Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

biện pháp chuẩn hoá đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở học viện chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 114 trang )

2
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN HẢI

QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VĂN HẢI

QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số

: 60 14 01 14

Người hướng dẫn khoa học: TS Vò QUANG H¶I


HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chất
lượng đội ngũ giáo viên mầm non
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH
DƯƠNG HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình phát triển giáo dục, đào
tạo của huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương
2.2. Thực trạng quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm
non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương
Chương 3. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG
3.1. Một số yêu cầu trong đề xuất và thực hiện biện pháp
quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non
3.2. Các biện pháp quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên
mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình
Dương hiện nay
3.3. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3
13
13
19

31
31
34

59
59

62
80
86
89
93


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề tài
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”

[20, tr.130-131]. Để thực hiện tốt mục tiêu đó thì cần phải phát huy nguồn lực
con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững có ý nghĩa sống
còn đối với sự phát triển giáo dục của đất nước...
Đội ngũ giáo viên và những người làm công tác giáo dục là nhân tố có
ý nghĩa quyết định đối với sự thành công hay thất bại của việc nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Sứ mệnh của nhà
giáo có vai trò đặc biệt, lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự
phát triển của đất nước một cách bền vững. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là
người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng
huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh.
Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em
nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được” [29, tr.331].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, mầm non là bậc học đầu
tiên, có ý nghĩa quan trọng để trẻ làm quen với việc học ở nhà trường, là nền
tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách của
con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục và đào tạo ở các bậc học tiếp
theo. Điều 22 của Luật Giáo dục năm 2005 chỉ rõ mục tiêu của giáo dục mầm
non là: “Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một” [32].


4
Để thực hiện được mục tiêu này cần nhiều điều kiện, yếu tố như xây
dựng được nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục phù hợp và cần có
các phương tiện trang thiết bị phục vụ quá trình chăm sóc nuôi dạy trẻ… Một
trong những điều kiện tiên quyết giúp giáo dục mầm non phát triển chính là
khâu quản lý. Chất lượng quản lý trường mầm non ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng thực hiện mục tiêu giáo dục của trường.
Trong hơn 50 năm hình thành và phát triển, ngành học mầm non đã có

hệ thống quản lý chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, đã có một
mạng lưới trường lớp ở khắp các vùng miền trong cả nước. Với những đặc
trưng của bậc học mầm non là vừa chăm sóc, vừa dạy dỗ, trẻ học thông qua
vui chơi. Giáo dục trẻ em ở trường mầm non mang tính chất giáo dục gia
đình, quan hệ giữa cô và trẻ vừa mang tính thầy trò vừa mang tính mẫu tử.
Việc giáo dục trẻ được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi sinh hoạt và
hoạt động của trẻ hàng ngày. Do đó, đội ngũ giáo viên mầm non, những
người thầy đầu tiên của trẻ, muốn đảm nhận và hoàn thành trọng trách của
mình cần phải hội tụ đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của bậc
học mầm non nói riêng và mục tiêu giáo dục nói chung.
Thực tiễn trong những năm qua, công tác quản lý chất lượng đội ngũ
giáo viên mầm non ở huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương cho thấy đội ngũ giáo
viên bước đầu đáp ứng được yêu cầu về số lượng, có cơ cấu tương đối phù hợp
và có sự tiến bộ về chất lượng, nhưng đứng trước yêu cầu đổi mới vẫn còn tồn
tại những bất cập nhất định. Sự phân bố giáo viên mầm non trên địa bàn huyện
chưa hợp lý, một số vùng gần trung tâm huyện, thuận lợi thì thừa giáo viên,
trong khi đó ở nơi khó khăn, xa trung tâm huyện lại thiếu giáo viên. Sở dĩ có
tình trạng trên là do cơ quan quản lý khi tuyển dụng giáo viên chưa căn cứ vào
số lớp, số trường và số lượng giáo viên để tính biên chế nên công tác tuyển


5
dụng, điều động giáo viên chưa hợp lý. Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa
đồng đều, một số giáo viên mầm non do đào tạo cấp tốc, chắp vá qua nhiều hệ,
loại hình đào tạo, bồi dưỡng (đào tạo, đào tạo lại để đạt chuẩn qua nhiều gian
đoạn), trình độ kiến thức phổ thông hạn chế dẫn đến nghiệp vụ sư phạm không
vững chắc, trình độ chuyên môn yếu. Trong khi đó, hàng năm một số lượng
không nhỏ giáo viên mầm non tốt nghiệp ở các trường sư phạm, có trình độ cao
(cao đẳng và đại học) chưa được tuyển dụng do không còn chỉ tiêu biên chế.

Bên cạnh đó, tình trạng “già hóa” giáo viên mầm non đang diễn ra, mà nguyên
nhân là do trước đây, khi huyện Phú Giáo được tái lập đã tuyển dụng giáo viên
mầm non với tốc độ nhanh, số lượng lớn, chất lượng không đảm bảo, đến nay
chỉ tiêu tuyển dụng giáo viên mới không tăng, dẫn đến tình trạng số giáo viên
mầm non được đào tạo chính quy, chưa được tuyển dụng gây ra sự lãng phí
chất xám trên địa bàn huyện Phú Giáo hiện nay.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, cần thiết phải có những giải pháp
quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên, nhằm duy trì và phát triển đội ngũ giáo
viên mầm non của huyện một cách bền vững, đủ về số lượng, chuẩn hoá và
đồng bộ về trình độ chuyên môn, có sự kế thừa để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non,
hoàn thành “phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi” [29, tr.131]. Thực tế hiện nay,
vấn đề quản lý giáo viên nói chung, quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên
mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo nói riêng, chưa có bất cứ một công
trình, đề tài nào nghiên cứu tới. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả
chọn vấn đề: “Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn
huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, năng lực chuyên môn cho
những người làm công tác giảng dạy đã được các nhà giáo dục ở cả phương


6
Tây và phương Đông đề cập đến. J.A.Kômenxki (1592 - 1670), nhà giáo
dục tiêu biểu người Cộng hòa Séc, Ông đề cao vai trò to lớn của giáo dục,
của nhà trường trong việc hình thành, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách
con người mà ông gọi là “xưởng rèn nhân cách”. Với vị trí chức năng của
nghề dạy học, J.A.Kômenxki yêu cầu người giáo viên phải mẫu mực, trong
sáng về đạo đức và tác phong, giỏi về chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của
nghề nghiệp và đó cũng là lương tâm, trách nhiệm, uy tín của giáo viên.

Tuy nhiên, do hạn chế của xã hội đương đại lúc bấy giờ, Ông chưa chỉ rõ
con đường để thực hiện quản lý có hiệu quả việc đào tạo, bồi dưỡng cho
đội ngũ giáo viên.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời với quan điểm duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, hệ thống tư tưởng giáo dục mác xít đã làm cho khoa học giáo dục
nói chung, quản lý giáo dục nói riêng có sức sống mới, có giá trị lý luận và
giá trị chỉ đạo thực tiễn to lớn. Nền giáo dục của giai cấp vô sản được hình
thành, phát triển, đòi hỏi phải có một đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng cơ
bản về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
sư phạm để đào tạo ra lớp người lao động có tri thức, tay nghề, tích cực chủ
động trong sản xuất tạo ra của cải, vật chất góp phần xây dựng xã hội mới, xã
hội chủ nghĩa mà ở đó con người được tự do, bình đẳng, được chăm lo phát
triển toàn diện về phẩm chất và năng lực. Vì vậy, xã hội cần phải quan tâm
đến công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên về mọi mặt, trong đó đặc
biệt quan tâm đến quản lý chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội giáo viên. Đặc
biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi xã hội loài người đang tiến dần
tới nền kinh tế tri thức thì việc nghiên cứu xây dựng các biện pháp để quản lý
quá trình đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên cũng như quản lý
chất lượng đội ngũ giáo viên có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.


7
Ở Việt Nam, kiên trì đường lối phát triển giáo dục theo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục phát huy truyền thống hiếu
học của nhân dân ta, Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối phát triển giáo dục
thời kỳ mới. Trong đó, quản lý toàn diện về chất lượng đội ngũ giáo viên, đảm
bảo cho đội ngũ giáo viên vừa hồng vừa chuyên là yêu cầu cấp thiết, là khâu
then chốt, là tiền đề căn bản để phát triển sự nghiệp giáo dục của dân tộc.
Chính vì vậy, nhiều công trình, đề tài tập trung nghiên cứu về quản lý đội ngũ
giáo viên nói chung và quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng như:

Hội thảo toàn quốc về “Quản lý giáo dục còn hạn chế - thực trạng và
giải pháp”, do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Hà Nội tháng 04/2005, đã
nêu lên các nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế, yếu kém
trong quản lý giáo dục. Trong đó, nguyên nhân do năng lực đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục còn hạn chế; đội ngũ giáo viên vừa thừa, vừa thiếu, vừa
không đồng bộ, được các đại biểu nhấn mạnh trong hội thảo.
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc trong cuốn sách “Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”, đã khẳng định đội ngũ giáo viên là một yếu tố
quyết định đến sự phát triển giáo dục, đào tạo nói riêng, phát triển phẩm chất,
năng lực cho con người nói chung. Trong bài viết, tác giả đưa ra những chuẩn
quy định về phẩm chất nhân cách, năng lực sư phạm của người giáo viên và
coi đó như là tiêu chí để đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
Tác giả Bùi Minh Hiền cho rằng nội dung phát triển đội ngũ giáo viên
phải coi trọng ba vấn đề chủ yếu: Đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu. Tác giả đã chỉ ra những điều cần chú ý phát triển đội ngũ
giáo viên trong khâu kế hoạch, khâu tổ chức - chỉ đạo, khâu kiểm tra; đồng
thời chỉ ra biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên là phải kết hợp hài hòa các
yếu tố như: Người lãnh đạo nhà trường phải gương mẫu, các giáo viên phải
hiểu được nhiệm vụ, quyền hạn của mình, được giúp đỡ để thực hiện quyền tự


8
chủ trong tổ chức đào tạo, tạo ra được mối liên hệ giữa các cá nhân hợp lý;
nhà trường xác định được sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược hành động, xây
dựng được hệ thống thông tin quản lý giáo dục minh bạch, công khai, xây
dựng được một hệ giá trị tạo nên văn hóa đặc trưng của nhà trường phù hợp
với hệ giá trị tiên tiến của đất nước…[21].
Liên quan đến vấn đề quản lý đội ngũ giáo viên, đã có nhiều công trình
nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ của Lê Đình Huấn (2010) “Thực trạng công
tác quản lý phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Bình

Phước ”; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Hường (2002) “Một số giải pháp
quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trường Trung học Phòng không”. Luận
văn thạc sĩ của Đỗ Ngọc Mỹ (2002) “Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo
viên trường Trung học Kỹ thuật Lý Tự Trọng”; tác giả Dương Đức Sáu, trong
luận văn thạc sĩ của mình, tập trung nghiên cứu “Các biện pháp quản lý đội
ngũ giáo viên Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Bình”; Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Đức Cường, nghiên cứu: “Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên các
trường trung học phổ thông thành phố Yên Bái trong giai đoạn hiện nay”; Luận
văn thạc sĩ của Trần Danh Phương, đề cập tới: “Các biện pháp quản lý, phát
triển đội ngũ giáo viên Trường Trung cấp y tế Hải Phòng giai đoạn 20062010”; Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Thu Huyền, nghiên cứu: “Các biện pháp
xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường trung học phổ
thông bán công trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”; Luận văn thạc sĩ của
Phạm Đình Ly, nghiên cứu: “Các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý trường trường trung học phổ thông tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2006-2010”. Tác giả Nguyễn Kỷ Trung với đề tài “Thực trạng và biện
pháp quản lý đội ngũ giảng viên ở trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh”, tác giả nêu lên những ưu, nhược điểm và các giải pháp trong công tác
xây dựng, phát triển và quản lý có hiệu quả đội ngũ giáo viên của nhà trường.


9
Nghiên cứu các đề tài luận văn cho thấy nội dung trong từng đề tài đã
nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm
và đề xuất các giải pháp để thực hiện công tác quản lý việc đào tạo, phát triển
đội ngũ giáo viên ở các góc độ, phạm vi và tại các địa phương khác nhau như
Hải phòng, Quảng Nam, thành phố Hồ Chí Minh... Đây là những gợi mở, chỉ
dẫn tạo thuận lợi cho tác giả tiếp cận vấn đề, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài
nghiên cứu về quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non. Ngoài ra còn có
nhiều công trình, bài viết về quản lý và phát triển đội ngũ giáo viên nói chung.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên chưa

nhiều và chưa có bất cứ một công trình nào nghiên cứu về quản lý chất lượng
đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.
Như vậy, cùng với sự nghiệp đổi mới giáo dục, đào tạo, đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu, đề cập đến các biện pháp quản lý đào tạo, bồi dưỡng,
chuẩn hóa nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ giáo viên để bảo
đảm đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, chất lượng giáo viên không ngừng
nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo của
đất nước. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào về các biện
pháp quản lý, phát triển đội ngũ giáo viên, nhất là quản lý chất lượng đội ngũ
giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Do vậy,
tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề “Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên
mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương” nhằm góp phần đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục bậc học mầm
trên địa bàn huyện Phú Giáo hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá đúng thực trạng quản lý chất
lượng đội ngũ giáo viên, đề xuất một số biện pháp quản lý chất lượng đội ngũ


10
giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc học mầm non.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên nói
chung và giáo viên mầm non nói riêng.
Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm
non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.
Xây dựng biện pháp quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non trên
địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo,
tỉnh Bình Dương.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Phú
Giáo, tỉnh Bình Dương.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đề xuất các biện pháp quản lý chất lượng
đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.
Các số liệu điều tra, khảo sát tính từ năm 2007 - 2012.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh
Bình Dương hiện nay phụ thuộc vào sự tác động của nhiều yếu tố. Nếu làm
tốt công tác nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất và năng lực quản lý cho
đội ngũ cán bộ quản lý; làm tốt việc tuyển dụng giáo viên mầm non; quản lý,


11
thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ giáo
viên mầm non đủ số lượng, có chất lượng cao về phẩm chất, năng lực; chất
lượng dạy học, giáo dục và chăm sóc các cháu của đội ngũ giáo viên được
nâng cao và thúc đẩy hoạt động tự quản lý của đội ngũ giáo viên mầm non thì
việc quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên sẽ đạt hiệu quả cao, góp phần thiết
thực nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc học mầm non của huyện Phú Giáo.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên nền tảng các quan điểm, tư tưởng
về giáo dục và quản lý giáo dục của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời quán

triệt, vận dụng sâu sắc quan điểm hệ thống, cấu trúc, logic, lịch sử và quan
điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục, từ đó định hướng cho việc
tiếp cận đối tượng nghiên cứu và luận giải các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Thực hiện việc thu thập, nghiên cứu tài liệu; phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá, khái quát hoá các tài liệu về giáo dục, đào tạo, đặc biệt là những tài
liệu liên quan đến quản lý giáo viên như: nghị quyết của các cấp ủy đảng, các
văn bản, chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; kế hoạch quản lý
giáo dục nói chung, quản lý đội ngũ giáo viên nói riêng của Sở Giáo dục và
Đào tạo tỉnh Bình Dương, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Phú Giáo và của
các trường mầm non trên địa bàn huyện.
Nghiên cứu các sản phẩm, công cụ quản lý như: chương trình, quy trình
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ giáo viên đã thực hiện
trong những năm gần đây; bài giảng và kế hoạch công tác của giáo viên, hệ
thống sổ sách của cán bộ quản lý nhà trường.


12
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát sư phạm: quan sát việc quản lý các buổi họp hội
đồng, sinh hoạt chuyên môn. Quan sát hoạt động dạy học, tổ chức vui chơi cho
các cháu của giáo viên.
Phương pháp điều tra: điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến (hỏi) đối
với 12 cán bộ, chuyên viên của phòng giáo dục và đào tạo, 36 cán bộ quản lý,
212 giáo viên ở các trường mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm quản lý: nghiên cứu kết quả hoạt
động của đội ngũ giáo viên thông qua các báo cáo tổng kết năm học của các
trường mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo.
Phương pháp chuyên gia: trao đổi, tham khảo ý kiến của một số nhà

khoa học, cán bộ phòng giáo dục và đào tạo, hiệu trưởng, giáo viên ở một số
trường mầm non trên địa bàn huyện Phú Giáo.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hoá và khái quát hoá lý luận về quản lý chất
lượng đội ngũ giáo viên mầm non.
Đề xuất biện pháp quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non trên
địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo
cho cán bộ quản lý giáo dục nói chung, quản lý trường mầm non nói riêng
trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương
8. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận
và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục.


13
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm quản lý trường mầm non
Nghiên cứu Luật Giáo dục năm 2005 sửa đổi năm 2009 cho thấy nhà
trường trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, trường mầm non nói
riêng, có nhiệm vụ và quyền hạn: “Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt
động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp
văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền; tuyển dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ,
nhân viên; tham gia vào quá trình điều động của các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền đối với nhà giáo, cán bộ, nhân viên”... Đồng thời, có
“các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật” [32].
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong

phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành người lao
động có phẩm chất, năng lực, có khả năng thực hành tự chủ. Quản lý nhà
trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường, đứng đầu là hiệu trưởng và
cơ quan chức năng tiến hành. Hoạt động quản lý nhà trường bao gồm quản lý
giáo viên, học sinh; quản lý quá trình dạy học, giáo dục; quản lý cơ sở vật
chất và thiết bị trường học; quản lý tài chính và quản lý mối quan hệ giữa nhà
trường và cộng đồng. Quản lý nhà trường còn là những tác động quản lý của
các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên, những quyết định, hướng dẫn của các
thực thể bên ngoài nhà trường có liên quan trực tiếp đến nhà trường (như hội
đồng giáo dục), góp phần định hướng, hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhà trường
hoạt động đạt hiệu quả và ngày càng phát triển.


14
Từ những lý giải về quản lý nhà trường nói chung, theo tác giả: “Quản lý
trường mầm non là trách nhiệm của cơ quan chức năng, ban giám hiệu đứng
đầu là hiệu trưởng và cơ quan của nhà trường nhằm tổ chức và huy động tối đa
nguồn lực của các lực lượng, giáo viên và học sinh để thực hiện nhiệm vụ dạy
học, giáo dục góp phần đưa chất lượng giáo dục mầm non đạt tới mục tiêu dự
kiến và tiến lên trạng thái mới về chất”.
Như vậy, quản lý trường mầm non là một chuỗi các tác động hợp lý (có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống) mang tính tổ chức, tính sư phạm của chủ
thể quản lý, đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng trong và
ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp tham gia vào
các hoạt động của nhà trường để làm cho công tác quản lý vận hành tốt, hoàn
thành những mục tiêu dự kiến.
1.1.2. Khái niệm đội ngũ giáo viên và chất lượng đội ngũ giáo viên
mầm non
* Khái niệm đội ngũ giáo viên

“Đội ngũ”, theo cách giải thích của Đại từ điển tiếng Việt đó là: “tập
hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một
lực lượng” [44]. Như vậy, đội ngũ được cấu thành từ các thành tố như: một
tập thể người, cùng chung một chức năng, có cùng mục đích, làm theo kế
hoạch và gắn bó với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ với tổ chức và xã hội. Khi
xem xét một đội ngũ, thông thường người ta quan tâm đến 3 yếu tố cơ bản, đó
là số lượng đội ngũ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ (bao gồm phẩm chất và
năng lực) và cơ cấu đội ngũ (bao gồm giới tính, độ tuổi…).
“Giáo viên”, theo Điều 70, Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 chỉ rõ: nhà
giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và
các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà giáo giảng


15
dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
gọi chung là giáo viên [32, tr.22]. Giáo viên trong các cơ sở giáo dục mầm
non là người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhà
trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập [4, tr.19].
Từ cách tiếp cận về đội ngũ và giáo viên nói chung, tác giả quan niệm:
“Đội ngũ giáo viên mầm non là một tập thể các nhà sư phạm, có đủ về số
lượng, cân đối về cơ cấu, có chất lượng cao về phẩm chất, năng lực, cùng
chung một chức năng giáo dục, đào tạo, là chuyên gia trong lĩnh vực giáo
dục, chăm sóc trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”. Với khái niệm này cho thấy:
Đội ngũ giáo viên mầm non là tập hợp những người tham gia công tác
giảng dạy, giáo dục trong các trường mầm non và các cơ sở giáo dục tư thục,
dân lập khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, được tổ chức thành một lực
lượng, có cùng nhiệm vụ là giảng dạy, giáo dục, chăm sóc các cháu có độ tuổi
từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. Với tư cách là nhà sư phạm, đội ngũ giáo viên mầm
non trực tiếp đóng góp trí tuệ và sức lực nhằm giáo dục cho các cháu ở lứa
tuổi nhà trẻ, mẫu giáo phát triển trí tuệ, hình thành nhân cách, đáp ứng đòi hỏi

khách quan của xã hội trong việc chăm lo cho thế hệ trẻ. Lao động của đội
ngũ giáo viên là lao động trí óc, lao động khoa học, lao động đặc thù nhằm
tạo ra sản phẩm đặc biệt là con người có ý thức, có tình cảm, có tinh thần
trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội.
Bên cạnh số lượng, cơ cấu, phẩm chất nhân cách nói chung của đội ngũ
giáo viên mầm non được thể hiện thông qua phẩm chất chính trị, thế giới quan
khoa học, niềm tin, lý tưởng và phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi giáo
viên. Năng lực nghề nghiệp của tập thể giáo viên trong nhà trường được biểu
hiện thông qua năng lực chuyên môn của từng giáo viên và thể hiện ở xu
hướng sư phạm, thái độ, trách nhiệm đối với hoạt động dạy học, sẵn sàng hiến
dâng đời mình cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
những nhân tài tương lai cho đất nước.


16
Để có một đội ngũ giáo viên mầm non với cơ cấu hợp lý về tuổi đời, có
phẩm chất nhân cách tốt, có thâm niên nghề nghiệp, kinh nghiệm giảng dạy,
trình độ học vấn cao, thì công tác quản lý phải có những nội dung, biện pháp
và hình thức quản lý phù hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương.
* Khái niệm chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non
Thuật ngữ “chất lượng” phản ánh thuộc tính đặc trưng về giá trị, bản chất
của sự vật, tạo nên sự khác biệt về chất giữa sự vật này với sự vật khác. Theo
quan điểm triết học, chất lượng là kết quả của quá trình tích lũy về lượng tạo
nên những bước nhảy vọt về chất của sự vật và hiện tượng.
Tiếp thu tính hợp lý của quan điểm triết học về chất lượng, dưới góc độ
quản lý giáo dục, tác giả đưa ra khái niệm chất lượng đội ngũ giáo viên mầm
non như sau: “Chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non là tổng hợp của yếu tố
số lượng, cơ cấu, phẩm chất nhân cách, năng lực chuyên môn được hình
thành, phát triển, hoàn thiện trong công tác và được phản ánh thông qua kết
quả thực hiện nhiệm vụ”. Với quan niệm trên, có thể hiểu chất lượng đội ngũ

giáo viên mầm non ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non không phải là những
con số đơn thuần cộng lại của các yếu tố về số lượng, cơ cấu trong đội ngũ và
phẩm chất nhân cách, năng lực chuyên môn sư phạm của từng giáo viên mà là
tổng hợp các yếu tố về số lượng, cơ cấu độ tuổi, chuyên môn, phẩm chất,
năng lực sư phạm của cả tập thể giáo viên.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ giáo viên được biểu hiện ở phẩm chất chính
trị, ý thức trách nhiệm, động cơ công tác, năng lực chuyên môn (mức độ nắm
kiến thức, khả năng vận dụng kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm) của mỗi giáo viên
vào giảng dạy, chăm sóc các cháu học sinh nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu,
yêu cầu giảng dạy, giáo dục của nhà trường.


17
Thứ ba, chất lượng đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên mầm non nói
riêng được hình thành, phát triển, hoàn thiện thông qua học tập, rèn luyện và
công tác chuyên môn. Do vậy, khi xem xét, đánh giá chất lượng đội ngũ giáo
viên phải tiến hành một cách toàn diện, từ những yếu tố đầu vào, những yếu tố
của quá trình đào tạo, yếu tố đầu ra và thực tiễn công tác của đội ngũ giáo viên.
1.1.3. Khái niệm quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non
Từ khái niệm quản lý trường mầm non, đội ngũ giáo viên và chất lượng
đội ngũ giáo viên mầm non, tác giả cho rằng quản lý chất lượng đội ngũ giáo
viên mầm non: “Là tổng thể các cách thức, biện pháp của sự tác động có mục
đích, có kế hoạch thông qua chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan quản lý
cấp trên, ban giám hiệu đứng đầu là hiệu trưởng và cơ quan chức năng trong
nhà trường nhằm quản lý số lượng, cơ cấu, hiểu rõ phẩm chất, năng lực chuyên
môn, kinh nghiệm giảng dạy, giáo dục học sinh của đội ngũ giáo viên nhằm đạt
mục tiêu giáo dục, đào tạo và chăm sóc các cháu ở bậc học mầm non”.
Đội ngũ giáo viên mầm non, bên cạnh những đặc điểm chung của giáo
viên thì giáo viên mầm non có tính đặc thù như: đặc điểm lao động của họ

luôn thể hiện ba chức năng là chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ thơ, lấy quan
hệ tình cảm yêu thương mẹ - con làm yếu tố quyết định. Vì thế, lòng yêu trẻ là
phẩm chất số một trong nhân cách một giáo viên mầm non. Trong công tác
luôn hết lòng yêu thương, tôn trọng trẻ, là tấm gương hàng ngày đối với
chúng, thiết tha, hứng thú với nghề nghiệp. Có tấm lòng nhân hậu, vị tha,
công bằng, tế nhị và chu đáo với trẻ. Có ý chí cao, tính tình cởi mở, cứng rắn
nhưng lại kiên nhẫn và biết tự kiềm chế. Có kiến thức và những kỹ năng cần
thiết (học vấn phổ thông, đặc điểm tâm sinh lý trẻ từ 0 đến 6 tuổi); có năng
lực sư phạm riêng biệt như múa, hát, đọc và kể diễn cảm…
Bên cạnh đó, giáo viên mầm non hiện trung bình phải làm việc 12 tiếng
mỗi ngày, không kể thời gian soạn giáo án buổi tối ở nhà, làm đồ chơi vào các


18
ngày nghỉ. Trong khi trẻ là đối tượng rất đặc thù, chưa ý thức được hành vi
nên rất hay nghịch ngợm, tranh giành nhau,... nên công việc của giáo viên
mầm non hết sức vất vả và đối mặt với nhiều rủi ro trong khi đồng lương eo
hẹp, cần có những chính sách đãi ngộ tốt hơn cho giáo viên, giúp giáo viên
yên tâm công tác với nghề.
Chính từ đặc điểm của đội ngũ giáo viên mầm non, nên việc quản lý
chất lượng đội ngũ giáo viên cần phải tác động một cách có mục đích, kế
hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng được quản lý nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong giảng dạy,
giáo dục, chăm sóc các cháu học sinh, thông qua đó rèn luyện kỹ năng,
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm góp phần hoàn thiện phẩm chất nhân cách,
năng lực chuyên môn sư phạm cho đội ngũ giáo viên theo yêu cầu của ngành
giáo dục. Với quan niệm đó, quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non
bao hàm:
Một là, quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non vừa mang đầy đủ
đặc trưng của quản lý xã hội, quản lý trường học vừa mang tính chất đặc thù

của quản lý trường mầm non. Hoạt động này được tổ chức chặt chẽ theo luật
giáo dục, quy chế, qui định về giáo dục, đào tạo bậc học mầm non, đặt dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, ban giám hiệu nhà trường.
Hai là, mục đích quản lý đội ngũ giáo viên nhằm nắm chắc tình hình
mọi mặt, kết quả dạy học, giáo dục của giáo viên làm cơ sở đánh giá đúng
diễn biến, kết quả giáo dục, đào tạo để tiếp tục tiến hành, hoàn thiện quá trình
giáo dục, đào tạo của nhà trường; đồng thời tác động, điều khiển, uốn nắn
giáo viên, giúp họ tích cực trong công tác, học tập, thực hiện tốt nhiệm vụ mà
nhà trường giao cho. Thông qua quản lý để định hướng cho giáo viên xây
dựng ý chí quyết tâm, lòng yêu nghề, tích cực rèn luyện, ngày càng hoàn thiện
phẩm chất nhân cách, năng lực chuyên môn sư phạm để trở thành những giáo


19
viên giỏi về chuyên môn, đủ đức, đủ tài, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục,
đào tạo của nhà trường giao cho.
Ba là, nội dung quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên bao gồm quản lý
về số lượng, cơ cấu, phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, chuyên
môn nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giáo viên…
Bốn là, chủ thể quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường
bao gồm ban giám hiệu đứng đầu là hiệu trưởng, các cơ quan chức năng cấp
trên, cùng cấp và chính bản thân mỗi giáo viên trong nhà trường.
Năm là, khách thể quản lý là đội ngũ giáo viên và hoạt động giảng dạy,
giáo dục, tự học, tự rèn luyện của giáo viên trong suốt quá trình công tác tại
nhà trường. Như vậy, giáo viên và đội ngũ giáo viên vừa là khách thể, vừa là
chủ thể trong quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên. Điều đó đặt ra yêu cầu
khách quan về mục tiêu, kế hoạch, nội dung, phương pháp, thời gian và không
gian để xác định các biện pháp quản lý một cách khoa học, có tính khả thi cao
và phù hợp với hoạt động của đội ngũ giáo viên.
1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chất lượng đội

ngũ giáo viên mầm non
1.2.1. Nội dung quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non
Chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non phải được đánh giá toàn diện và
đồng bộ cả về cơ cấu, số lượng, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống và trình
độ chuyên môn của nhà giáo. Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên được thực
hiện dựa trên cơ sở của Quyết định 02/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 22/01/2008
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐ ngày
22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chuẩn giáo
viên hiện nay và các quy định của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Dương,
Phòng giáo dục và Đào tạo huyện Phú Giáo. Hiện nay, chuẩn của giáo viên
(tạm quy về) cơ bản đạt yêu cầu ở 3 khía cạnh là: chuẩn về phẩm chất chính


20
trị, đạo đức lối sống; chuẩn về trình độ chuyên môn; chuẩn kỹ năng sư phạm
của người thầy [7].
Một là, quản lý về số lượng giáo viên
Phát triển đội ngũ giáo viên có đủ về số lượng theo Quyết định số
27/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 20/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc ban hành Điều lệ Trường mầm non và định mức biên chế theo
Thông tư liên tịch số 71/2007/TTLT-BGDĐT-BNV ban hành ngày 28/11/2007
về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở giáo dục mầm non
công lập giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ. Thông tư chỉ rõ: “Đối
với nhóm trẻ: bình quân mỗi giáo viên nuôi dạy 8 trẻ. Nếu nhiều hơn 5 trẻ thì
được bố trí thêm một giáo viên; đối với lớp mẫu giáo: lớp không có trẻ bán
trú: 1 giáo viên phụ trách một lớp có từ 20 đến 25 trẻ; lớp có trẻ bán trú: 2
giáo viên phụ trách một lớp có từ 25 đến 30 trẻ; lớp mẫu giáo nếu nhiều hơn
10 trẻ thì được bố trí thêm một giáo viên”. Do vậy, cần chuẩn bị đội ngũ giáo
viên kế cận để sẵn sàng bổ sung, thay thế kịp thời những trường hợp có giáo
viên chuyển công tác, nghỉ hưu, sức khỏe yếu hoặc khả năng không còn đảm

đương được nhiệm vụ được giao...
Hai là, quản lý cơ cấu đội ngũ giáo viên
Quản lý cơ cấu đội ngũ giáo viên, đảm bảo sự tương thích về tuổi đời;
tương thích về trình độ nghiệp vụ sư phạm (người có tay nghề cao và bình
thường). Trong giai đoạn hiện nay, cần phát triển đội ngũ giáo viên trẻ có khả
năng tiếp thu và vận dụng khoa học, công nghệ vào công tác giảng dạy, đồng
thời phải bảo đảm tính kế thừa, hợp lý về cơ cấu trong hoạt động của nhà
trường, phù hợp với năng lực và điều kiện công tác, cơ chế quản lý, điều hành
của nhà quản lý.
Để có một đội ngũ giáo viên mầm non đồng bộ, phải có một cơ cấu hợp
lý, bao gồm cơ cấu về độ tuổi, thâm niên giảng dạy, trình độ học vấn. Đây là


21
những yếu tố quan trọng của công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
đội ngũ giáo viên hiện nay. Do đó, quản lý đội ngũ giáo viên nói chung, quản
lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non nói riêng để sử dụng có hiệu quả
cần phải có những nội dung, phương pháp và hình thức quản lý cơ cấu đội
ngũ giáo viên một cách linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của ngành và tình
hình thực tiễn của nhà trường.
Ba là, quản lý phẩm chất nhân cách, đạo đức lối sống của đội ngũ
giáo viên
Nhà quản lý cần nghiên cứu nắm vững việc chấp hành chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; thi hành nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật. Động viên giáo viên không ngừng học tập, rèn
luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng
dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có ý thức tổ chức kỷ
luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức; có ý thức tập
thể, phấn đấu vì lợi ích chung. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích
cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội [5].

Nắm chắc đạo đức lối sống của đội ngũ giáo viên, bảo đảm cho giáo
viên có lối sống trong sạch, lành mạnh; có tinh thần đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao
dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với người học, đồng nghiệp; tâm huyết với
nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; sẵn sàng giúp
đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng
nghiệp và cộng đồng. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy
chế, nội quy của nhà trường, của ngành. Công bằng trong giảng dạy và giáo
dục; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng
phí. Thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc; thường xuyên học tập
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành


22
tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo
dục, đào tạo.
Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần
phấn đấu với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có lối
sống hòa nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với
sự tiến bộ của xã hội; luôn ủng hộ, khuyến khích lối sống có văn hóa, tiến bộ
và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ. Tác phong làm việc
nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan
hệ xã hội, giao tiếp với đồng nghiệp, với học sinh, giải quyết công việc khách
quan, tận tình, chu đáo. Trang phục, trang sức luôn gọn gàng, giản dị, lịch sự,
phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của
người học. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học
sinh, đồng nghiệp và học sinh; thực hiện nếp sống có văn hóa nơi công cộng.
Bốn là, quản lý năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên
Đây là nội dung đặc biệt quan trọng của công tác quản lý chất lượng đội

ngũ giáo viên mầm non, quản lý năng lực chuyên môn nghiệp vụ nhằm giúp
cho giáo viên có được những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp
vụ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục ở bậc học mầm non trong tình
hình mới. Hoạt động quản lý năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
giáo viên cần tập trung vào các vấn đề sau:
Quản lý năng lực dạy học của giáo viên, đây là nội dung quản lý quan
trọng nhất đối với đội ngũ giáo viên. Bởi vì, hoạt động dạy học của giáo viên
được thực hiện trong suốt cả năm học, chiếm nhiều thời gian nhất, đồng thời
là nhân tố quyết định sự thành công của chương trình giáo dục mầm non hiện
nay. Yêu cầu về năng lực dạy học của giáo viên là phải nắm vững được kiến
thức chuyên môn; luôn chủ động cập nhật kiến thức mới; thực hiện đa mục


23
tiêu, nội dung dạy học theo yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ; có khả
năng vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp dạy học và phát huy được
tính tích cực của các cháu học sinh; sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ
thuật dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học và phù hợp với lứa tuổi
của các cháu học sinh.
Quản lý năng lực giáo dục của đội ngũ giáo viên, đây là nhiệm vụ
thường xuyên của người quản lý, nhằm đánh giá đúng khả năng, trình độ của
đội ngũ giáo viên trong thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện về đức, trí, thể,
mỹ, giúp các cháu học sinh từng bước làm quen với việc học chữ, hình thành
phẩm chất nhân cách, đạo đức, lối sống trong sáng cho các cháu.
Cán bộ làm công tác quản lý, cần kiểm tra đánh giá giáo viên một cách
khách quan, công tâm thông qua hoạt động chuyên môn, nhằm giúp giáo viên
phát triển, hoàn thiện về phẩm chất nhân cách, năng lực chuyên môn nghiệp
vụ sư phạm. Do vậy, khi đánh giá giáo viên phải bảo đảm đúng quy định,
công khai, công bằng và chính xác để có hướng sử dụng trong tương lai.
Năm là, quản lý tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ giáo

viên mầm non
Quản lý công tác tuyển dụng giáo viên: “Tuyển dụng là công việc xét
chọn người thích hợp và nhận vào làm việc” [44]. Nhiệm vụ tuyển dụng giáo
viên là xúc tiến các hoạt động để lựa chọn được những người phù hợp với yêu
cầu tuyển dụng vào một vị trí công tác nhất định của nhà trường.
Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên: “là một loạt
các hoạt động được tổ chức có hệ thống để trang bị cho người lao động
nhận thức, kỹ năng tay nghề và động lực thực hiện công việc” [30, tr.338].
Nội dung cơ bản của quá trình quản lý đào tạo, bồi dưỡng nhằm trang
bị cho giáo viên những kiến thức chuyên môn để hình thành, phát triển và


24
hoàn thiện phẩm chất, năng lực, các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, giúp
giáo viên thực hiện tốt hơn các công việc được tổ chức phân công. Kết quả
của quá trình đào tạo, bồi dưỡng là sự hoàn thiện về phẩm chất nhân cách,
phát triển và hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng các yêu cầu ngày càng
cao về chất lượng đội ngũ giáo viên của nhà trường.
Quản lý công tác sử dụng đội ngũ giáo viên. Ngay từ đầu năm học,
hiệu trưởng phân công chuyên môn và yêu cầu giáo viên xây dựng kế hoạch
giảng dạy của mình dựa trên các nhiệm vụ đã được phân công. Cuối năm
học, trên cơ sở ý kiến đánh giá của các bộ phận quản lý giáo viên, hiệu
trưởng tổ chức đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên dựa trên
kết quả giảng dạy, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và các
mặt công tác khác.
Sáu là, quản lý việc đánh giá giáo viên
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp đến hiệu quả
giáo dục ở các trường mầm non chính là trình độ năng lực dạy học, giáo dục,
chăm sóc các cháu của đội ngũ giáo viên. Đánh giá giáo viên về phẩm chất,
năng lực, kỹ năng sư phạm phải nắm chắc quy định của Bộ Giáo dục và Đào

tạo về chuẩn trình độ chuyên môn, chức danh khoa học, phẩm chất chính trị,
năng lực sư phạm và phù hợp với các quy định của cơ quan chức năng, sự
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Trình độ chuyên môn sư phạm của giáo viên mầm non hiện nay được
các cơ quan giáo dục, cơ quan chức năng đánh giá, xem xét thông qua các văn
bằng mà giáo viên đã đạt được. Tuy nhiên, trên thực tế bằng cấp chỉ là một
trong những tiêu chí cần có khi tuyển dụng, còn thực tế trình độ chuyên môn
sư phạm của giáo viên phải được thể hiện ở năng lực giảng dạy, kỹ năng sư
phạm trong thu hút các cháu vào bài giảng và khả năng tiếp thu của các cháu
thông qua mỗi buổi dạy, bài học cụ thể.


×