Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Khóa Luận THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH NĂM 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.48 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu...............................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu...............................................................5
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài........................................................5
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài.................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................5
6. Kết cấu của đề tài.....................................................................................6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN
XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN.....................7
1.1. Khái quát chung về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của tòa án
nhân dân.........................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm.......................................................................................7
1.1.2. Nội dung thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân…….......................................................................................................9
1.1.3. Vai trò thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của tòa án nhân
dân…….....................................................................................................13
1.2. Cơ sở xác định thẩm quyền xét xử hành chính cho Tòa án nhân
dân……........................................................................................................14
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của
Tòa án nhân dân........................................................................................15
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính
của Tòa án nhân dân..................................................................................17
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc quy định thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân..................................................................19


1.3.1. Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân....................................................20


1.3.2. Ảnh hưởng từ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến
thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân......................21
1.3.3. Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội đến quy định thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân...............................21
1.3.4. Năng lực nhận thức của các chủ thể trong xây dựng và hoàn thiện
quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân....................................................................................................22
1.3.5. Ảnh hưởng từ thực trạng giải quyết các vụ án hành chính của Tòa
án nhân dân...............................................................................................23
Tiểu kết chương 1.........................................................................................24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH NĂM 2015.........................................................................................25
2.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa
án nhân dân..................................................................................................25
2.1.1. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo
loại việc bị khiếu kiện...............................................................................25
2.1.1.1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính.........25
2.1.1.2. Danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.......................................................28
2.1.1.3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống..........................................29
2.1.1.4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh..................................................................................30
2.1.2. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo
cấp Tòa án và địa giới hành chính.............................................................32


2.1.2.1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án cấp huyện).......................32

2.1.2.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là Tòa án cấp tỉnh)................................33
2.1.2.3. Phân định thẩm quyền giữa khiếu nại và khởi kiện trong quá
trình giải quyết vụ án hành chính...........................................................35
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân..................................................................37
2.2.1. Ưu điểm........................................................................................39
2.2.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân........................................42
Tiểu kết chương 2.........................................................................................45
3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước nhằm thực thi có hiệu quả quy định
pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân.....47
3.1. Giải pháp cụ thể..................................................................................50
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật...........................................50
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện...........................................54
3.2.2.1. Tăng cường vai trò, năng lực của Tòa án nhân dân trong tổ
chức thực hiện pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của
Tòa án theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015...................................56
3.2.2.2. Tăng cường năng lực và tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán
thực hiện chức năng xét xử vụ án hành chính được hiệu quả................58
3.2.2.3. Tăng cường hoạt động giám sát và tuyên truyền việc tổ chức
thực hiện pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân 62
Tiểu kết chương 3.........................................................................................63
KẾT LUẬN.....................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử vụ án hành chính luôn là vấn đề được đặt trong sự quan tâm

lớn của xã hội, Đảng và Nhà nước ta. Không giống như các vụ án hình sự hay
dân sự, vụ án hành chính có tính chất đặc biệt khi đối tượng bị khởi kiện là cơ
quan hành chính nhà nước hay người có thẩm quyền ra các quyết định trong
cơ quan hành chính nhà nước. Với tính chất đặc thù như vậy, mỗi vụ án ngoài
quyền và lợi ích của nhân dân, còn là niềm tin của nhân dân đối với bộ máy
nhà nước, Đảng và chính quyền. Chính vì vậy, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính được Quốc Hội thông qua vào ngày 21/5/1996 tại kì họp
khóa XI có hiệu lực từ ngày 01/7/1996, Tòa Hành chính thuộc hệ thống Tòa
án nhân dân bắt đầu hoạt động, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ngày 05/04/2006 Pháp lệnh về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành. Theo đó, Tòa án nhân dân và các phân Tòa hành chính được thiết lập
trong Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh có thẩm quyền xét xử
vụ án hành chính, nhằm bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần bảo đảm pháp chế, nâng cao hiệu quả
quản lý hành chính nhà nước. Thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng
về cải cách tư pháp theo Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật tố tụng
hành chính (Luật TTHC năm 2010). Đây là thành quả về mặt lập pháp cũng
như để đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội về cần một luật thống nhất và
hoàn chỉnh để giải quyết các vụ án hành chính đang ngày càng gia tăng về số
lượng cũng như tính chất ngày càng phức tạp do sự thay đổi về tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội kể từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên của nhiều
điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hiến pháp năm 2013 ra đời, phân định rõ ba quyền hành pháp, lập
pháp và tư pháp, trong đó Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Căn cứ
theo quyền này, Hiến pháp năm 2013 quy định nhiều nội dung quan trọng về



nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Đây là cơ sở để Luật tổ
chức Toà án nhân dân năm 2014 đã có nhiều quy định mới, thay đổi căn bản,
quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc hoạt động của
Tòa án nhân dân; về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của từng cấp Tòa án; về
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Trên những cơ sở
đó, Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời để tiếp tục thể chế hóa chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp theo Hiến pháp
năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đáp ứng yêu cầu thực tiễn
phát triển đất nước và hội nhập quốc tế; kế thừa các quy định còn phù hợp,
khắc phục vướng mắc, bất cập nảy sinh từ thực tiễn triển khai thi hành Luật
TTHC năm 2010, nhất là tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong công tác giải
quyết, xét xử các khiếu kiện hành chính, đặc biệt là trong vấn đề về thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính. Thực tiễn cho thấy trong khoảng thời gian
thực hiện Luật TTHC năm 2010, các bản án, quyết định về việc giải quyết vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân cấp huyện bị hủy, sửa chiếm tỷ lệ cao,
trong đó phần lớn là việc giải quyết các khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân
dân cấp huyện trong lĩnh vực quản lý đất đai, đây là loại khiếu kiện phức tạp,
đòi hỏi phải có Thẩm phán chuyên trách chuyên sâu thì việc giải quyết mới
hiệu quả, trong khi đó thì ở các Toà án nhân dân cấp huyện không có Toà
hành chính chuyên trách như ở Toà án nhân dân cấp tỉnh nên chưa có Thẩm
phán chuyên trách giải quyết các vụ án hành chính. Cũng như sự thay đổi của
các quy định chung trong Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân đòi hỏi
phải sửa đổi cho phù hợp. Từ những lý do trên, tác giả chọn “Thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hành
chính năm 2015” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua có không ít các đề tài, công trình nghiên cứu khai
thác về tổ chức và hoạt động xét xử vụ án hành chính, góp phần làm sáng tỏ

nhiều luận cứ khoa học cho việc thiết lập, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
của công tác xét xử vụ án hành chính. Cụ thể như sau:
* Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ:


- Luận án Tiến sỹ luật học của Nguyễn Thanh Bình - “Thẩm quyền của
Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính” - PGS. TS.
Bùi Xuân Đức và TS. Lê Hữu Thể hướng dẫn bảo vệ năm 2003.
- Luận văn Thạc sỹ luật học Lưu Hữu Phước - “Hoàn thiện quy định
pháp luật về đối tượng quy định xét xử vụ án hành chính của tòa án” - TS.
Trần Minh Hương hướng dẫn bảo vệ năm 2006.
- Luận án Tiến sỹ luật học Nguyễn Mạnh Hùng – “Phân định thẩm
quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở
Việt Nam” - GS. TS. Phạm Hồng Thái hướng dẫn bảo vệ năm 2013.
* Đề tài khoa học:
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc thiết
lập tài phán hành chính ở Việt Nam” do Thanh tra Nhà nước triển khai nghiên
cứu, được nghiệm thu vào tháng 5 năm 1993.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Quyết định hành chính, hành vi hành chính –
Đối tượng xét xử của Tòa án” do TS. Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài,
bảo vệ năm 2000.
* Sách chuyên khảo:
- “Quyết định hành chính, hành vi hành chính – Đối tượng xét xử của
Tòa án” do TS. Phạm Hồng Thái chủ biên, NXB Đồng Nai năm 2001.
- “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Thanh và Đinh Văn Minh, NXB Tư pháp
năm 2004.
- “Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm
quyền xét xử hành chính ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Mạnh Hùng, NXB
Chính trị quốc gia và sự thật năm 2015.

* Các bài đăng trên tạp chí
- “Hoàn thiện các quy định về khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi
việc thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân” của Lê Việt
Sơn, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 10/2013.


- “Quyết định hành chính quy phạm của cơ quan hành chính nhà nước
một số khía cạnh lý luận và thực tiễn pháp luật” của GS. TS. Phạm Hồng
Thái, tạp chí Luật học số 1/2014.
- “Một số ý kiến về thẩm quyền của Tòa án trong xét xử vụ án hành
chính” của NCS. Thân Quốc Hùng, tạp chí Nghề luật của Học viện Tư pháp,
số 6, năm 2015.
- “Thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo luật Tố tụng hành chính năm
2015” của TS. Nguyễn Văn Thuân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 5 (290) –
2016.
Các công trình, tác phẩm nghiên cứu kể trên đã đề cập tới nhiều khía
cạnh khác nhau về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân,
mặc dù vậy, do đối tượng, phạm vi nghiên cứu quá rộng hoặc quá hẹp mà
chưa đề cập một cách tập trung, toàn diện về thẩm quyền xét xử vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hành chính năm 2015. Hơn nữa,
thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân là một vấn đề phức
tạp, thể hiện nội dung xét xử vụ án hành chính, có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả công tác xét xử vụ án hành chính nói riêng và công tác giải quyết
khiếu kiện hành chính nói chung. Việc nghiên cứu thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân phải được xác định trên cở sở lý luận và thực
tiễn đầy đủ về xét xử vụ án hành chính, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội,
thực trạng của nền hành chính và quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác
giải quyết khiếu kiện hành chính trong từng giai đoạn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xác định một cách có hệ thống,

toàn diện về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân, phân
tích, đối chiếu với các quy định trong Luật tố tụng hành chính và Pháp lệnh
trước đây. Từ đó tìm ra những điểm tích cực và hạn chế trong các quy định
của pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân,
đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân, góp phần nâng cao chất


lượng và hiệu quả công tác giải quyết khiếu kiện hành chính trong thời kỳ hội
nhập.
Xuất phát từ mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài là:
- Nghiên cứu để hiểu rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính của tòa án nhân dân.
- Nghiên cứu để hiểu được những quy định của pháp luật về thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hành
chính năm 2015.
- Tìm ra và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật cho vấn đề thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của tòa án nhân dân.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân.
.2.

Phạm vi nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về khái niệm,

nội dung, các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân trong pháp luật Việt Nam và đặc biệt là trong pháp luật tố
tụng hành chính hiện hành, những điểm mới của Luật tố tụng hành chính năm
2015 so với Luật tố tụng hành chính năm 2010 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết
vụ án hành chính năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 1998, năm 2006. Từ đó,
đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là cơ sở lý luận của học thuyết
Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở phương pháp luận trên, đề tài này sử
dụng các phương pháp nhận thức khoa học cụ thể như: phương pháp phân
tích đánh giá, phương pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp so sánh.



6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm có 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của tòa án nhân dân
- Chương 2: Thực trạng về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của tòa
án nhân dân theo Luật tố tụng hành chính năm 2015
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả những
quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của tòa án nhân
dân


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM
QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1.
Khái quát chung về thẩm quyền xét xử vụ án hành
chính của tòa án nhân dân
Cùng với xu hướng dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội hiện nay
và đặc biệt là trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thì vấn đề thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân đang
ngày càng được Nhà nước chú trọng hơn. Muốn đáp ứng yêu cầu hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát đối với quản lý hành chính Nhà nước thì việc thiết
lập được cơ chế xét xử vụ án hành chính phù hợp không chỉ giúp hoàn thiện
cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính mà còn bảo vệ một cách hữu hiệu các
quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khỏi sự xâm hại
một cách trái pháp luật từ quyền hành pháp. Từ đó đặt ra yêu cầu tìm hiểu
khái niệm “vụ án hành chính”, thuật ngữ “thẩm quyền” và khái niệm “thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính”. Việc tìm hiểu về các khái niệm này sẽ giúp
xác minh vấn đề một cách đúng đắn trước khi đi vào phân tích, tìm hiểu
những quy định pháp luật về vấn đề này.
1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm vụ án hành chính
Định nghĩa cụ thể về “vụ án hành chính” không được Luật TTHC năm
2015 đưa ra rõ ràng mà luật chỉ liệt kê ra các đối tượng mà cơ quan, tổ chức,
cá nhân (người khởi kiện) có thể khởi kiện tại Tòa hành chính. Các đối tượng
này bao gồm quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri (gọi chung là quyết định hành chính,
hành vi hành chính).
Có thể thấy, cùng với quyền khiếu nại, tố cáo thì quyền khởi kiện vụ án
hành chính là một phương tiện quan trọng để cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ
chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khỏi những hành vi vi phạm
pháp luật. Mặc dù, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức có quyền khởi kiện
VAHC nhưng việc khởi kiện phải tuân theo các quy định của pháp luật, và do



vậy VAHC chỉ phát sinh khi Tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện của
cá nhân, cơ quan Nhà nước hay tổ chức. Nghĩa là VAHC được phát sinh tại
Tòa hành chính có thẩm quyền do có cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức
khởi kiện ra trước Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tóm lại, có thể hiểu VAHC là vụ việc được Tòa án thụ lý giải quyết khi
cá nhân, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của QĐHC,
HVHC. Nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đặc điểm của VAHC
để phân biệt với các vụ án khác (vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án kinh tế,
…) đó là: Người bị kiện trong VAHC luôn là cơ quan Nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước, chủ yếu là cơ quan hành chính Nhà
nước còn người khởi kiện luôn là cá nhân, tổ chức bị tác động bởi QĐHC,
HVHC đó.
* Khái niệm thẩm quyền
Được sử dụng một cách rất phổ biến, nhưng thuật ngữ “thẩm quyền”
đến nay vẫn chưa được hiểu một cách nhất quán do có nhiều cách tiếp cận từ
những khía cạnh khác nhau. Bên cạnh nhiều tác giả đã đề cập và đưa ra khái
niệm về thẩm quyền thì có không ít người chỉ coi đây là một thuật ngữ chung
chung, trừu tượng mà chỉ xác định được nghĩa của nó khi gắn thẩm quyền với
ngữ cảnh cụ thể và vì vậy việc sử dụng thuật ngữ này trở nên tùy tiện, theo
thói quen.
Có thể tìm thấy khái niệm của “thẩm quyền” trong các từ điển thông
dụng như:
Theo từ điển tiếng Việt: Thẩm quyền “là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [45]
Theo từ điển Hán – Việt: Thẩm quyền là “được quyền xem xét, định
đoạt một việc gì đó” [46]
Như vậy, ở góc độ ngữ nghĩa có thể hiểu thẩm quyền là khả năng của
chủ thể trong việc xem xét, kết luận và giải quyết, định đoạt một công việc

nào đó đã định trước. Trong thực tiễn, để giải quyết công việc trong bất cứ
lĩnh vực nào đều đòi hỏi người giải quyết phải có kiến thức nhất định. Ví dụ,
để chuẩn đoán bệnh cho bệnh nhân thì người có thẩm quyền phải là bác sỹ, để


kiểm tra sửa chữa máy móc kỹ thuật thì người có thẩm quyền phải là kỹ sư,
chuyên gia kỹ thuật…
* Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
Trong quản lý xã hội và quản lý nhà nước, thẩm quyền chính là phương
tiện để các chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nước thực hiện và duy trì
nhiệm vụ, công vụ của mình. Đối với Tòa án, thẩm quyền chính là khả năng
nhà nước quy định cho cơ quan này trong việc xem xét và phán quyết về tranh
chấp pháp lý. Khi được nhà nước trao quyền, Tòa án sau khi thụ lý vụ án, sẽ
xem xét và ra phán quyết có tính bắt buộc phải thi hành đối với các đối tượng
có liên quan.
Trong lĩnh vực xét xử vụ án hành chính, thẩm quyền là một nội dung
quan trọng trong tổ chức và hoạt động tài phán hành chính, liên quan đến
quản lý hành chính nhà nước, đến tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền này thuộc về Tòa án nhân dân. Vì
thế, việc xét xử của Tòa án là trọng tâm của sự đảm bảo xây dựng Nhà nước
pháp quyền mà trong đó các chủ thể trong xã hội tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật.
Trên cơ sở các khái niệm về vụ án hành chính và thẩm quyền nói chung
ở trên, có thể định nghĩa về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án
như sau: Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân là khả
năng của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính, thực hiện
việc xem xét, đánh giá và ra phán quyết về yêu cầu khởi kiện đối với các
quyết định hành chính, hành vi hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước [8]
1.1.2. Nội dung thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân
Nội dung thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án tương đối
rộng, được xác định trên cở sở thẩm quyền theo loại việc; thẩm quyền theo
cấp Tòa án và theo lãnh thổ. Những nội dung đó được thể hiện như sau:


Thứ nhất, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các VAHC theo loại việc,
tức là giải quyết các tranh chấp hành chính khi có yêu cầu khởi kiện về quyết
định hành chính, hành vi hành chính.
Việc xác lập thẩm quyền xét xử hành chính cho Toà án là cơ sở để cá
nhân, tổ chức, cơ quan (đối tượng quản lý hành chính nhà nước) thực hiện
quyền khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu Toà án có thẩm quyền bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của mình khi họ cho rằng các quyền, lợi ích đó đã bị
xâm hại một cách trái pháp luật từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước. Vì vậy, việc xác lập thẩm quyền xét xử hành chính cho Toà án là để giải
quyết các tranh chấp hành chính.
Trong quản lý hành chính nhà nước, sự xung đột về lợi ích giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân là rất phổ biến. Đó là lý do làm nảy sinh các tranh
chấp. Các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động
hành chính nhà nước rất đa dạng, chúng có thể là tranh chấp giữa các chủ thể
quản lý hành chính nhà nước với nhau như là tranh chấp về thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính; hay là tranh chấp giữa đối tượng quản lý hành chính nhà
nước với nhau, như là tranh chấp về đất đai giữa những cá nhân, tổ chức sử
dụng đất; hoặc là tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với
đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Đối với tranh chấp giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nước với
nhau thì việc giải quyết chúng sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành
chính nhà nước, vì đó là công việc nội bộ của hệ thống quản lý hành chính
nhà nước. Đối với các tranh chấp giữa đối tượng quản lý hành chính nhà nước
với nhau, thì thường được giải quyết tại Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự. Vì

các bên tham gia tranh chấp không có tư cách nhà nước, không mang quyền
lực nhà nước, mối quan hệ giữa họ là quan hệ bình đẳng về ý chí.
Đối với tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với đối
tượng quản lý hành chính nhà nước (có thể hiểu là tranh chấp hành chính theo
nghĩa hẹp), chúng phát sinh từ quan hệ pháp luật hành chính giữa một bên là
chủ thể quản lý hành chính nhà nước mang quyền lực nhà nước và một bên là
đối tượng quản lý hành chính có nghĩa vụ phải phục tùng quyền lực ấy. Vì


vậy, việc giải quyết chúng phải theo những cách thức đặc biệt nhằm bảo đảm
giải quyết các tranh chấp ấy thực sự khách quan, công bằng, dân chủ và đúng
pháp luật, việc xác lập thẩm quyền xét xử hành chính cho Toà án cũng không
ngoài mục đích đó.
Như vậy, thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án chỉ được xác định
đối với các tranh chấp hành chính mà ở đó có sự xung đột về mặt lợi ích chưa
được giải quyết thoả đáng giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý hành
chính nhà nước. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Toà án không có thẩm quyền xét
xử vô điều kiện đối với các tranh chấp hành chính mà chỉ thực hiện thẩm
quyền đó trên cơ sở có yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính của người có
quyền lợi bị xâm hại.
Trong quản lý hành chính nhà nước, việc sử dụng quyền lực nhà nước,
áp đặt ý chí nhà nước của chủ thể quản lý hành chính nhà nước luôn chứa
đựng khả năng làm xuất hiện sự phản kháng có ý thức của đối tượng quản lý
hành chính nhà nước chịu sự áp đặt ý chí nói trên. Sự phản kháng đó thể hiện
thái độ, sự đánh giá đối với hoạt động hành chính nhà nước, đồng thời thể
hiện mong muốn và lợi ích của đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Khi có sự xâm hại quyền, lợi ích do có sự áp đặt ý chí nhà nước của
chủ thể quản lý hành chính nhà nước, sự phản kháng của đối tượng quản lý
chủ yếu được thể hiện thông qua các khiếu kiện hành chính. Nội dung và mức
độ gay gắt của khiếu kiện hành chính chủ yếu phụ thuộc vào nội dung và mức

độ xâm hại các quyền, lợi ích từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước.
Trong quá trình thực hiện thẩm quyền của mình các chủ thể quản lý
hành chính nhà nước sử dụng nhiều hình thức, phương tiện quản lý khác
nhau, song nội dung chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước được thực hiện
thông qua việc ban hành các quyết định hành chính và đơn phương thực hiện
các hành vi hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước. Việc ban hành các
quyết định hành chính, thực hiện các hành vi hành chính là biểu hiện tập trung
nhất thẩm quyền của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước, cũng đồng
thời là phương thức chuyển tải nội dung áp đặt ý chí của chủ thể quản lý hành


chính nhà nước tới các đối tượng quản lý thuộc quyền. Vì vậy, quyết định
hành chính, hành vi hành chính chứa đựng khả năng xâm hại các quyền và lợi
ích hợp pháp của các đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Pháp luật cần quy định những hình thức và điều kiện phản kháng hợp
lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi bị xâm hại đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính. Trong đó có hình thức khởi kiện hành
chính yêu cầu Toà án bảo vệ các quyền lợi bị các quyết định hành chính, hành
vi hành chính xâm hại trái pháp luật.
Tóm lại, thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án được xác định đối
với các tranh chấp hành chính giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với
đối tượng quản lý thuộc quyền trên cơ sở có sự khởi kiện của người có quyền
lợi bị xâm hại trái pháp luật về quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Thứ hai, thẩm quyền xét xử VAHC của TAND được phân định theo
lãnh thổ và cấp Tòa án.
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì hệ thống Tòa án của
Việt Nam được phân chia thành 4 cấp lần lượt là: Tòa án nhân dân cấp huyện,
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối
cao. Một vấn đề đặt ra là khi có rất nhiều vụ án hành chính xảy ra và xét xử

cũng được chia thành các cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm
thì sẽ phân chia các cấp Tòa án để xét xử theo từng cấp xét xử như thế nào.
Nếu để những Tòa án cấp thấp xét xử VAHC ở giai đoạn giám đốc thẩm hay
tái thẩm thì sẽ không thể đảm bảo được về chất lượng xét xử, thậm chí là
không đảm bảo được cả về thời hạn xét xử bởi đội ngũ Thẩm phán của Tòa án
cấp thấp không có đủ năng lực để xét xử VAHC ở những giai đoạn phức tạp
đó. Ngược lại, nếu cho Tòa án cấp cao hơn xét xử VAHC ở những giai đoạn
đầu như sơ thẩm thì hiệu quả xét xử tuy cao hơn nhưng lại không tận dụng
được trình độ, chuyên môn cao của những Thẩm phán Tòa án cấp cao. Như
vậy thì vừa bất tiện cho người khởi kiện lại vừa gây ra những chồng chéo
trong pháp luật. Hơn nữa, việc quy định thẩm quyền xét xử VAHC của TAND
đồng thời cũng phải đảm bảo được sự thuận tiện về nơi khởi kiện cho người
khởi kiện. Giải quyết được những vấn đề nêu trên chính là nội dung của thẩm


quyền xét xử VAHC theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ. Việc thực hiện thẩm
quyền xét xử VAHC theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ không chỉ đảm bảo giải
quyết vụ án hành chính một cách thực sự có hiệu quả, dân chủ, kịp thời,
khách quan mà còn tạo điều kiện thuận lợi để người khởi kiện có thể thực
hiện quyền khởi kiện của mình ở nơi thuận tiện, tránh việc đi lại xa xôi, tốn
kém cả về thời gian lẫn tiền bạc.
Từ những phân tích trên có thể nhận thấy nội dung thẩm quyền xét xử
VAHC của Tòa án rất phong phú, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của nước
ta.
1.1.3. Vai trò thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của tòa án nhân
dân
Trong lĩnh vực xét xử VAHC, thẩm quyền là vấn đề quan trọng, chi
phối tất cả các nội dung khác của xét xử VAHC. Trên cơ sở các quy định của
pháp luật nước ta thì thẩm quyền xét xử VAHC chỉ thuộc về TAND. Việc giao
cho TAND có thẩm quyền xét xử VAHC có một số vai trò quan trọng sau:

Thứ nhất, kiểm soát lạm quyền hành chính, góp phần hoàn thiện pháp
luật về quản lý hành chính: Tòa hành chính xét xử để củng cố hiệu quả của bộ
máy nhà nước, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước. Có thể nói, xét xử VAHC bằng Tòa hành chính sẽ góp phần hoàn thiện
hoạt động của bộ máy hành chính, buộc các cơ quan hành chính phải tuân thủ
pháp luật trong quản lý hành chính, không được lạm quyền và tùy tiện. Đối
với cán bộ công chức, Tòa hành chính sẽ là liều thuốc tác động vào tinh thần
trách nhiệm của họ, hạn chế việc công chức cửa quyền và tùy tiện hành xử
trong pháp luật hành chính.
Thứ hai, việc xét xử các VAHC của TAND nhằm bảo vệ quyền công
dân, phát huy tính dân chủ. Một trong những hoạt động thực thi quyền hành
pháp là việc cơ quan hành chính nhà nước tổ chức cho công dân thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Quá trình đó không tránh khỏi hiện tượng vi
phạm pháp luật ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Việc xét xử của Tòa hành chính sẽ hạn chế những sai lầm mà các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra: “Cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi


hành luật, vừa cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng
những ý chí sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử thì họ có thể phá
nát mỗi công dân bằng ý chí của họ”.
Thứ ba, góp phần giáo dục ý thức pháp luật của công dân. Bằng hoạt
động xét xử VAHC của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật, có ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm và các
vi phạm pháp luật khác. Hoạt động xét xử của Tòa hành chính là việc Tòa án
nhân danh Nhà nước ra bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về các vi
phạm pháp luật hay các tranh chấp pháp lý, xử lý các vi phạm pháp luật bằng
chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước nhằm
giữ vững kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, các tổ chức và công dân. Thông qua hoạt động xét xử

VAHC của Tòa án, các quy định pháp luật về TTHC đến với cộng đồng dân
cư một cách cụ thể, dễ hiểu; qua đó nhận thức, hiểu biết về pháp luật của
người dân được nâng lên, tạo sự chuyển biến cơ bản về ý thức tôn trọng và
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân.
Thứ tư, đảm bảo sự khách quan và công bằng cho các bên trong tranh
chấp hành chính. Quá trình xét xử VAHC của Tòa án luôn dựa trên tinh thần
của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng. Với phương thức này, các bên trong tranh
chấp hành chính đều được bình đẳng, chủ động đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp
lý, lập luận và đối đáp với nhau để làm rõ sự thật khách quan của VAHC. Việc
trao quyền xét xử cho Tòa án chính là để Tòa án sẽ đảm bảo cho sự bình đẳng
và khách quan này của các bên trong tranh chấp hành chính.
1.2. Cơ sở xác định thẩm quyền xét xử hành chính cho Tòa
án nhân dân
Xác định hợp lý thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án không chỉ có
ý nghĩa bảo đảm cho hoạt động xét xử hành chính được thực hiện có hiệu quả
mà còn là cơ sở đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống tư pháp, là cơ sở để
thực hiện một cách thuận tiện quyền khiếu kiện hành chính của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Mỗi nước đều có những giải pháp khác nhau khi xác định
thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án tuỳ thuộc vào quan niệm riêng về


thẩm quyền xét xử hành chính, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền
thống pháp lý, trình độ dân trí và các điều kiện khách quan và chủ quan khác
trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước mình.
Xuất phát từ điều kiện chính trị, xã hội và nền tảng pháp luật ở Việt
Nam, nhà nước trao quyền xét xử hành chính cho Tòa án nhân dân. Không
thành lập Tòa hành chính như một hệ thống độc lập, cũng không tổ chức tòa
hành chính thống nhất từ Trung ương đến địa phương mà Việt Nam thành lập
Tòa hành chính chuyên trách thuộc TAND cấp tỉnh và Tòa hành chính thuộc
TAND cấp cao với những thẩm quyền khác nhau (theo quy định của Luật Tố

tụng hành chính).
Việc xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án không
chỉ dựa trên những mong muốn hoặc nhận thức chủ quan của nhà lập pháp,
mà phải dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định. Đôi khi,
mong muốn của Nhà nước, của xã hội cao hơn so với khả năng thực tế của bộ
máy, của thể chế và nếu chủ quan duy ý chí, việc quy định thẩm quyền sẽ tạo
ra sự “vênh” giữa quy định pháp luật và khả năng vận dụng quy định pháp
luật trên thực tế. Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác xét
xử, tạo gánh nặng trách nhiệm lên bộ máy. Do đó, phải dựa trên những cơ sở
lý luận và thực tiễn xác đáng, các nhà làm luật mới có thể quy định một cách
thích hợp thẩm quyền xét xử hành chính cho Tòa án nhân dân.
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính
của Tòa án nhân dân
Cơ sở lý luận để xác định thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa
án trước hết xuất phát từ quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về
Nhà nước và pháp luật, về nguyên tắc tổ chức và phân công quyền lực nhà
nước. Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực nhà
nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân
dân ủy quyền và giao quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh đòi hỏi tự nhiên và chính
đáng là phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà
nước, quyền lực nhà nước lại có nguy cơ thường vận động theo xu hướng tự
phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân


là số đông chuyển thành số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.
Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Hơn nữa,
quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho
cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Mà con người thì “luôn luôn
chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối với các hành động
của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất” [68]. Đặc

biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả
năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc điểm
đó của con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm
đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm soát quyền lực
nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối với người
được ủy quyền. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại
lượng có thể cân, đong, đo, đếm, phân chia được một cách quá rạch ròi; vì nó
là một thể thống nhất, như nói ở trên. Điều đó lại càng đòi hỏi phải kiểm soát
quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước
được nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ các yếu tố khách quan nói trên, quyền lực nhà nước
thường được lượng hóa bằng các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm
vụ quyền hạn của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa
này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực
hiện. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao
quyền mà quyền đó không bị lạm quyền hoặc lạm dụng, nhân dân kiểm soát
và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao.
Đồng thời cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền cần đề cao
trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực
hiện quyền lực nhà nước được giao. Theo đó, trong Hiến pháp năm 2013 đã
tiến một bước mới trong việc phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên
trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối
với hoạt động của Nhà nước (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp
(Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác
nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư


pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền [68]

Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án thực
hiện độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất
trong tổ chức thực hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can
thiệp vào việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (khoản 2, Điều
103). Đây thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét
xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà
nước. Vì vậy, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là
nhiệm vụ hàng đầu của quyền tư pháp (khoản 3, Điều 102). Mọi cơ quan, tổ
chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và
công lý trong các phán quyết của Tòa án [68,11]
Tại đại hội Đảng lần thứ X, tư tưởng xuyên suốt của chúng ta vẫn là
tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó: “Xây
dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, công lý, bảo vệ quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy
cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra. Xây dựng phán quyết về những Hiến pháp trong hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Việc tăng cường các cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước là một yêu cầu tối cần thiết đối với bộ máy nhà nước.
Thêm nữa, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải trao quyền xét xử các tranh chấp pháp lý (trong đó có tranh chấp hành
chính) cho Tòa án nhân dân để đảm bảo nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà
nước. Theo đó, mỗi loại cơ quan có chức năng riêng và chuyên biệt, đảm bảo
sự kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực, tránh lạm quyền. Đảm bảo tính
thượng tôn trong pháp luật Nhà nước pháp quyền, mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân phải đặt mình dưới pháp luật, mọi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý.
Vi phạm của các chủ thể quản lý thông qua việc ban hành quyết định hành
chính, hành vi hành chính trái pháp luật phải bị xét xử bởi Tòa án cũng giống
như khi công dân, tổ chức khác vi phạm. Có như vậy, mới đảm bảo được sự



tôn nghiêm của pháp luật và hạn chế sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước
trong việc thực thi quyền lực nhà nước.
Dựa trên tư tưởng chỉ đạo trong văn kiện của Đảng và quy định trong
Hiến pháp năm 2013 về vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án, Luật tố tụng
hành chính năm 2015 quy định quyền xét xử vụ án hành chính cho Tòa án
nhân dân.
.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc xác định thẩm quyền xét xử hành
chính của Tòa án nhân dân
Để thực hiện chức năng quản lý hành chính, các chủ thể quản lý ban
hành các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính nhất định. Các quyết
định và hành vi đó về nguyên tắc là phải hợp pháp, nhưng trên thực tế xảy ra
không ít trường hợp chúng có thể sai. Về nguyên tắc những quyết định và
hành vi hành chính bất hợp pháp đó sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên, không
phải khi nào chủ thể quản lý cũng nhận thức rõ ràng về tính trái pháp luật của
các quyết định, hành vi đó. Trong trường hợp này, không có cơ sở nào để trao
quyền xét xử vụ án hành chính cho Tòa án nhân dân. Vì thế, chỉ khi đối tượng
quản lý biết được hoặc cho rằng quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính là trái pháp luật, xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ
phản ứng, mong muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đó là cơ
sở thực tiễn để Tòa án thực hiện hoạt động xét xử tranh chấp hành chính.
Những trường hợp quyết định ban hành sai, nhưng đối tượng bị tác động bởi
quyết định không phản ứng bởi phiền hà, thiếu điều kiện để theo việc kiện
tụng…), thì cũng không có cơ sở thực tiễn cho Tòa án giải quyết. Bởi lẽ, theo
nguyên tắc quyền quyết định và quyền tự định đoạt của đương sự, đây là việc
liên quan đến quyền lợi cá nhân, tổ chức nên họ tự mình quyết định có kiện
hay không. Tòa án chỉ có thể giải quyết khi có yêu cầu giải quyết tranh chấp,
tức là có phản ứng của cá nhân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính của công quyền.
Thực tiễn giải quyết khiếu nại hành chính từ thập niên 90 của thế kỷ 20

đến nay cho thấy công tác này tuy được Nhà nước quan tâm song hiệu quả đạt
được không như mong đợi. Đặc biệt phải kể đến là giai đoạn từ năm 1996 đến


trước khi Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực, khi vẫn còn áp dụng Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính mặc dù các cơ quan, tổ chức đã có rất
nhiều nỗ lực trong việc giải quyết khiếu nại, nhưng kết quả không thực sự khả
quan, còn nhiều tồn tại: cụ thể là càng ngày số vụ việc khiếu nại hành chính
càng có xu hướng gia tăng với tính chất gay gắt và phức tạp hơn mà việc giải
quyết khiếu nại chất lượng còn thấp, kết luận chưa thật chính xác, phải xem
xét lại nhiều lần. Khả năng “tự khắc phục” của các cơ quan quản lý dường
như rất thấp so với yêu cầu khiếu nại. Tình trạng đơn thư, án tồn đọng hàng
năm ở các cấp, các ngành vẫn còn phổ biến, việc giải quyết không đúng hạn
là thường xuyên, đơn thư tồn đọng từ năm này qua năm khác, thậm chí có
việc kéo dài tới hàng chục năm không được giải quyết dứt điểm. Việc khiếu
nại liên quan đến các cán bộ, công chức nhà nước có chức vụ cao thường là
những vụ việc kéo dài và kết quả giải quyết thường không khách quan. Mặt
khác, có những vụ việc đã được giải quyết, có kết luận của cơ quan có thẩm
quyền nhưng những người liên quan không thi hành. Thêm nữa, trong khi đơn
khởi kiện VAHC tại Tòa án rất hạn chế thì số đơn thư khiếu nại vượt cấp năm
sau luôn cao hơn năm trước, nhất là đơn thư khiếu nại về vấn đề quản lý đất
đai, thu hồi đất, giải tỏa đền bù, khiếu nại quyền sử dụng đất ở, đất nông
nghiệp... Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình này là do sự nhận thức thiếu
đầy đủ về trách nhiệm giải quyết khiếu nại, sự đùn đẩy hoặc né tránh trách
nhiệm, người khiếu nại không nhận thức được đầy đủ các quyền của mình.
Cộng với những mặt hạn chế trong hoạt động giải quyết khiếu nại trước năm
1996, khi để cho người ra QĐHC, thực hiện HVHC đồng thời là người phán
quyết về tính hợp pháp của QĐHC, HVHC của mình hoặc của cấp dưới gây
ra tình trạng độc quyền trong giải quyết khiếu nại hành chính, bảo thủ, thiếu
khách quan, vô tư và công bằng. Bên cạnh đó còn các quy định pháp luật về

thẩm quyền giải quyết, xét xử VAHC còn hạn hẹp, nhiều điểm còn chưa hợp
lý và bất cập so với tình hình kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới.
Từ những thực tiễn trên, xã hội mong muốn có một cơ quan độc lập với
cơ quan quản lý để giải quyết tranh chấp hành chính đảm bảo khách quan,
công bằng. Chính vì thế, Nhà nước phải tính đến việc trao quyền xét xử vụ án
hành chính cho Tòa án để công dân có nhiều quyền trong việc lựa chọn cách


thức bảo vệ quyền lợi của mình trước sự tác động có khả năng gây phương
hại từ các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
các tổ chức hoặc cá nhân nhân danh nhà nước. Đó cũng là cách để củng cố
niềm tin của quần chúng vào cơ chế bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của nhà
nước, thể hiện quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng và
nhà nước ta.
.3.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc quy định thẩm
quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
Việc quy định thẩm quyền xét xử VAHC của TAND nhằm bảo vệ một
cách hữu hiệu các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan trên
cơ sở đáp ứng quyền khiếu kiện hành chính chịu sự ảnh hưởng lớn từ nhiều
yếu tố sau:


.3.1. Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo
vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Trung tâm hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án. Trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc mọi biểu hiện
của quyền lực nhà nước đều cần được kiểm soát và nếu có vi phạm đều phải
bị xử lý thì hoạt động hành chính không thể đặt trong cơ chế “tự xem xét”
như truyền thống nữa mà phải bị kiểm soát bởi cơ quan khác và phải bị xét

xử. Như vậy, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo việc thực thi một cách thống nhất
và hiệu quả quyền lực nhà nước, việc thiết lập Tòa hành chính để xét xử của
các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực hành chính có biểu hiện trái pháp luật là
cần thiết.
Hơn nữa, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi công dân, nhà nước vừa phải quy định nhiều phương thức để bảo vệ
các quyền lợi đó vừa phải tổ chức để các phương thức này hoạt động trong
trạng thái cân bằng về thẩm quyền và hiệu quả. Nếu một trong những phương
thức đấy hoạt động kém hiệu quả thì việc lựa chọn của cơ quan bảo vệ những
quyền lợi chính đáng của công dân sẽ chỉ mang tính hình thức. Hiện nay có
hai phương thức chính là: phương thức giải quyết khiếu nại tố cáo theo thủ
tục hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước và
phương thức xét xử VAHC theo thủ tục khiếu kiện tại TAND. Cùng một vụ
việc, công dân có thể lựa chọn cơ quan bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình,
có thể yêu cầu cơ quan khác bảo vệ quyền, lợi ích đó nếu có căn cứ cho rằng
cơ quan đang thụ lý giải quyết vụ việc thiếu tinh thần trách nhiệm hay giải
quyết không thỏa đáng yêu cầu của mình. Mặc dù, các biện pháp như: giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước, thanh kiểm tra hành chính, giải quyết
khiếu nại hành chính, kiểm tra xã hội đều có ý nghĩa nhất định trong việc hạn
chế sự tùy tiện của quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân nhưng các biện pháp này chủ yếu vì lợi ích chung
hoặc là có bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân song chưa triệt để, toàn
diện. Do đó, cần phải xác định thẩm quyền xét xử VAHC cho TAND để bổ
sung, khắc phục những hạn chế của các biện pháp trên, tạo ra cơ chế đồng bộ,


×