Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Đề tài khoa học KIỂM SÁT VIỆC THI HÀNH ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.66 KB, 101 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT

1
6

THI HÀNH ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
1.1.

VÀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG
Khái niệm án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ

6

1.1.1

sung
Khái niệm án treo

6

.
1.1.2


Khái niệm cải tạo không giam giữ

8

.
1.1.3

Khái niệm hình phạt bổ sung

11

.
1.2.

Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân

13

trong kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và
1.2.1

các hình phạt bổ sung
Khái niệm kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam

13

.
1.2.2

giữ và các hình phạt bổ sung

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm

15

.

sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình

1.2.3

phạt bổ sung
Các phương thức kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không

18

giam giữ, các hình phạt bổ sung
Chương 2: NỘI DUNG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN

22

.

1


TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ CÁC HÌNH
2.1.
2.1.1

PHẠT BỔ SUNG

Kiểm sát thi hành án treo
Kiểm sát việc Tòa án ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác

22
22

.
2.1.2

thi hành án
Kiểm sát việc thi hành án treo

28

.
2.1.3

Kiểm sát việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo

31

.
2.2.
2.2.1

Kiểm sát thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Kiểm sát việc Tòa án ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác

36
36


.
2.2.2

thi hành án
Kiểm sát việc thi hành án cải tạo không giam giữ

37

.
2.3.
2.3.1

Kiểm sát thi hành hình phạt bổ sung
Kiểm sát thi hành hình phạt cấm cư trú

45
45

.
2.3.2

Kiểm sát thi hành hình phạt quản chế

48

.
2.3.3

Kiểm sát thi hành hình phạt tước một số quyền công dân


52

.
2.3.4

Kiểm sát thi hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

54

hành nghề hoặc làm công việc nhất định
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP

59

.

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC THI
HÀNH ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ
3.1.

CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG
Thực trạng kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam

59

3.1.1

giữ và các hình phạt bổ sung
Những kết quả đạt được


59

.
3.1.2

Hạn chế, vướng mắc trong kiểm sát thi hành án treo, cải tạo

68

2


.

không giam giữ, các hình phạt bổ sung và nguyên nhân của

3.2.

các hạn chế, vướng mắc
Những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc

74

thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ
3.2.1

sung
Kiến nghị hoàn thiện thống nhất các quy định của Bộ luật


74

.
3.2.2

hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự
Một số giải pháp khác

80

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87
89

.

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ
sung là một trong các công tác thực hiện chức năng của VKS nhân dân theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật. Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung là sự tuân theo pháp
luật của cơ quancó thẩm quyền, người có thẩm quyền, trách nhiệm trong thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung nhằm bảo đảm việc
THAHS đúng theo quy định của pháp luật. Hoạt động này giữ vai trò quan trọng

trong việc bảo đảm tính thống nhất, công bằng và nghiêm minh của pháp luật
nhằm phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật,
bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền dân chủ của công dân, góp phần thực hiện
nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát. Thời gian qua, hoạt động kiểm sát việc thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung đã đạt được nhiều
kết quả, góp phần bảo đảm việc thi hành án trên thực tế, nhanh chóng phát hiện
những vi phạm pháp luật, kịp thời kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm trong
hoạt động kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ
sung. Tuy nhiên, trên thực tế kiểm sát thi hành các loại án này, các VKS, KSV còn
chưa thật sự coi trọng, chưa nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng nên còn xảy
ra những vi phạm trong công tác kiểm sát, dẫn đến chất lượng kiểm sát chưa cao,
còn nhiều hạn chế, bất cập cần khắc phục. Do vậy, việc nghiên cứu, phân tích thực
trạng hoạt động kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các
hình phạt bổ sung, xác định nguyên nhân của những hạn chế, bất cập để đề ra các
giải pháp khắc phục là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Vì vậy, nhóm tác giả lựa chọn đề tài: "Kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ và các hình phạt bổ sung” làm đề tài nghiên cứu khoa học năm
2017-2018.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

4


Kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ
sung là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của ngành Kiểm sát, vì vậy,
trong thời gian qua, vấn đề này rất được các nhà lý luận cũng như thực tiễn quan
tâm nghiên cứu. Đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
như:
- Đề tài khoa học cấp bộ "Kháng nghị của VKS với các cơ quan có trách
nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành hình

phạt tù" của VKS nhân dân tối cao, do tác giả Nguyễn Hoàng Thế và các thành
viên thực hiện, nghiệm thu năm 2004.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành hình phạt tù theo yêu cầu cải
cách tư pháp hiện nay" của VKS nhân dân tối cao, do tác giả Ngô Quang Liễn và
các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2007.
- Chuyên đề "Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành hình phạt tù" của VKS nhân dân tối cao, do
tác giả Bùi Đức Long và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2010.
Vấn đề liên quan đến kiểm sát THAHS còn có nhiều bài viết đăng trên các
tạp chí chuyên ngành như: tác giả Bùi Lê Sính có bài viết: “Đề xuất nâng cao
chất lượng công tác kiểm sát hoạt động quản lý, giáo dục các bị án thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ”, Tạp chí Kiểm sát số 18/2014; Tác giả Trịnh Tuấn
Anh có bài viết: “Kinh nghiệm của VKS nhân dân huyện Lục Nam trong công
tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ”, Tạp chí Kiểm sát số
18/2014; tác giả Nguyễn Hải Phùng có bài viết: "Khi kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và THAHS có cần ban hành "quyết định trực
tiếp kiểm sát" không?", Tạp chí kiểm sát, số 7/2012.
Bài viết của tác giả Vũ Đức Chấp: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kiểm sát THAHS của VKS nhân dân", Tạp chí Kiểm sát, số 10/2008; bài viết
của PGS.TS Trần Văn Độ: "Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí
5


Khoa học pháp lý, số 6/2010; bài viết của tác giả Bùi Đức Long: "Bàn về vị trí,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nhân dân trong THAHS", Tạp chí Kiểm sát, số
23/2010...
Chuyên đề bồi dưỡng chuyên sâu cán bộ ngành kiểm sát năm 2017: “ Kỹ
năng kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung và

các biện pháp tư pháp” do TS. Mai Đắc Biên cùng nhóm các KSV Vụ kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam và THAHS VKSNDTC thực hiện.
Tất cả các công trình trên đây đã nghiên cứu, tìm hiểu một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về hoạt động kiểm sát THAHS nói chung cũng như kiểm sát
việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung nói riêng.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính tổng thể, đầy đủ nhất về
vấn đề này thể hiện ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ
sung, phục vụ việc nghiên cứu khoa học trong Trường Đại học kiểm sát Hà Nội
cũng như vận dụng vào thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ và các hình phạt bổ sung của VKSND.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu sau
đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về kiểm sát thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ và các hình phạt bổ sung trong như khái niệm, đối tượng, phạm
vi kiểm sát;
- Nghiên cứu nội dung hoạt động kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ và các hình phạt bổ sung của VKSND;
- Nghiên cứu thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ và các hình phạt bổ sung của VKSND trong một số năm qua.
6


- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung của VKSND trong giai
đoạn hiện nay.

3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn kiểm
sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung của
VKSND được thể hiện qua các văn bản pháp luật hiện hành, các quy định, quy
chế của ngành kiểm sát nhân dân và kết quả một số năm của ngành kiểm sát.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật hiện hành về
kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung, như
Luật THAHS 2010, Luật tổ chức VKS nhân dân 2014, BLTTHS năm 2015,
BLHS 2015, Quy chế kiểm sát việc tạm giữ tạm giam và THAHS(ban hành kèm
theo quyết định số 35/QĐ-VKSTC-V4 ngày 29 tháng 01 năm 2013 của Viện
trưởng VKS nhân dân tối cao(sau đây gọi tắt là Quy chế số 35). Ngoài ra, đề tài
nghiên cứu thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ,
các hình phạt bổ sung trên phạm vi cả nước, trong 5 năm từ năm 2012-2016.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về chức năng nhiệm vụ của VKS, về THAHS và chính sách hình sự.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp phân
tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu, nghiên cứu lịch sử, phân tích số
liệu…
5. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa cơ sở lý luận về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS về THAHS nói chung và kiểm sát thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung nói riêng. Đề tài đề xuất
các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án
7


treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung, khắc phục những khó

khăn, vướng mắc, hạn chế trong công tác của ngành kiểm sát.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng
trên thực tiễn tại Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, VKS nhân dân tối cao và
VKS các địa phương.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ và các hình phạt bổ sung
Chương 2: Nội dung kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và
các hình phạt bổ sung
Chương 3. Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm
sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN TREO, CẢI
TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG
1.1. Khái niệm án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ
sung
1.1.1. Khái niệm án treo
Điều 65 BLHS 2015 quy định "Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ
vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không
cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời
gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử
thách theo quy định của Luật THAHS.". Như vậy, án treo là một biện pháp không
buộc người bị phạt tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam, không buộc họ phải
cách ly khỏi xã hội, họ được tự cải tạo, giáo dục trong môi trường xã hội trong một

thời gian thử thách nhất định với sự giám sát, giáo dục và giúp đỡ của các cơ
quan hoặc chính quyền địa phương cùng gia đình người bị kết án.
Việc áp dụng án treo là cần thiết, nó không những thể hiện được những
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình
phạt mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo XHCN, thể hiện rõ phương châm
trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục trong THAHS. Người phạm tội được hưởng
án treo không phải chấp hành hình phạt tù trong trại giam, không bị tước bỏ một
số quyền tự do, họ vẫn được làm ăn sinh sống trong cộng đồng xã hội, tuy nhiên
phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương. Người
chấp hành án treo luôn bị răn đe là nếu phạm tội mới thì họ sẽ không được
hưởng án treo nữa mà phải chấp hành hình phạt tù của bản án đó đồng thời với
việc chấp hành hình phạt của bản án mới. Án treo vẫn đảm bảo tính răn đe nhưng
lại có tác dụng khuyến khích người phạm tội vì nếu họ cải tạo tốt, không vi phạm
điều kiện thử thách thì sẽ không phải chấp hành hình phạt tù.
Vì người được hưởng án treo được tự giáo dục, cải tạo ngay trong môi
trường xã hội nơi họ vẫn sinh sống và lao động nên nó thu hút đông đảo thành
9


viên trong xã hội tham gia theo dõi, giúp đỡ, giáo dục và cải tạo người phạm tội,
góp phần xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội. Điều này có hiệu quả rất
cao, giúp người bị kết án thêm tin yêu vào cuộc sống, khơi dậy những phẩm chất
tốt đẹp vốn có của chính mình. Việc xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội
cũng chính là góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của quần
chúng nhân dân.
Trong luật hình sự, hình phạt tù có tính nghiêm khắc, răn đe cao và mang
tính giáo dục, cải biến quan niệm, lối sống của phạm nhân một cách sâu sắc. Tuy
nhiên, việc áp dụng nó không phải là tối ưu trong mọi trường hợp, nhất là trong
điều kiện cơ sở vật chất trại giam còn hạn chế, chật hẹp và điều kiện cải tạo, giáo
dục người phạm tội trong trại giam nhiều nơi chưa được thực hiện tốt. Qua thực

tiễn cho thấy thì tỷ lệ người bị phạt tù chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các loại
hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo bởi lẽ đây cũng là một trong
những loại hình phạt rất nghiêm khắc mà Tòa án vận dụng. Nếu tất cả các bị hình
phạt tù này đều được đưa đi thi hành tại các trại cải tạo thì sẽ là một gánh nặng
rất lớn đối với nhà nước về vấn đề con người quản lý giáo dục, về cơ sở vật chất
là rất tốn kém. Hơn nữa, theo kết quả điều tra xã hội học và phạm tội học thì
trong một số trường hợp người phạm tội vào chấp hành hình phạt tù trong trại
giam đã chịu ảnh hưởng xấu của những phạm nhân khác nên hình thành những
nhân cách xấu hơn trước khi vào tù và khi ra tù họ trở thành những người còn
hung tợn và dễ dàng phạm tội hơn.
Bản chất pháp lý của án treo.
Theo quy định của các văn bản pháp luật trên thì có thể thấy một người bị
phạt tù được hưởng án treo thực hiện theo trình tự: Khi xử phạt tù không quá ba
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy, việc xem xét cho
hưởng án treo là một bước của hoạt động quyết định hình phạt, được đặt ra trong
trường hợp bị phạt tù từ 3 năm trở xuống.
10


Tòa án đã quyết định một hình phạt đối với người phạm tội, sau đó nếu
hình phạt tù là tù từ ba năm trở xuống, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội
và các tình tiết giảm nhẹ nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù
thì Tòa án cho hưởng án treo. Như vậy, án treo không phải là hình phạt mà là
một biện pháp không bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù mặc dù họ
đã bị xử phạt tù. Đồng thời cũng quy định người được hưởng án treo mà phạm
tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành
hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.
Do đó, nếu người phạm tội cải tạo tốt mà không phạm tội mới trong thời

gian thử thách thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù mà được miễn chấp
hành hình phạt tù. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội
mới và bị xét xử thì người đó không được hưởng án treo nữa và phải chấp hành
hình phạt đã tuyên. Khi xem xét quyết định cho người bị phạt tù hưởng án treo
Tòa án tin tưởng rằng người đó sẽ tự giáo dục, cải tạo trong môi trường xã hội
trong thời gian thử thách nhất định với sự giám sát của gia đình, cơ quan, đơn vị
hoặc chính quyền địa phương. Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn sinh sống và chứng tỏ
sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường.
Hình phạt tù đã tuyên sẽ được thi hành nếu người phạm tội vi phạm điều
kiện đã được ấn định trong thời gian thử thách. Người phạm tội không vi phạm
điều kiện của án treo trong thời gian thử thách thì chứng tỏ họ đã trở thành người
lương thiện, vì vậy không phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên trong bản án. Do
đó cần khẳng định bản chất pháp lý của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện.
1.1.2. Khái niệm cải tạo không giam giữ
Theo luật hình sự Việt Nam, hình phạt cải tạo không giam giữ được quy
định trong BLHS thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng
và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời
chứng tỏ khả năng tự giáo dục cải tạo trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài
11


ra, hình phạt cải tạo không giam giữ còn là một trong những biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung,
giáo dục, cải tạo người phạm tội nói riêng, nên rõ ràng, hình phạt cải tạo không
giam giữ cần phải được quan tâm một cách sâu sắc trên các phương diện lập
pháp, áp dụng pháp luật và nghiên cứu lý luận nhưng cho đến nay hình phạt cải
tạo không giam giữ vẫn chưa được quan tâm đúng mức trên cả ba phương diện
này.

Mặc dù hình phạt cải tạo không giam giữ là một hình phạt chính nhưng nó
vẫn thể hiện tính nhân đạo cao vì cải tạo không giam giữ là hình phạt không tước
tự do, song khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ cũng chưa được BLHS
hiện hành làm rõ. Điều 36 BLHS năm 2015 chỉ nêu ra những điều kiện để người
phạm tội được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, đó là: " Cải tạo không
giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc
ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly
người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm
giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01
ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ."
Trên cơ sở nội dung Điều 31 BLHS năm 1999, TS. Hoàng Văn Hùng định
nghĩa tương đối đầy đủ:
Hình phạt cải tạo không giam giữ được hiểu là hình phạt chính có thời hạn
từ sáu tháng đến ba năm được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng khi xét thấy
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội1.
Tóm lại, theo chúng tôi khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ có thể
được định nghĩa như sau: Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những
1 Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.,
tr.240

12


biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do BLHS Việt Nam quy
định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để
giám sát, giáo dục, khi họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi cư

trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội cũng đủ
để giáo dục, cải tạo họ thành người tốt.
Như vậy, từ khái niệm này, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt
cải tạo không giam giữ như sau:
Một là, hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt
phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và của luật hình
sự Việt Nam nói riêng. Theo đó, bên cạnh hàng loạt các chế định khác như: Các
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, thời hiệu (thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án),
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, án treo,
xóa án tích; v.v... thì hình phạt cải không giam giữ cũng phản ánh rõ nét nguyên
tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và luật hình sự Việt Nam nói
riêng thể hiện ở nội dung cưỡng chế về hình sự của loại hình phạt không tước tự
do này.
Hai là, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nặng nhất
trong số các hình phạt không phải là tù. Hệ thống hình phạt nước ta bao gồm
hình phạt chính và hình phạt bổ sung được quy định cụ thể tại Điều 32 BLHS
năm 2015, theo đó hình phạt cải tạo không giam giữ cùng với các hình phạt như:
phạt tiền, cảnh cáo, tù có thời hạn, chung thân, tử hình là các hình phạt chính
trong hệ thống hình phạt nước ta. Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt
chính nặng nhất trong số các hình phạt không phải là tù, đứng sau hình phạt tù có
thời hạn, người phạm tội bị áp dụng hình phạt này khi mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi họ gây ra không lớn hoặc chưa đến mức phải chịu hình phạt tù
và nếu cảnh cáo và phạt tiền thì quá nhẹ.
Ba là, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ không buộc người bị
13


kết án cách ly khỏi đời sống xã hội. Người bị kết án được thi hành án trong môi
trường bình thường trước sự giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức hoặc chính

quyền địa phương. Việc quy định và áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta đối với người bị kết án, dù họ
đã thực hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, nhưng với hình phạt cải tạo
không giam giữ người phạm tội chịu sự giám sát chặt chẽ, nghiêm ngặt của cơ
quan, tổ chức nơi họ làm việc sinh sống, thường trú. Người phạm tội phải cải
tạo, tự sửa chữa bản thân mình, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà
nước, tích cực tham gia lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, quy định
của địa bàn dân cư nơi mình cư trú.
Bốn là, người bị kết án phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. BLHS không đưa ra khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong
khoa học pháp lý nước ta quan niệm về vấn đề này cũng chưa thống nhất. Nhìn
chung, đa số ý kiến cho là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được
ghi nhận trong BLHS hoặc do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án,
đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và
hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một
khung hình phạt.
1.1.3. Khái niệm hình phạt bổ sung
Trong pháp luật hình sự nước ta từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến
trước khi ban hành BLHS năm 1999, khái niệm hình phạt chưa được ghi nhận
một cách chính thức ở bất kỳ một văn bản pháp luật nào, chỉ đến khi ban hành
BLHS năm 1999 thì khái niệm hình phạt lần đầu tiên mới được quy định tại Điều
26 BLHS: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được
quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định".
Theo các quan niệm về khái niệm chung về hình phạt nêu trên và các đặc
điểm, bản chất, ý nghĩa, mục đích và vai trò của hình phạt bổ sung, có thể đưa ra
định nghĩa về hình phạt bổ sung như sau: Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng
14



chế nhà nước nghiêm khắc được quy định trong BLHS, do Tòa án nhân danh
Nhà nước tuyên kèm theo hình phạt chính trong bản án kết tội đã có hiệu lực
pháp luật với mục đích tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người bị kết án.
Mục đích của hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung cũng có những mục đích giống như mục đích của hình
phạt đó là trừng trị, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Luật hình sự Việt Nam quy định về mục đích của hình phạt tại Điều 20
BLHS năm 1985 và Điều 27 BLHS năm 1999 và Điều 38 BLHS 2015.
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo
họ trở thành người có ích cho xã hội, tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm mục đích giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Theo quy định trên thì hình phạt không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo
dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đây là
mục đích chính và là nội dung cơ bản của hình phạt trong pháp luật hình sự nước
ta. Mục đích này không chỉ được thể hiện ngay trong nội dung các loại hình phạt
mà nó còn được thể hiện ở nhiều chế định khác trong luật hình sự Việt Nam.
Ngoài hai mục đích chính như đã nêu trên thì hình phạt bổ sung còn có
mục đích giúp hình phạt chính đạt được hiệu quả cao nhất, bởi lẽ:
Thứ nhất, hình phạt bổ sung làm cho hệ thống hình phạt cân đối hơn,
tương xứng hơn, hoàn thiện hơn góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý hình sự và
nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, giúp cho việc thực hiện
chính sách hình sự năng động đáp ứng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sẽ củng cố hỗ trợ
và tăng cường cho kết quả đạt được do việc áp dụng hình phạt chính. Sự phối
hợp nhịp nhàng giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong quyết định hình
phạt với những trường hợp cụ thể là rất quan trọng góp phần nâng cao tính hiệu
quả của hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
15



Thứ hai, hình phạt bổ sung không có mục đích trừng trị cao như hình phạt
chính và không được áp dụng một cách độc lập mà áp dụng cùng với hình phạt
chính để hỗ trợ cho hình phạt chính. Hình phạt bổ sung trong một vụ án cụ thể,
có tác dụng hỗ trợ và bổ sung cho hình phạt chính, tăng thêm hiệu quả của hình
phạt đối với người phạm tội. Do vậy, cần kết hợp đúng đắn việc áp dụng hình
phạt chính với các hình phạt bổ sung khác đối với người phạm tội là một trong
những điều kiện quan trong để đạt được mục đích của hình phạt.
Thứ ba, khi áp dụng hình phạt chính đối với người bị kết án thì Nhà nước
hướng vào việc trừng trị, giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm. Còn khi
áp dụng hình phạt bổ sung thì Tòa án nghiêng về mục đích phòng ngừa riêng
nhiều hơn, nhưng không có nghĩa là việc áp dụng hình phạt bổ sung vượt ra
ngoài các mục đích chung của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phòng ngừa tội
phạm, hình phạt bổ sung vẫn còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục người bị
kết án nhằm đạt được các mục đích của hình phạt và trách nhiệm hình sự.
1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình
phạt bổ sung
1.2.1. Khái niệm kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
và các hình phạt bổ sung
Kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, các hình phạt
bổ sung là một trong những nội dung công tác kiểm sát THAHS thuộc chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp quy định tại Điều 4, Điều 6 LTCVKSND năm
2014; Khi thực hiện công tác này, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của VKS được
quy định tại các điều 25, 26 LTCVKSND năm 2014, Điều 141 LTHAHS năm
2010 và tại Quy chế số 35. VKS thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong thi hành án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ
sung của Tòa án, của cơ quan quản lý, THAHS và cơ quan, tổ chức được giao
một số nhiệm vụ THAHS, cá nhân có thẩm quyền nhằm bảo đảm việc thi hành,

chấp hành các loại hình phạt và các biện pháp tư pháp nêu trên được thực hiện
16


theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình kiểm sát, nếu phát hiện những
vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền, người chấp hành án, VKS
yêu cầu hoặc ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục, loại bỏ vi phạm
hoặc xử lý vi phạm Mọi yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị hoặc đề nghị khởi tố vụ
án hình sự của VKS phải được các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền
xem xét, giải quyết.
Như vậy, kiểm sát thi hành án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, các
hình phạt bổ sung là việc VKS sử dụng quyền hạn theo quy định của pháp luật
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm
quyền, trách nhiệm trong thi hành án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, các
hình phạt bổ sung nhằm bảo đảm việc thi hành các loại án này đúng quy định
của pháp luật, mọi vi phạm được khắc phục, loại bỏ.
* Đối tượng kiểm sát
Theo quy định tại Điều 2 Quy chế số 35 thì đối tượng của công tác kiểm
sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung là việc tuân
theo pháp luật của Tòa án, cơ quan quản lý THAHS, CQTHAHS, cơ quan, tổ
chức được giao một số nhiệm vụ THAHS và người có trách nhiệm trong thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung.
* Phạm vi kiểm sát
Theo quy định tại Điều 3 Quy chế số 35 thì phạm vi của công tác kiểm sát
thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung được thực hiện từ
khi bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật THAHS và
kết thúc khi chấm dứt việc THAHS, thi hành quyết định áp dụng biện pháp tư
pháp theo quy định của pháp luật.
Bản án, quyết định được thi hành bao gồm:
1. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành:

a) Bản án hoặc phần bản án của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
b) Bản án của Toà án cấp phúc thẩm;
17


c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án.
2. Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định
của BLTTHS.
3. Quyết định của Toà án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành hình
phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành;
quyết định chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam cho
nước ngoài.
4. Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh,
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng2.
2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ, các hình phạt bổ sung và các biện pháp tư pháp
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát
việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung
Căn cứ Điều 141 Luật THAHS năm 2010 quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong kiểm sát việc THAHS, chúng ta có thể xác định nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các
hình phạt bổ sung như sau:
Thứ nhất, yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung đúng quy định của pháp luật;
VKS yêu cầu Tòa án ra quyết định thi hành án treo, cải tạo không giam giữ,
các hình phạt bổ sung trong trường hợp bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật hoặc có căn cứ nhưng Tòa án không ra hoặc chậm ra quyết định thi hành án.
Thứ hai, yêu cầu Toà án, CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số
nhiệm vụ THAHS tự kiểm tra việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các

hình phạt bổ sung và thông báo kết quả kiểm tra cho VKS; cung cấp hồ sơ, tài
liệu có liên quan đến việc thi hành các loại hình phạt nêu trên;

2 Theo quy định của BLHS thì biện pháp tư pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn đã chuyển thành biện pháp
giám sát đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

18


VKS thực hiện yêu cầu tự kiểm tra, báo cáo kết quả hoặc cung cấp hồ sơ,
tài liệu có liên quan trong trường hợp nhận được thông tin có vi phạm xảy ra tại
các cơ quan trên trong lĩnh vực THAHS nhưng chưa có điều kiện hoặc không
cần thiết phải tiến hành biện pháp kiểm sát trực tiếp. Thông qua việc nghiên cứu
hồ sơ, tài liệu hoặc báo cáo kết quả tự kiểm tra, VKS cũng có thể xác định được
những vi phạm pháp luật tại các cơ quan trên để yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
chấm dứt, khắc phục vi phạm.
Thứ ba, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật
trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung theo thẩm
quyền;
Để bảo đảm cho việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình
phạt bổ sung được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, VKS có trách
nhiệm phát hiện các vi phạm pháp luật trong thi hành án, có biện pháp xử lý kịp
thời các trường hợp vi phạm pháp luật. Việc phát hiện và xử lý các trường hợp vi
phạm pháp luật của VKS nhằm bảo đảm cho lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân không bị xâm phạm bởi những vi
phạm pháp luật trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ
sung.
Thứ tư, định kỳ và đột xuất kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
thi hành án của cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt
bổ sung, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành các loại hình phạt

nêu trên; kiểm sát hồ sơ thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt
bổ sung của CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ THAHS;
Khi phát hiện vi phạm hoặc nhằm mục đích xác định vi phạm pháp luật
của Tòa án, CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành
án trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung thì VKS
áp dụng các phương thức kiểm sát trực tiếp hoặc kiểm sát hồ sơ thi hành đối với
các loại án nêu trên. Kiểm sát trực tiếp được thực hiện dưới hai hình thức: Kiểm
sát trực tiếp định kỳ và kiểm sát trực tiếp đột xuất. Kiểm sát trực tiếp định kỳ là
19


việc kiểm sát trực tiếp theo kế hoạch định trước(theo tháng, quý, năm), có thông
báo trước về kế hoạch cho đối tượng kiểm sát; Kiểm sát trực tiếp đột xuất là
kiểm sát không có trong kế hoạch định kỳ, được tiến hành bất cứ lúc nào khi
VKS xác định có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong thi hành án.
Thứ năm, đề nghị miễn, hoãn, đình chỉ chấp hành án treo, cải tạo không
giam giữ, các hình phạt bổ sung; tham gia việc xét giảm thời hạn chấp hành án
cải tạo không giam giữ, miễn thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ,
cấm cư trú, quản chế và rút ngắn thời gian thử thách của án treo;
Để bảo đảm việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt
bổ sung được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích
chính đáng của người chấp hành án, VKS có thẩm quyền và trách nhiệm đề nghị
việc miễn, hoãn, đình chỉ chấp hành án. Khi tòa án mở phiên họp để giảm thời
hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế và rút ngắn thời
gian thử thách của án treo thì VKS tham gia, phát biểu quan điểm của mình.
Thứ sáu, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu Toà án, CQTHAHS cùng cấp, cấp
dưới, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ THAHS trong việc thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung và cá nhân có liên quan;
yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp
luật trong việc thi hành các hình phạt nêu trên; chấm dứt hành vi vi phạm pháp

luật;
Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu đình chỉ, chấm dứt quyết định và hành vi
vi phạm pháp luật trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt
bổ sung là quyền năng pháp lý của VKS, bảo đảm cho VKS thực hiện được chức
năng nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong THAHS, ngăn chặn và
loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ bảy, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố
cáo đối với việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung;
Luật THAHS cho phép cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại, tố cáo những
hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc
20


hành vi phạm tội của cá nhân trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, hình
phạt bổ sung để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Các cơ quan và người có thẩm quyền phải giải
quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền quy định của
pháp luật. VKS có thẩm quyền và trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo đảm việc giải quyết đó được thực
hiện đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra trường hợp oan sai trong thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung;
Thứ tám, khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố về hình sự khi phát hiện có
dấu hiệu tội phạm trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt
bổ sung áp theo quy định của pháp luật.
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ, các hình phạt bổ sung thì VKS yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án
hình sự để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Các phương thức kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam
giữ, các hình phạt bổ sung
Trong hoạt động kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các

hình phạt bổ sung, VKS có thể sử dụng phương thức trực tiếp kiểm sát (định kỳ
kiểm sát hoặc đột xuất kiểm sát) và các phương pháp kiểm sát khác (gián tiếp)
như: yêu cầu CQTHAHS, cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS thông
báo tình hình chấp hành pháp luật; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan; tự kiểm
tra và thông báo kết quả cho VKS; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm
vi phạm pháp luật trong THAHS theo quy định của pháp luật.
Theo hướng dẫn tại Điều 25 Quy chế số 35 thì việc định kỳ kiểm sát trực
tiếp trong THAHS được tiến hành như sau:
- Đối với CQTHAHS Công an cấp tỉnh, cấp huyện, CQTHAHS cấp quân
khu và ủy ban nhân dân cấp xã một năm định kỳ kiểm sát trực tiếp một lần. Đối
với cơ quan khác được giao một số nhiệm vụ THAHS chỉ tiến hành trực tiếp
kiểm sát khi xét thấy cần thiết.
21


- Đột xuất kiểm sát trong kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam
giữ, các hình phạt bổ sung được VKS tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu vi
phạm pháp luật xảy ra ở CQTHAHS cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức
được giao một số nhiệm vụ THAHS và VKS nhận thấy cần thiết phải tiến hành
kiểm sát trực tiếp. Việc kiểm sát đột xuất có thể được tiến hành ngay khi phát
hiện có vi phạm pháp luật xảy ra mà không kể đó là thời điểm nào. Việc kiểm sát
định kỳ và đột xuất do Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được ủy quyền
thuộc VKS cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp tiến hành.
Khi tiến hành công tác kiểm sát trực tiếp, KSV viết dự thảo quyết định
kiểm sát và kế hoạch kiểm sát trình lãnh đạo VKS ký ban hành. Kế hoạch kiểm
sát phải cụ thể, chi tiết về nội dung, nêu rõ những điểm cần quan tâm (những lĩnh
vực mà KSV đã có thông tin về vi phạm hoặc thường hay xảy ra vi phạm) và
thời gian kiểm sát. Trong trường hợp cần cung cấp số liệu, hồ sơ, tài liệu liên
quan phục vụ cho cuộc kiểm sát, KSV phải nêu rõ trong kế hoạch. Kế hoạch này
phải được lãnh đạo đơn vị duyệt trước khi ban hành.

Khi kiểm sát trực tiếp, KSV tiến hành tất cả các hoạt động cần thiết theo quy
định của pháp luật để xác định vi phạm, nguyên nhân của vi phạm, trách nhiệm của
người có quyết định, hành vi vi phạm. Những hoạt động đó là: kiểm tra sổ sách, tài
liệu có liên quan đến việc thi hành án, lấy lời khai người chấp hành án, yêu cầu
người có trách nhiệm, thẩm quyền viết bản tường trình hoặc lập biên bản tường
trình, xem xét tại chỗ việc chấp hành án, lập biên bản thu giữ sổ sách, tài liệu, vật
chứng có liên quan đến vi phạm…
Sau khi kiểm tra, thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung
công tác kiểm sát, KSV tổng hợp tình hình chấp hành pháp luật trong công tác
thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung, đối chiếu với các
quy định của pháp luật để xác định những ưu điểm, tồn tại, vi phạm, xác định
nguyên nhân, tiến hành phân loại các loại vi phạm, tính chất, mức độ, hậu quả
của vi phạm theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đó,
xác định áp dụng biện pháp kiến nghị, kháng nghị hay yêu cầu khởi tố, làm cơ sở
22


ban hành kết luận kiểm sát. Sau mỗi cuộc kiểm sát trực tiếp, VKS phải có kết
luận bằng văn bản về kết quả kiểm sát, nêu những nội dung đã kiểm sát, ưu điểm
và những vi phạm pháp luật của cơ quan thi hành án, cơ quan, tổ chức được giao
một số nhiệm vụ thi hành án. Trên cơ sở tính chất mức độ vi phạm mà VKS
quyết định ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị hoặc yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự. VKS ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục, chấm dứt vi phạm trong thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung khi có những vi phạm
thường xuyên nhưng tính chất mức độ cũng như gây hậu quả không lớn. VKS
ban hành kháng nghị khi xác định được những vi phạm nghiêm trọng trong thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung nhưng chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ cần chấm dứt vi phạm, khắc phục hậu quả
thiệt hại đã xảy ra là đủ. VKS yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự trong thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ, các hình phạt bổ sung đối với những vi

phạm nghiêm trọng có dấu hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS.
Ngoài biện pháp kiểm sát trực tiếp nêu trên, quá trình thực hiện công tác
kiểm sát, VKS sử dụng các phương pháp kiểm sát khác có tính chất gián tiếp
nhằm xác định vi phạm để yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm
như yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ, các hình phạt bổ sung thông báo tình hình chấp hành pháp luật; cung
cấp hồ sơ, tài liệu; tự kiểm tra và thông báo kết quả cho VKS; trả lời về quyết
định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong THAHS theo quy định
của pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình kiểm sát THAHS, thông qua công tác
chuyên môn hàng ngày, KSV tập hợp những vi phạm để làm căn cứ, cơ sở cho
việc kiến nghị, kháng nghị khắc phục vi phạm.
Theo quy định tại Điều 143 Luật THAHS năm 2010 thì cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan đến THAHS trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu, thi hành
quyết định của VKS về THAHS theo quy định của pháp luật.

23


Đối với kháng nghị quy định tại khoản 6 Điều 141 của Luật THAHS, Toà
án, cơ quan quản lý THAHS, CQTHAHS, cơ quan được giao một số nhiệm vụ
THAHS có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì các cơ quan này có quyền
khiếu nại lên VKS cấp trên trực tiếp; VKS cấp trên trực tiếp phải giải quyết trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của VKS cấp trên
trực tiếp phải được thi hành.
Đối với quyết định quy định tại khoản 3 Điều 141 của Luật THAHS,
CQTHAHS phải thi hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải
thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên VKS cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 10
ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp phải

giải quyết.

24


Chương 2
NỘI DUNG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ VÀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG
Kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung
là một trong những nội dung quan trọng của kiểm sát THAHS, nhằm bảo đảm
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
nghiêm chỉnh trên thực tế, mọi vi phạm pháp luật trong THAHS phải được phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người chấp hành án được tôn trọng và bảo vệ.
Căn cứ theo quy định của pháp luật, đặc biệt Quy chế số 35, KSV khi tiến
hành kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ và các hình phạt bổ sung
cần thực hiện tốt các kỹ năng nghiệp vụ để kiểm sát chặt chẽ các nội dung sau
đây:
2.1. Kiểm sát thi hành án treo
2.1.1. Kiểm sát việc Tòa án ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác thi
hành án
Để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc ra các quyết
định thi hành án, ủy thác ra quyết định thi hành án, KSV được phân công nhiệm
vụ kiểm sát thi hành án phải chủ động phối hợp với bộ phận kiểm sát xét xử sơ
thẩm, kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để nắm và theo dõi
những bản án, quyết định được thi hành ngay, những bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật, từ đó kịp thời kiểm sát hoặc phát hiện ra vi phạm của Tòa án trong
việc ra các quyết định về thi hành án treo và có những biện pháp xử lý kịp thời,
đúng pháp luật. KSV thực hiện các kỹ năng và kiểm sát các nội dung cụ thể sau
đây:

Thứ nhất, tiếp nhận quyết định thi hành án.
Ngay sau khi nhận được Quyết định thi hành án của Tòa án gửi đến, KSV
kiểm tra nội dung quyết định, thụ lý vào sổ kiểm sát thi hành án do VKS nhân

25


×