Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng chống bệnh sốt xuất huyết dengue tại hai huyện, tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.28 MB, 144 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
------------***------------PHÙNG NGỌC TÁM

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỂ VÀ HIỆU QUẢ CAN
THIỆP CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT XUẤT
HUYẾT DENGUE TẠI HAI HUYỆN, TỈNH BẾN TRE

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Thái Nguyên, năm 2018


ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
------------***------------PHÙNG NGỌC TÁM

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỂ VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP
CỘNG ĐỒNG PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT
DENGUE TẠI HAI HUYỆN, TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành tuyển sinh đầu vào : Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế
Mã số

: 62720164

Chuyên ngành chuyển đổi


: Y tế công cộng

Mã số

: 9720701
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Tuấn Hưng
PGS.TS. Đàm Thị Tuyết

Thái Nguyên, năm 2018


iii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng năm 2018

Phùng Ngọc Tám


iv

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng và cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, các Phòng, Bộ
môn và các Thầy giáo, Cô giáo, cán bộ Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái
Nguyên đã trang bị cho tôi kiến thức, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá

trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành
tới PGS.TS Nguyễn Tuấn Hưng – Vụ Tổ Chức Cán Bộ - Bộ Y Tế; PGS.TS Đàm Thị
Tuyết – Trưởng Khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên,
là những người Thầy, Cô đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và định
hướng cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các cán bộ và nhân viên Khoa Y
tế công cộng, Ban giám hiệu Trường Trung cấp Y tế Bến Tre đã giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu đề tài Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Sở Y Tế tỉnh Bến Tre, Ban giám đốc
Trung Tâm Y Tế Dự Phòng tỉnh Bến Tre, Ban giám đốc Trung Tâm Y tế huyện Châu
Thành, Ban giám đốc Trung Tâm Y tế huyện Mỏ Cày Nam, các anh, chị, em cán bộ,
nhân viên y tế xã và các anh, chị, em cộng tác viên xã hội đã nhiệt tình hợp tác, giúp
đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận án, tôi đã nhận được sự động viên,
chia sẻ, giúp đỡ của gia đình, anh, chị, em, bạn bè, đồng nghiệp, những người thân.
Tôi xin phép được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng

năm 2018

Phùng Ngọc Tám


v

BẢNG CÁC KÝ HIỆU, BẢNG CHỮ
Viết tắt
Ae. aegypti


VIẾT TẮT

Ý nghĩa chữ
Aedes aegypti

Ae. albopictus Aedes albopictus
BI

Breteau Index
(Chỉ số DCCN có bọ gậy/lăng quăng/100 nhà điều tra)

CI

Container Index
(Chỉ số DCCN có bọ gậy/ 100 DCCN điều tra)

CSHQ

Chỉ số hiệu quả

CSMĐM

Chỉ số mật độ muỗi

CSMĐBG

Chỉ số mật độ bọ gậy

CBYT


Cán bộ y tế

COMBI

Applying Commmunication-for-Behavioural-Impact
(Áp dụng truyền thông tác động về hành vi)

CTV

Cộng tác viên

DEN-1

Dengue typ 1

DEN-2

Dengue typ 2

DEN-3

Dengue typ 3

DEN-4

Dengue typ 4

DI


Density Index (Chỉ số mật độ muỗi/ Số nhà điều tra)

DCCN

Dụng cụ chứa nước

DCPT

Dụng cụ phế thải

ELISA

Enzyme Linked Immunorbent Assay
(Thử nghiệm miễn dịch gắn men)

HGĐ

Hộ gia đình

HI

House Index
(Chỉ số nhà có bọ gậy/lăng quăng/100 nhà điều tra)


vi

HQCT

Hiệu quả can thiệp


Mesocyclops

Giáp xác chân chèo Mesocyclops là loài tôm bậc thấp có
khả năng ăn bọ gậy muỗi

IgG, IgM

Immunoglobulin ( Kháng thể)

KAP

Knowledge- Attitude- Practice (Kiến thức- Thái độ- Thực hành)

LQ-BG

Lăng quăng/bọ gậy

PAHO

Pan American Health Organization (Tổ chức y tế phụ trách
Châu Mỹ)

PCSXHD

Phòng chống sốt xuất huyết Dengue

SXHD

Sốt xuất huyết Dengue


SXHS

Sốt xuất huyết Dengue sốc

TTYTDP

Trung tâm Y tế dự phòng

TT-GDSK

Truyền thông - giáo dục sức khoẻ

TTYT

Trung tâm Y tế

TYTX

Trạm y tế xã

YT

Y tế

UBND

Uỷ ban nhân dân

Tổ NDTQ


Tổ Nhân dân tự quản

VSMT

Vệ sinh môi trường

WHO

World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới)

WPRO

Western Pacific Region Office
(Văn phòng khu vực Tây Thái Bình Dương)


vii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

i

LỜI CẢM ƠN

ii

CHỮ VIẾT TẮT


iii

MỤC LỤC

v

DANH MỤC BẢNG

vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

ix

DANH MỤC HÌNH

x

DANH MỤC HỘP

xi

ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3


1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue

3

1.2. Căn nguyên và một số yếu tố liên quan đến bệnh sốt xuất huyết Dengue 10
1.3. Một số biện pháp can thiệp phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue 17
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

28

2.1. Đối tượng nghiên cứu

28

2.2. Địa điểm nghiên cứu

29

2.3. Thời gian nghiên cứu

30

2.4. Phương pháp nghiên cứu

30

2.5. Các chỉ số nghiên cứu

35


2.6. Nội dung và phương pháp can thiệp

36

2.7. Sơ đồ tổng hợp quá trình nghiên cứu

45

2.8. Kỹ thuật thu thập số liệu

46

2.9. Vật liệu nghiên cứu

50

2.10. Phương pháp khống chế sai số

51

2.11. Phương pháp xử lý số liệu

52

2.12. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu

53

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


55


viii

3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học SXHD giai đoạn 2010 - 2014

55

3.2. Hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống SXHD 69
tại 2 huyện Châu Thành và huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến Tre
Chương 4. BÀN LUẬN

81

4.1. Một số đặc điểm dịch tễ học SXHD giai đoạn 2010 - 2014

81

4.2. Hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống SXHD 90
tại 2 xã huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre
4.3. Những hạn chế của đề tài

104

Chương 5. KẾT LUẬN

107

1. Một số đặc điểm dịch tễ SXHD ở huyện Châu Thành và huyện Mỏ Cày 107

Nam, tỉnh Bến Tre giai đoạn năm 2010 – 2014.
2. Hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống SXHD tại 107
2 xã huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre
KHUYẾN NGHỊ

108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

110

Phụ lục


ix

DANH MỤC BẢNG
STT

Nội dung

Trang

Bảng 2.1.

Phân bố hành chính địa phương nghiên cứu

32

Bảng 3.1.


Tình hình mắc, chết do sốt xuất huyết Dengue trên 100.000
dân giai đoạn 2010 - 2014

Bảng 3.2.

Tỷ lệ phân bố mắc SXHD giai đoạn 2010 - 2014 theo tháng
tại huyện Châu Thành và Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre

Bảng 3.3.

Tỉ lệ phân bố mắc SXHD giai đoạn 2010 - 2014 theo nhóm
tuổi

Bảng 3.5.

Phân bố tỷ lệ mắc bệnh SXHD trung bình giai đoạn 2010
- 2014 theo giới tính

Bảng 3.6.

Các chỉ số giám sát côn trùng DI, HI-BG, BI, CI giai đoạn
2010 - 2014

Bảng 3.7

60
61
62
63


Mối tương quan giữa lượng mưa trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Châu Thành

Bảng 3.12.

58

Mối tương quan giữa nhiệt độ trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Mỏ Cày Nam

Bảng 3.11.

58

Mối tương quan giữa nhiệt độ trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Châu Thành

Bảng 3.10.

57

Mối tương quan quan giữa lượng mưa trung bình với số ca
mắc SXHD trung bình giai đoạn 2010 – 2014

Bảng 3.9.

57

Mối tương quan giữa quan giữa nhiệt độ trung bình với số

ca mắc SXHD trung bình giai đoạn 2010 - 2014

Bảng 3.8.

56

Tỷ lệ phân bố mắc sốt xuất huyết Dengue giai đoạn 2010 2014 theo địa dư

Bảng 3.4.

55

64

Mối tương quan giữa lượng mưa trung bình với chỉ số côn
trùng giai đoạn 2010 - 2014 của huyện Mỏ Cày Nam

65


x

Bảng 3.13.

Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.14.

Hiệu quả can thiệp cải thiện kiến thức đúng về muỗi truyền
bệnh của người dân


Bảng 3.15.

72

Hiệu quả can thiệp cải thiện kiến thức - thực hành đúng
trong dự phòng bệnh SXHD của người dân

Bảng 3.18

71

Hiệu quả can thiệp cải thiện thực hành đúng về các biện
pháp dự phòng bệnh SXHD

Bảng 3.17.

70

Hiệu quả can thiệp cải thiện kiến thức đúng về các biện
pháp phòng chống bệnh sốt xuất huyết dengue

Bảng 3.16.

69

73

Giám sát khả năng sống của cá trong các DCCN tại các
điểm nuôi


74

Bảng 3.19.

Giám sát các chỉ số côn trùng trước và sau khi thả cá

75

Bảng 3.20.

So sánh tỷ lệ hộ gia đình đậy kín dụng cụ chứa nước ở xã
can thiệp

Bảng 3.21.

So sánh tỷ lệ dụng cụ chứa nước tại các hộ gia đình có thả
cá trước và sau can thiệp

Bảng 3.22.

75
76

So sánh tỉ lệ mắc/ chết do sốt xuất huyết Dengue tại xã can
thiệp và xã chứng sau 2 năm can thiệp

78



xi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT

Nội dung

Biểu đồ 3.1.

Chỉ số mật độ muỗi Aedes aegypti tại xã can thiệp (A) và

Trang

xã đối chứng (B) sau 2 năm can thiệp

76

Biểu đồ 3.2.

Chỉ số nhà có bọ gậy tại xã can thiệp và xã đối chứng

77

Biểu đồ 3.3.

Chỉ số DCCN có bọ gậy tại xã can thiệp và xã đối chứng

77

Biểu đồ 3.4.


Chỉ số Breteau tại xã can thiệp và xã đối chứng

78


xii

DANH MỤC HÌNH
STT

Nội dung

Trang

Hình 1.1.

Bản đồ phân bố bệnh sốt xuất huyết trên thế giới của WHO

4

Hình 1.2.

Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành

11

Hình 1.3.

Vòng đời và trứng của muỗi Aedes aegypti


13

Hình 1.4.

Khả năng lan truyền vi rút Dengue của muỗi Aedes aegypti

14

Hình 1.5.

Giáp xác Mesocyclops đang ăn bọ gậy muỗi truyền bệnh

21

Hình 1.6.

Muỗi mang vi khuẩn Wolbachia

25

Hình 2.1.

Bản đồ tỉnh Bến Tre

29


xiii


DANH MỤC HỘP
STT

Nội dung

Trang

Hộp 3.1.

Kết quả thảo luận nhóm của người dân và các cộng tác viên

66

Hộp 3.2.

Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo Trung tâm y tế huyện

66

Hộp 3.3.

Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo xã

67

Hộp 3.4.

Kết quả phỏng vấn sâu các lãnh đạo trạm Y tế xã

68


Hộp 3.5.

Kết quả thảo luận nhóm của người dân và các cộng tác viên
sau can thiệp

Hộp 3.6.

79

Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo Trung tâm y tế huyện sau can
thiệp

79

Hộp 3.7.

Kết quả phỏng vấn sâu Phó chủ tịch xã sau can thiệp

80

Hộp 3.8.

Kết quả phỏng vấn sâu các Trưởng trạm y tế xã sau can thiệp 80


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (hay còn gọi là sốt xuất huyết) là bệnh truyền nhiễm

cấp tính do vi rút Dengue gây nên. Bệnh lây truyền từ người sang người qua vật
chủ trung gian truyền bệnh là muỗi Aedes đốt. Bệnh có thể gây thành dịch lớn và
có tỷ lệ tử vong tương đối cao với sự có mặt ở hơn 125 nước trên thế giới [34],
[89], ảnh hưởng đến kinh tế xã hội ở nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới [73],
[77].
Hiện nay sốt xuất huyết Dengue được coi là một trong số các bệnh truyền
nhiễm quan trọng nhất trên thế giới với hơn 50% dân số thế giới sinh sống ở những
nơi có nguy cơ mắc bệnh và khoảng 50% sống ở các quốc gia có lưu hành bệnh
sốt xuất huyết. Theo Tổ chức Y tế thế giới, mỗi năm có khoảng 100 triệu trường
hợp mắc, phần lớn là trẻ em dưới 15 tuổi, tỷ lệ tử vong trung bình khoảng 2,5 5% [73], [115].
Tại Việt Nam, sốt xuất huyết Dengue tập trung chủ yếu tại các tỉnh miền
Nam và miền Trung. Năm 2014, được ghi nhận có 32.049 số ca mắc sốt xuất
huyết và 20 trường hợp tử vong. Theo Bộ Y Tế, năm 2017, cả nước ghi nhận
181.054 trường hợp mắc SXH, trong đó có 152.659 ca nhập viện với 30 trường
hợp tử vong. So với cùng kỳ năm 2016 số ca mắc tăng 2,7%, số ca tử vong giảm
9 trường hợp. Tỷ lệ tử vong của nước ta năm 2017 là 0,03% trên tổng số ca mắc,
thấp hơn các nước như Malaysia (0,23%), Philippines (0,24%), Campuchia
(0,23%)…[1], [9]. Trước đây dịch chỉ xuất hiện ở thành phố, thị xã, nay lan rộng
đến nông thôn. Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp nhưng
SXHD vẫn còn là một vấn đề y tế công cộng to lớn. Theo nghiên cứu thì số tử
vong do SXHD ở khu vực phía Nam chiếm tỉ lệ trên 80% tổng số tử vong của cả
nước [34], [47].
Bến Tre là tỉnh thuộc Đồng Bằng sông Cửu Long với hệ thống sông ngòi,
kênh mương nhiều. Khí hậu tỉnh Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió


2

mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô
từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 đến

2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 260C - 270C. Đây là điều kiện thuận
lợi cho muỗi, lăng quăng phát triển cũng như bệnh sốt xuất huyết xuất hiện. Năm
2015 ghi nhận 1084 ca mắc trong đó có 01 cas tử vong. Năm 2016 số mắc sốt
xuất huyết Dengue của toàn tỉnh là 3.230 ca sốt xuất huyết trong đó có 2 ca tử
vong. Năm 2017, toàn tỉnh ghi nhận 1.132 ca mắc sốt xuất huyết, 01 ca tử vong
[49]. Tuy số ca mắc và tử vong tại tỉnh Bến Tre không phải cao nhất trong khu
vực nhưng diễn biến bệnh sốt xuất huyết vẫn còn phức tạp.
Vậy vấn đề đặt ra là thực trạng Sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bến Tre ra
sao? Các yếu tố nào liên quan đến Sốt xuất huyết Dengue ? Giải pháp nào phù
hợp với cộng đồng để giảm thiểu vấn đề đó? Để trả lời cho những vấn đề trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu quả can
thiệp cộng đồng phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue tại hai huyện tỉnh
Bến Tre”, nhằm thực hiện 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue ở huyện Châu Thành
và huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre giai đoạn năm 2010 – 2014.
2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống
bệnh sốt xuất huyết Dengue tại 02 xã của huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre giai
đoạn năm 2015-2017.


3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue
1.1.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
1.1.1.1. Lịch sử dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) hiện được coi là một trong số các bệnh
truyền nhiễm quan trọng nhất trên thế giới. Từ những năm 265 - 420 sau Công
nguyên, ở triều đại nhà Tần - Trung Quốc đã ghi nhận trong sử sách những triệu
chứng của loại bệnh tương thích với bệnh sốt xuất huyết (SXH) hiện nay [72],

[89]. Tại thời điểm đó, người ta cho rằng bệnh SXH có nguồn gốc từ một loại chất
độc trong nước và liên quan đến côn trùng bay [71]. Sau đó vào khoảng các năm
1635 và 1699 ở Tây Ấn và Trung Mỹ các bệnh dịch giống với bệnh SXH, với các
bệnh tương tự đã xảy ra và lây lan khắp khu vực [72]. Năm 1780 một vụ dịch lớn
xảy ra ở Philadelphia, Pennsylvania. Sau đó các trận dịch lớn đã xảy ra trong thế
kỷ 18 đến thế kỷ 20 ở bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ và Nam Mỹ, đảo Caribe
và lưu vực sông Mississippi, vụ bùng phát cuối cùng xảy ra vào năm 1945 ở New
Orleans [72]. Sự gia tăng dịch bệnh trong Thế chiến thứ II, khi quân đội bắt đầu
phân tán trên đất liền và sử dụng phương tiện giao thông hiện đại trong và giữa
các quốc gia, do đó dịch bệnh SXH trở nên bùng phát mạnh hơn. Vào cuối chiến
tranh, do sự phát triển của vấn đề giao thông, vận chuyển và đô thị hóa đã dẫn đến
sự gia tăng truyền bệnh SXH ở nhiều nước Đông Nam Á và sau đó là sự xuất hiện
các dạng bệnh SXH [73], [74]. Cuối cùng, căn nguyên vi rút và sự lây lan của
muỗi cũng đã được xác định trong thế kỷ 20 [72].
1.1.1.2. Thực trạng sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
Trong nửa thế kỷ qua, tỷ lệ mắc sốt xuất huyết trên toàn thế giới đã tăng 30
lần, với ước tính xấp xỉ 390 triệu ca nhiễm/năm. Những năm 2014 và 2015 được
mô tả bởi sự bùng phát bệnh sốt xuất huyết trên toàn thế giới, là mối đe dọa đối
với sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là ở các nước Châu Á [109]. Sự lây lan về mặt


4

địa lý của cả véc tơ muỗi và vi rút đã dẫn đến sự gia tăng toàn cầu của dịch bệnh
sốt xuất huyết và xuất hiện những hình thái nghiêm trọng trong 25 năm qua [85].
Từ những năm 1950, chỉ có 9 quốc gia báo cáo có dịch sốt xuất huyết thì cho đến
nay sốt Dengue hiện đang là mối quan ngại về sức khoẻ cộng đồng ở hơn 100
quốc gia [76]. Số lượng trung bình các trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết được
báo cáo cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tăng từ 908 trường hợp trong giai
đoạn 1950 - 1999 lên 514.139 trường hợp trong giai đoạn 1990 - 1999 [76]. Theo

ước tính hiện nay có khoảng 3,6 tỷ người hiện đang sinh sống ở các vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới, nơi lưu hành các loại vi rút sốt xuất huyết [68], [73], [117].
Theo nhiều nghiên cứu khác nhau, ước tính khoảng từ 50 đến 200 triệu người mắc
bệnh sốt xuất huyết, 500.000 trường hợp mắc SXH nặng và hơn 20.000 trường
hợp tử vong vì bệnh sốt xuất huyết xảy ra hàng năm [97]. Tỉ lệ hiện nhiễm toàn
cầu đã tăng lên đáng kể trong những thập kỷ gần đây đặc biệt là ở Đông Nam Á
và đang có dấu hiệu tiếp tục gia tăng [88].

Nguồn: Tổ chức Y tế thế giới [116]

Hình 1.1. Bản đồ phân bố bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
của WHO năm 2011


5

Năm 2012, Tổ Chức Y Tế Thế Giới đã xếp loại Dengue là căn bệnh do vi rút
gây ra quan trọng nhất trên thế giới [115] do sự xuất hiện và lây lan rộng của vi
rút và véc tơ ở các khu vực trước đây không bị ảnh hưởng cũng như gánh nặng
bệnh tật và sự ảnh hưởng về kinh tế xã hội do nó mang lại [70], [73], [116]. Ở hầu
hết các quốc gia, gánh nặng chính của tỷ lệ bệnh tật và tử vong này chủ yếu là ở
trẻ em [78], [79].
Ở Châu Mỹ, ước tính tổng chi phí cho SXH hàng năm là 2,1 tỷ đô la Mỹ
[97]. Một nghiên cứu của 12 nước ở Đông Nam Á cho thấy tổng gánh nặng kinh
tế hàng năm do SXH mang lại là 950 triệu USD [99]. Thực tế con số có thể sẽ lớn
hơn rất nhiều do sự giám sát bệnh vẫn còn hạn chế, báo cáo chưa đầy đủ cũng như
việc chẩn đoán bệnh còn bị bỏ sót [66], [73], [98].
Mặc dù con số thống kê về số người mắc cũng như sự ảnh hưởng về kinh tế
xã hội còn khác nhau giữa các nghiên cứu, nhưng không thể phủ nhận sự có mặt,
lây lan của SXH tại tất cả các khu vực trên thế giới.

Nghiên cứu của Raghwani J cho thấy phần lớn gánh nặng bệnh tật chỉ hạn
chế ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới [91] cũng như gần 75% dân số toàn cầu tiếp
xúc với bệnh sốt xuất huyết sống ở Châu Á Thái Bình Dương [114], [115]. Tuy
nhiên vào năm 2014, lần đầu tiên trong hơn 70 năm một đợt dịch sốt xuất huyết
đã xảy ra ở Nhật Bản mặc dù đây là đất nước có khí hậu ôn đới. Qua phân tích,
các nhà khoa học cho thấy dịch SXH xảy ra ở Nhật Bản là kết quả của việc đi du
lịch quốc tế từ các nước Đông Nam Á. Năm 2014, dịch sốt xuất huyết cũng đã
ảnh hưởng đến một số quốc gia Châu Á, bao gồm Trung Quốc, Thái Lan, Việt
Nam và Nhật Bản [108], [112]. Một số nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ các ca sốt
xuất huyết nặng ở khu vực Đông Nam Á cao gấp 18 lần khu vực Châu Mỹ [99],
[114]. Trong năm 2011, khu vực Đông Nam Á có tổng số 244.855 trường hợp mắc
bệnh, trong đó 839 trường hợp tử vong, chiếm 0,34%. Trong đó Philippines là
nước có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất trong khu vực với 125.975 trường hợp, 675


6

người tử vong. Việt Nam đứng hàng thứ 2 với 69.680 ca mắc mới, 61 người tử
vong [58]. Tại Úc, SXHD không phải là bệnh phổ biến, tuy nhiên ở phía Bắc
Queensland đã ghi nhận các trường hợp mắc SXH từ khu vực Đông Nam Á đem
lại [83].
Khu vực Châu Mỹ, mặc dù không có sự xuất hiện của SXHD cho đến giữa
thế kỷ 20, nhưng đến năm 2010 hầu hết các nước ở Châu Mỹ đều xảy ra dịch với
chu kỳ xuất hiện từ 3 - 5 năm [69], [115] với quy mô ngày càng tăng đặc biệt là ở
Mỹ Latinh [97] với hơn 1,6 triệu ca sốt xuất huyết, trong số đó 49.000 ca là SXHD
thể nặng. Vào năm 2013, ở Châu Mỹ có hơn 2 triệu trường hợp mắc SXH (trong
đó 32.270 trường hợp nặng), tỷ lệ mắc là 404,35/100.000 dân và 1175 trường hợp
tử vong (trường hợp tử vong = 0,05%) [119]. Chỉ có hai nước ở Châu Mỹ La tinh
không có sự xuất hiện của SXHD là Uruguay và Chile [95]. Do sự hồi sinh của
bệnh sốt xuất huyết và các véc tơ ở Châu Mỹ trong những thập kỷ gần đây, Tổ

chức Y tế khu vực Châu Mỹ đã một lần nữa đưa ra “Chiến lược Quản lý tổng hợp
để phòng chống sốt xuất huyết " và phấn đấu để giảm bệnh tật và giảm gánh nặng
kinh tế do SXHD mang lại [115].
Kể từ năm 1960 đến 2010 có 22 nước Châu Phi đã báo cáo xuất hiện các
trường hợp SXHD hoặc bùng phát thành dịch [57], [100], [111] và cho đến nay
có 32 quốc gia ở Châu Phi đã ghi nhận sự xuất hiện của vi rút Dengue [80]. Trong
số 96 triệu ca nhiễm trên toàn thế giới thì Châu Phi chiếm 16% tương tự như ở
Mỹ Latinh (≈14%) [60]. Do đặc điểm riêng của sốt rét trên toàn khu vực Châu
Phi, phần lớn (> 70%) các trường hợp sốt, bao gồm cả xuất huyết, có khả năng
được chẩn đoán nhầm và điều trị như bệnh sốt rét Plasmodium malaria [75]. Điều
này tác động tiêu cực đến bức tranh toàn diện của dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết
trong khu vực và cho thấy sư cần thiết của việc giám sát thường xuyên dịch bệnh
cũng như các hoạt động dự phòng có liên quan.


7

Khu vực Đông Địa Trung Hải trong 2 thập kỷ qua đã có nhiều đợt bùng phát
SXHD ở 3 quốc gia - Ả Rập Saudi, Pakistan và Yemen. Năm 2011, thành phố
Lahore ở Pakistan đã trải qua một dịch sốt xuất huyết Dengue lớn với 21.685
trường hợp mắc và 350 trường hợp tử vong [82], [92].
Tại Châu Âu dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue cuối cùng ở Châu Âu xảy ra
vào khoảng năm 1926 đến năm 1928 ở Hy Lạp. Dịch này có liên quan đến Aedes
aegypti và có tỷ lệ tử vong cao [115]. Cho đến những năm 1990 khi Aedes
albopictus có mặt tại Châu Âu thì bệnh dịch đã quay trở lại. Ngày nay, dịch SXHD
đã được phát hiện tại Pháp, Croatia và một số quốc gia khác ở Châu Âu [93]. Như
vậy, mặc dù Châu Âu không bị sốt xuất huyết trong phần lớn thế kỷ 20, tuy nhiên
do sự phát triển toàn cầu của bệnh sốt xuất huyết Dengue đã ảnh hưởng đến khu
vực vào thời điểm hiện tại [89].
Như vậy SXHD đã xuất hiện ở hầu hết các nước, ở các khu vực trên thế giới

với các tần suất khác nhau. Hiện nay SXHD cũng được coi là bệnh truyền nhiễm
quan trọng nhất trên thế giới khi hơn 50% dân số thế giới sinh sống ở những nơi
có nguy cơ mắc bệnh và khoảng 50% sống ở các quốc gia lưu hành bệnh sốt xuất
huyết, trong đó có khu vực Châu Á Thái Bình Dương, cụ thể Việt Nam là một
điểm nóng của bệnh SXHD [89].
1.1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Việt Nam
Tại Việt Nam, từ năm 1913, Gaide đã thông báo về bệnh Dengue cổ điển tại
miền Bắc và miền Trung. Năm 1929, Boyé có viết về một vụ dịch Dengue cổ điển
(1927) ở miền Nam [43], [54]. Năm 1958, lần đầu tiên Chu Văn Tường và cộng
sự căn cứ trên một số bệnh nhi ở bệnh viện Bạch Mai, các tác giả đã đưa ra thông
báo về một vụ dịch nhỏ sốt xuất huyết ở Hà Nội. Tới tháng 8 năm 1963, dịch SXH
xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long với tổng số bệnh nhân được thông báo là 331,
trong đó có 116 trẻ em tử vong. Trong vụ dịch này Halstead và cộng sự đã phân
lập được vi rút D2 [43], [54]. Tiếp sau đó, vụ dịch sốt Dengue lớn đã xảy ra ở 19


8

tỉnh, thành phố ở miền Bắc năm 1969. Từ năm 1970 đến năm 1974, dịch xảy ra
lẻ tẻ ở một số địa điểm trong nội thành Hà Nội với số bệnh nhân từ vài chục tới
hàng trăm trường hợp phải vào viện điều trị tại các bệnh viện. Trong thời gian đó,
dịch cũng lan ra các thành phố, thị xã, thị trấn và cả các vùng nông thôn. Cho đến
nay, SXHD tăng dần và lan rộng ra cả nước, từ các thành phố đông dân lan về các
thị trấn nông thôn, khoảng cách thời gian giữa các vụ dịch cũng gần nhau hơn
[43], [54].
Mặc dù chương trình kiểm soát sốt xuất huyết Dengue quốc gia đã có từ năm
1998, sốt Dengue vẫn là một vấn đề sức khoẻ ở Việt Nam. Sốt xuất huyết và sốt
xuất huyết Dengue là nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng nhập viện, chiếm
tới 1.000.866 trường hợp được báo cáo tại Việt Nam trong giai đoạn 1991-2004,
con số cao nhất ở Tây Thái Bình Dương [113].

Dịch sốt Dengue/SXHD bùng nổ theo chu kỳ với khoảng cách trung bình từ
4 - 5 năm [47], năm 1998 cả nước ghi nhận số trường hợp mắc là 234.920 và 377
trường hợp tử vong, năm 2010 với 128.710 ca mắc, 109 ca tử vong. Giai đoạn
2011 - 2013, số ca mắc và tử vong giảm xuống theo qui luật chung do miễn dịch
cộng đồng sau vụ dịch năm 2010 [8].
Sốt Dengue /SXHD lưu hành rộng rãi ở vùng Châu thổ sông Hồng (miền
Bắc), sông Cửu Long (miền Nam) và dọc theo bờ biển miền Trung. Bệnh không
chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có muỗi véc tơ sinh sống. Ở
những nơi khác, nếu có, bệnh được coi như là kết quả của sự xâm nhập vi rút
Dengue từ vùng có bệnh dịch lưu hành tới. Mức độ lan rộng của sốt Dengue
/SXHD tùy thuộc vào sự phát triển giao thông và sự giao lưu của dân cư giữa các
vùng. Ở những vùng núi, cao nguyên biên giới phía Bắc, không thấy xuất hiện
bệnh, kể cả những năm có dịch lớn [56].
Do đặc điểm địa lý và khí hậu nên khu vực miền Nam Việt Nam là khu vực
có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất cả nước [12], [47] với trên 85% ca mắc và 90% ca


9

tử vong và tiếp tục có xu hướng gia tăng [6]. Trong giai đoạn từ 2001 - 2011 có
76,9% ca mắc SXHD và 83,3% ca tử vong do SXHD là ở 20 tỉnh phía Nam [54].
Nguyên nhân có thể do đặc điểm khí hậu, địa lý nhiều kênh ngòi, sông nước và
tập quán của người dân tích trữ nước trong lu, vại, chum...đã tạo điều kiện cho
dịch bệnh gia tăng [12], [16].
Mặc dù vậy, những năm trở lại đây số ca mắc tại các tỉnh Bắc bộ cũng gia
tăng nhất là Hà Nội có xu hướng tăng nhanh và là điểm nóng của sốt xuất huyết
của toàn miền Bắc [62], [64], [90]. Năm 2013, khu vực Miền Bắc chỉ ghi nhận
một số ổ dịch có tính tản phát, phân bố rải rác tại Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Ninh, các ổ dịch ở quy mô nhỏ [11].
Do vấn đề bệnh dịch xuất hiện phức tạp và rộng khắp các tỉnh thành trên cả

nước nên việc kiểm soát và có những biện pháp ứng phó kịp thời với sốt xuất
huyết là vấn đề vô cùng có ý nghĩa. Nghiên cứu được quy luật, dự đoán được mô
hình bệnh tật sẽ làm giảm gánh nặng bệnh tật và kinh tế [56].
1.1.3. Tình hình mắc bệnh và tử vong do sốt xuất huyết Dengue tại Bến Tre
Sốt xuất huyết Dengue là một bệnh dịch lưu hành trên 08 huyện 01 thành
phố của tỉnh Bến Tre, nhưng tập trung chủ yếu là các huyện vùng hạ của tỉnh như
Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại…là những huyện vùng biển người dân có tập quán
chứa nước mưa để uống và sinh hoạt.
Tuy tỉnh Bến Tre không nằm trong số 10 tỉnh có số mắc (54/100.000 dân)
cao nhất cả nước nhưng đứng hàng thứ 7 các tỉnh có tỷ lệ chết/ mắc SXHD cao
nhất cả nước với 0,14% [36]. Hàng năm ngành y tế tỉnh Bến Tre đều xây dựng kế
hoạch hoạt động phòng chống sốt xuất huyết đưa ra các chỉ tiêu cụ thể về giảm tỷ
lệ mắc, giảm tỷ lệ chết khống chế không để dịch lớn xảy ra. Kế hoạch tập trung
chủ yếu vào việc làm thay đổi hành vi kiểm soát lăng quăng của các hộ gia đình.
Chương trình phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu đã được lồng
ghép vào xây dựng nông thôn mới tại các địa phương. Tuy vậy, từ năm 2010 đến


10

nay, năm nào cũng có ca tử vong về sốt xuất huyết Dengue và 3 năm trở lại đây
thì tỷ lệ mắc và chết vẫn còn [48].
Theo các chuyên gia, giai đoạn 2014 - 2016 là giai đoạn hiện tượng El Nino
hoạt động mạnh, gây nên thời tiết khô hạn khiến việc tích trữ nước gia tăng, gia
tăng nhiệt độ trung bình cũng như thời gian phát triển chu kỳ trứng thành muỗi
rút ngắn, kéo dài thời gian sống của muỗi và làm gia tăng mật độ muỗi khiến cho
dịch sốt xuất huyết bùng phát trở lại. Do đó việc xác định được tình hình dịch tễ
học của bệnh để từ đó áp dụng các giải pháp can thiệp trong nghiên cứu của chúng
tôi là điều hết sức cần thiết nhằm góp phần hạn chế sự gia tăng của bệnh SXH
hiện nay.

1.2. Căn nguyên và một số yếu tố liên quan đến bệnh sốt xuất huyết Dengue
1.2.1. Căn nguyên gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Năm 1943 các nhà khoa học đã xác định được căn nguyên gây bệnh SXHD
là do vi rút Dengue gây nên với 4 týp huyết thanh DEN - 1, DEN - 2, DEN - 3,
DEN - 4 [88]. Nhiễm vi rút Dengue lần đầu tạo ra miễn dịch bền suốt đời với týp
đã nhiễm. Ngoài ra, miễn dịch chéo một phần với 3 týp còn lại có tính bảo vệ rất
ngắn. Như vậy, nếu nhiễm lần 2 với một týp vi rút Dengue khác (nhiễm thứ phát)
bệnh sẽ nặng hơn [34].
Hiện nay, tất cả bốn týp vi rút Dengue đều được tìm thấy trong hầu hết các
môi trường nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi Aedes aegypti có mặt [65]. Các hiện
tượng toàn cầu như đô thị hoá và du lịch quốc tế là những yếu tố chủ chốt trong
việc tạo điều kiện cho sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết cũng như sự xuất hiện
của các týp huyết thanh [88].
Có nghiên cứu cho rằng bệnh nhân nhiễm týp vi rút DENV - 2 sẽ dẫn đến
bệnh nặng hơn, trong khi nhiễm DENV - 1 thì bệnh sẽ nhẹ hơn [59]. Ngoài ra
nghiên cứu cho thấy DENV - 2 có liên quan tới sốt Dengue xuất huyết - Dengue
xuất huyết có sốc, gần đây thì liên quan tới DENV - 3 [34].


11

Theo tác giả Phạm Thị Nhã Trúc sự phân bố của các týp vi rút Dengue qua
các vụ dịch SXHD đã cho thấy có sự thay đổi vai trò gây bệnh của các týp vi rút
[47]. Tại Việt Nam trước năm 1990, chủng vi rút thường gây thành dịch là týp
DENV - 2. Tuy nhiên trong những năm gần đây các tác giả nhận thấy týp DENV
- 4 mới là týp chiếm ưu thế trong các vụ dịch [47].
Khi các týp huyết thanh Dengue lưu hành đa dạng và hay thay đổi sẽ dẫn đến
bệnh cảnh lâm sàng sốt xuất huyết ngày càng đa dạng và phức tạp.
1.2.2. Véc tơ gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Bệnh SXHD không truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi đốt

bệnh nhân rồi truyền vi rút sang người lành qua vết đốt của muỗi Aedes cái. Có
hai loài muỗi truyền bệnh SXHD là muỗi Aedes aegypti (Ae. aegypti) và Aedes
albopictus (Ae. albopictus), trong đó quan trọng nhất là Aedes aegypti - véc tơ giữ
vai trò trung gian chính truyền bệnh, còn Aedes albopictus giữ vai trò trung gian
truyền bệnh thứ cấp của bệnh SXHD [47].
Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành có màu đen xen lẫn trắng
trên khắp cơ thể muỗi tạo nên vằn trắng đen nên thường được gọi là Muỗi Aedes.

Hình 1.2. Hai loài muỗi truyền bệnh
Aedes aegypti

Aedes albopictus

Muỗi Aedes thường sống trong nhà, gần người, trú đậu nơi có ánh sáng yếu,
thường là các góc hoặc xó tối trong nhà, trên quần áo, chăn màn, dây phơi và các
đồ dùng trong nhà, đẻ trứng nơi nước sạch, ở những vật chứa nước tự nhiên hay


12

nhân tạo như chum, vại, phuy, hồ, bể chứa nước không đậy nắp, lọ hoa chậu cây
cảnh, chậu nước chống kiến dưới chân tủ thức ăn, lon đồ hộp, ve chai, gáo dừa,
vỏ xe hoặc bất kì một vật dụng chứa nước nào khác có thể tích trữ nước đến 7
ngày.
Muỗi Aedes cái thường đốt người vào ban ngày, mạnh nhất là vào sáng sớm
và chiều tối. Đặc biêt, chúng bay rất nhanh, nếu tìm thấy mồi là lao vào đốt và hút
máu ngay; đồng thời bám theo mồi rất dai và chỉ bay đi khi đã hút no máu. Hoạt
động tìm mồi hút máu của loài muỗi này phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường, nếu
nhiệt độ môi trường dưới 230C thì muỗi hầu như không có khả năng hoạt động hút
máu. Vì thế Muỗi Aedes thường phát triển mạnh nhất vào mùa mưa, thời tiết nóng

ẩm, khi nhiệt độ trung bình hàng tháng vượt trên 200C.
Chu kỳ phát triển của Muỗi vằn Aedes từ lúc đẻ trứng đến phát triển thành
bọ gậy trung bình là 7 ngày, thời gian phát triển từ bọ gậy thành muỗi trưởng thành
chỉ mất khoảng 2 đến 3 ngày. Muỗi cái chuyên đi hút máu người có thể sống từ
20 - 40 ngày. Tỷ lệ nhiễm sốt xuất huyết cao hơn ở ngoài trời và vào ban ngày,
khi những con muỗi này đốt thường xuyên nhất. Tuy nhiên, Aedes aegypti đẻ ở
trong nhà có khả năng đốt bất cứ ai trong suốt cả ngày, môi trường sống ở trong
nhà ít nhạy cảm với sự thay đổi khí hậu và làm gia tăng tuổi thọ của muỗi. Theo
các nhà nghiên cứu hầu hết muỗi Aedes aegypti cái có thể dành cả cuộc đời trong
hoặc xung quanh nhà, nơi đó chúng trở thành muỗi trưởng thành với khoảng cách
bay trung bình là 400 mét.


×