mại đối với nền kinh tế. Chính vì thế, tác giả muốn tập

trung nghiên cứu tác động trong ngắn và dài hạn của độ mở thương mại đến phát triển
tài chính. Trong bài nghiên cứu, để đo lường phát triển tài chính tác giả sử dụng 3 biến:
tín dụng tư nhân, cung tiền M3, tài sản ngân hàng; độ mở thương mại đo lường bằng
logarit của tổng xuất nhập khẩu/GDP. Bên cạnh đó để kết quả nghiên cứu không bị
chệch, tác giả đưa thêm các biến kiểm soát khác vào mô hình nghiên cứu, gồm: GDP
trên đầu người, chi tiêu chính phủ/GDP, tỉ lệ lạm phát. Bằng cách sử dụng phương
pháp PMG (Pooled Mean Group) trên dữ liệu bảng cho 88 quốc gia từ 1960-2005
(được phân thành ba nhóm: nhóm nước thu nhập cao, nhóm nước thu nhập trung bình
và nhóm nước thu nhập thấp). Kết quả nghiên cứu cho thấy: tác động của độ mở
thương mại đến phát triển tài chính phụ thuộc vào mức thu nhập của các quốc gia. Đối
với những nước có thu nhập thấp, độ mở thương mại tác động cùng chiều đến phát
triển tài chính trong dài hạn, tác động nghịch chiều trong ngắn hạn. Đối với những
nước có thu nhập cao, độ mở thương mại tác động cùng chiều đến phát triển tài chính
trong dài hạn, không có tác động trong ngắn hạn.
2.2.2 Tác động của độ mở tài chính đến phát triển tài chính
Chinn và Ito (2006), nghiên cứu điều tra mối quan hệ giữa độ mở tài chính và
phát triển tài chính dựa trên dữ liệu bảng (panels data) của 108 quốc gia trong giai đoạn
1980-2000. Nghiên cứu cũng kiểm tra mối quan hệ giữa giữa tự do hóa hàng hóa và thị
trường tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ mở tài chính càng tăng thì thị trường
vốn chủ sở hữu càng phát triển.


12

Asongu (2010) nghiên cứu lý thuyết về mối liên kết giữa độ mở và phát triển tài
chính tại 29 nước đang phát triển ở Châu Phi trong vòng 21 năm từ 1987-2008. Kết quả
cho thấy: độ mở tài chính ít có hiệu quả đến phát triển tài chính ở các nước có thu nhập
thấp. Kết quả đối với các nước có thu nhập trung bình là không đáng kể.
2.2.3 Tác động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển tài chính
Rajan và Zingales (2003), cho rằng kiểm tra các mối quan hệ giữa các cặp trên

có thể sẽ là không đầy đủ và thậm chí có thể gây hiểu nhầm. Rajan và Zingales đề nghị
rằng thiết lập một mối quan hệ ba biến giữa độ mở thương mại, độ mở tài chính và phát
triển tài chính là cần thiết. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu ở 24 quốc gia công nghiệp
phát triển trong giai đoạn 1913-1999 với phương pháp hồi quy đa biến. Trong bài
nghiên cứu tác giả chỉ ra bốn yếu tố xác định sự phát triển tài chính: phát triển ngân
hàng (đo lường băng tỉ số tiền gửi ngân hàng trên GDP); phát triển thị trường vốn (đo
lường bằng tỷ số chứng khoán phát hành của những công ty nội địa được niêm yết trên
tổng vốn đầu tư cố định nội địa); chỉ số vốn hóa thị trường trên GDP; và số công ty nội
địa niêm yết/100 dân. Nghiên cứu này đã đưa ra lý thuyết nhóm lợi ích để tóm tắt kết
quả nghiên cứu của họ. Họ cho rằng lợi ích nhóm, trong ngành công nghiệp đặc thù và
ngành tài chính, thường xuyên không còn do sự phát triển tài chính. Lý do được đưa ra
là do sự phát triển tài chính sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các công ty mới được thành lập,
từ đó sẽ tăng cường sự cạnh tranh. Kết quả bài nghiên cứu cho thấy, khi quốc gia mở
cửa dòng vốn mạnh, phát triển tài chính tương quan dương mạnh với tự do hóa thương
mại; nhưng nếu mức độ mở cửa dòng vốn giảm thì độ tương quan giữa phát triển tài
chính và tự do hóa thương mại cũng giảm theo.
Dựa trên bài nghiên cứu của Rajan và Zingales (2003), Law (2009) đã nghiên
cứu tác động của động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển tài chính
bằng cách sử dụng dữ liệu bảng cho 43 nước đang phát triển trong 21 năm từ 19802001, áp dụng phương pháp GMM và PMG để đưa ra kết quả ước lượng. Độ mở


13

thương mại được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu /GDP. Độ mở tài chính được đo
lường bằng dòng vốn tư nhân và chỉ số tự do hóa tài chính được xây dựng bởi hai nhà
nghiên cứu Chinn và Ito (2002). Sự phát triển tài chính được đo lường bằng hai yếu tố :
phát triển khu vực ngân hàng (đo lường bằng cung tiền M3/GDP, tín dụng dành cho tư
nhân/GDP, và tín dụng nội địa của khu vực ngân hàng/GDP), và phát triển thị trường
vốn (đo lường bằng số lượng các công ty nội địa được niêm yết trên sàn chứng khoán).
Kết quả thực nghiệm ở các nước đang phát triển ( Law, 2009), chỉ ra rằng việc mở cửa

đồng thời thương mại và tài khoản vốn có tác động tích cực đến sự phát triển tài chính
(bổ sung cho lý thuyết của Rajan và Zingales, 2003). Trong bài nghiên cứu cũng khẳng
định tác động của độ mở thương mại đối với phát triển tài chính đối với mỗi quốc gia
phụ thuộc vào thu nhập trung bình của quốc gia đó. Law nhấn mạnh rằng phát hiện của
ông nên được hiểu một cách thận trọng vì mẫu của ông là các nước đang phát triển, nơi
mà các lĩnh vực tài chính là chủ yếu được điều khiển bởi hệ thống ngân hàng.
Baltagi và cộng sự (2009), sử dụng phương pháp GMM trên dữ liệu bảng để
nghiên cứu về mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính cho cả nước
đang phát triển và nước công nghiệp. Độ mở thương mại được đo lường bằng tổng xuất
nhập khẩu/GDP. Độ mở tài chính được đo lường bằng: chỉ số tự do hóa tài chính (thu
thập cho 42 nước đang phát triển từ 1980-2003) được tính bằng tổng tài sản và nợ nước
ngoài của quốc gia/GDP và chỉ số tự do hóa dòng vốn được đo lường từ bốn biến giả
về giới hạn giao dịch vốn được trình bày trong báo cáo của IMF. Nhân tố phát triển tài
chính được đo lường bằng tín dụng tư nhân và chỉ số vốn hóa chứng khoán thị trường.
Họ đã làm nổi bật hiệu ứng tương tác đồng thời giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài
chính lên sự phát triển tài chính. Sự tương tác giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài
chính có thể được dùng để đánh giá tác động biên của của sự gia tăng mở cửa thương
mại và tài chính lên sự phát triển tài chính. Bởi vì lý thuyết này chỉ ra rằng một quốc
gia sẽ mở cửa thương mại khi tài khoản vốn của nó bị đóng lại, lúc đó sẽ có các chính


14

sách tài chính bổ sung để ngăn chặn các tác động tiêu cực đến nền công nghiệp hiện tại
(ví dụ: lãi suất). Tuy nhiên các chính sách này sẽ ngăn chặn sự phát triển tài chính. Do
đó tác động biên của mở cửa thương mại sẽ là tiêu cực hay bằng không đối với sự phát
triển tài chính khi tài khoản vốn bị đóng cửa. Kết quả này chỉ ra rằng cả mở cửa thương
mại và mở cửa tài chính đều có ý nghĩa thống kê quan trọng trong việc xác định sự
phát triển tài chính. Mở cửa thương mại trong khi không mở cửa tài chính và ngược lại
vẫn có thể tạo ra sự phát triển tài chính.

Sự khác biệt về kết quả nghiên cứu, sử dụng dữ liệu từ các quốc gia khác nhau,
ngụ ý rằng các mô hình tương tác giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài chính và phát
triển tài chính có thể khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Vì bối cảnh về lịch sử, kinh
nghiệm, văn hóa, thị trường tài chính là khác nhau giữa các quốc gia. Các nghiên cứu
thực nghiệm sử dụng dữ liệu từ các nước phát triển và đang phát triển dường như chỉ
cung cấp được một phần hỗ trợ cho các lý thuyết cơ bản.
Thomas và cộng sự (2008), nghiên cứu về mối liên kết giữa phát triển tài chính,
độ mở thương mại, độ mở tài chính và tăng trưởng bằng cách sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian của 16 nước ở khu vực Tiểu Sahara châu Phi. Để thực hiện nghiên cứu tác giả
đã sử dụng các biến: tăng trưởng (được đo lường bằng GDP thực trên đầu người), độ
mở thương mại (được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu/GDP), phát triển tài chính
(có thể được đo lường bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau như: M2/GDP, tín dụng nội địa
cho khu vực tư nhân/GDP…). Kết quả ước lượng cuối cùng được đưa ra sau khi tác giả
thực hiện lần lượt các kiểm định. Thứ nhất, tác giả thực hiện phân tích khám phá nhân
tố để tìm ra những nhân tố đo lường sự phát triển tài chính. Thứ hai, tác giả thực hiện
kiểm định nghiệm đơn vị và kiểm định đồng liên kết để xem xét tính dừng và mối đồng
liên kết trong chuỗi dữ liệu. Dựa theo đó, tác giả sẽ thực hiện các kiểm định mối quan
hệ nhân quả giữa các biến trong mô hình. Cuối cùng, tác giả thực hiện kiểm định nhân
quả Granger, Var và VECM. Bài nghiên cứu đã đưa ra các kết quả: thứ nhất, không có


15

mối quan hệ trong dài hạn giữa các nhân tố phát triển tài chính, độ mở và tăng trưởng
kinh tế. Thứ hai, ít có bằng chứng cho thấy có mối quan hệ nhân quả giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, tồn tại một mối liên hệ giữa độ mở thương mại
và độ mở tài chính.
Hạnh (2009) điều tra các mối liên kết hai chiều giữa phát triển tài chính với độ
mở tài chính và độ mở thương mại của hai mươi chín nước đang phát triển tại châu Á
trong 14 năm từ 1994–2008. Trong bài nghiên cứu có các biến chính: phát triển tài

chính (được đo lường bằng cung tiền M3/GDP và tín dụng cho khu vực tư nhân/GDP ;
độ mở tài chính (được đo lường bằng FDI/GDP (FDI) và dòng vốn tư nhân/ GDP ); độ
mở thương mại (được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu của quốc gia/GDP). Ngoài
ra, còn có các biến kiểm soát khác: biến đo lường độ rủi ro quốc gia; tốc độ tăng trưởng
GDP; tỷ giá hối đoái thực; biến giả để đo lường khủng hoảng tài chính. Mối quan hệ
giữa phát triển tài chính và độ mở được tác giả kiểm định qua ba bước. Đầu tiên, tác
giả kiểm định tính dừng và số đồng liên kết của dữ liệu. Tiếp theo, tác giả sử dụng
phương pháp phân tích đồng liên kết của Pedroni (1999) để kiểm định mối quan hệ dài
hạn giữa các biến. Cuối cùng, tác giả sử dụng phương pháp Difference GMM được xây
dựng bởi Arellano và Bond (1991) để đưa ra kết quả ước lượng. Bài nghiên đã đạt
được những kết quả quan trọng sau: Thứ nhất, bài nghiên cứu cho thấy một mối quan
hệ nhân quả giữa phát triển tài chính với độ mở tài chính và độ mở thương mại. Sự mở
cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ ở các nước đang phát triển là điều kiện tiên quyết
cho sự phát triển. Và ngược lại, phát triển tài chính và độ mở tài chính tạo điều kiện
cho các nước đang phát triển đạt được lợi ích lớn hơn trong việc mở cửa thương mại.
Thứ hai, bài nghiên cứu cho rằng mối quan hệ giữa các chỉ số đo lường phát triển tài
chính và độ mở tài chính là không đồng nhất. Tồn tại một mối tương quan dương giữa
độ mở tài chính và tín dụng dành cho khu vực tư nhân. Trong khi đó, không có bằng
chứng cho thấy mối quan hệ giữa độ mở tài chính với cung tiền M3.


16

Chengsi Zhang , Yueteng Zhu , Zhe Lu (2015) nghiên cứu thực nghiệm các tác
động năng động của độ mở thương mại và độ mở tài chính đối với sự phát triển tài
chính ở Trung Quốc. Ngoài việc sử dụng dữ liệu bảng của 30 tỉnh của Trung Quốc
trong giai đoạn 2000-2009, sử dụng phương pháp hồi quy GMM để nghiên cứu xem
xét các khía cạnh khác nhau của sự phát triển tài chính, cụ thể là quy mô, hiệu quả và
cạnh tranh, và kiểm tra cả tác động biên trực tiếp của độ mở về các chỉ số khác nhau
của phát triển tài chính. Nghiên cứu có thể được coi như là một mô hình minh họa của

liên kết giữa độ mở và phát triển tài chính trong một quốc gia. Kết quả nghiên cứu này
đóng góp quan trọng sự phát triển nghiên cứu về lĩnh vực tài chính. Kết quả nghiên cứu
điều tra thực nghiệm có một số phát hiện thú vị đáng chú ý. Đầu tiên, độ mở tài chính
có tác động tiêu cực đối với quy mô, nhưng lại tác động tích cực đối với hiệu quả và
cạnh tranh của phát triển tài chính ở Trung Quốc. Thứ hai, các tác động biên của độ mở
về hiệu quả tài chính và cạnh tranh là tích cực trong tỉnh có độ mở nhất, trong khi các
tác động biên của độ mở đối với quy mô của phát triển tài chính nói chung là tiêu cực.
Thứ ba, tác động biên của độ mở đối với phát triển tài chính khác nhau giữa các tỉnh
khác nhau ở Trung Quốc, và các vấn đề nhóm lợi ích đặc biệt nghiêm trọng ở các tỉnh
có mức độ thấp của độ mở thương mại và độ mở tài chính.
Tóm tắt chương 2
Chương này đã trình bày một cách có hệ thống các cơ sở lý thuyết của đề tài bao
gồm các khái niệm cơ bản về độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài
chính. Chương này cũng tóm lược một số kết quả nghiên cứu trước đây về mối quan hệ
giữa độ mở tài chính, độ mở thương mại và sự phát triển tài chính là nền tảng để xây
dựng mô hình nghiên cứu ở chương sau.


17

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 2 đã trình bày các lý thuyết về độ mở thương mại, độ mở tài chính và
phát triển tài chính; các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế liên quan đến đề
tài. Chương 3 sẽ tập trung vào phương pháp và mô hình nghiên cứu để giải quyết các
câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu đã được đặt ra ở phần giới thiệu. Phương pháp sử dụng
để nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng mô hình VECM để
nghiên cứu, sử dụng các kiểm định đơn vị, quan hệ nhân quả Granger Causibility, kiểm
định đồng liên kết, phân tích hàm phản ứng xung IRF. Sau khi phân tích mô hình
VECM tác giả tiến hành thảo luận kết quả nghiên cứu .
3.1


Thiết kế nghiên cứu

3.1.1 Dữ liệu nghiên cứu
Thời kỳ lấy mẫu kéo dài qua các năm từ năm 1990 đến năm 2017 (28 năm) như
vậy tương ứng với 28 mẫu nghiên cứu. Nguồn dữ liệu GDP (Y), dân số, kim ngạch
xuất nhập khẩu, các chỉ tiêu tài chính của nền kinh tề như cho vay, tiền gửi, sản lượng
ngành công nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân được lấy từ trang web của Tổng cục
Thống kê Việt Nam () qua các năm.
3.1.2 Mô hình nghiên cứu và các giả thiết
Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ mở thương mại, độ mở tài chính và sự phát
triển tài chính tại Việt Nam, tác giả vận dụng cơ sở lý thuyết về các lý thuyết độ mở
thương mại, độ mở tài chính, sự phát triển tài chính. Nghiên cứu dựa trên các nghiên
cứu thực nghiệm phát triển từ mô hình của các tác giả Chengsi Zhang , Yueteng Zhu ,
Zhe Lu (2015), Thomas và cộng sự, (2008); bên cạnh đó tham khảo các công trình
nghiên cứu nên tảng như Levine (2001); Beck (2002); Rajan và Zingales (2003), Braun
và Raddatz (2005); Chinn và Ito (2006) ; Aizenman và Noy (2009), Mishkin (2009),
Baltagi et al. (2009), Law (2009). Nghiên cứu này thực hiện các kiểm định tính dừng


×