Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.62 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

TRANG

MỞ BÀI

2

NỘI DUNG

3

1. LÝ LUẬN CHUNG

3

1.1.KHÁI NIỆM THỦ TỤC RÚT GỌN

3

1.2.ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN

3

2. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG
THỦ TỤC RÚT GỌN

5

2.1.NHẬN XÉT VỀ QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ
TỤC RÚT GỌN



5

2.2.GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN ÁP
DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN

10

KẾT LUẬN

11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

12

1


MỞ BÀI
Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt, được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Song qua nghiên cứu lịch sử lập pháp của
Nhà nước ta. Ta thấy, thủ tục này không phải là vấn đề mới, mà thủ tục này đã
được quy định ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 33c/SL ngày
13/9/1945, thành lập Tòa án quân sự ở các địa phận khác nhau trong phạm vi cả
nước nhằm bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng. Quy định về thủ tục rút gọn,
được quy định tại Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về thẩm quyền của các Tòa
án quân sự và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. Tiếp đến trong
giai đoạn từ năm 1954 đến khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, các cơ
quan có thẩm quyền cũng đã ban hành nhiều văn bản dưới luật, quy định về thủ

tục rút gọn như: Thông tư số 139 ngày 28/5/1974 của Thủ tướng Chính phủ
hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử các vụ án phạm pháp quả tang.
Thông tư số 10 – TATC ngày 08/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy định
về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố,xét xử một số vụ án hình sự ít
quan trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Tiếp đó Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ban hành Thông tư số 01-TT ngày 28/2/1975 hướng dẫn về nội dung
hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút
ngắn đối với các vụ án ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng.
Như vậy: Thủ tục rút gọn đã được pháp luật Tố tụng hình sự nước ta quy định
và áp dụng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Tuy nhiên,
trước đây những thủ tục này chỉ là thủ tục rút ngắn về thời gian tiến hành tố
tụng mà chưa đơn giản hóa các thủ tục tố tụng. Chỉ đến khi Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 thì thủ tục rút gọn mới
được quy định chi tiết và đầy đủ hơn. Thủ tục rút gọn, được quy định tại chương
XXXIV bao gồm các quy định từ Điều 318 đến 324, quy định về phạm vi áp
dụng, các điều kiện áp dụng, thời hạn tiến hành tố tụng và xét xử sơ thẩm hình
sự theo trình tự rút gọn. Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến cho rằng quy định về thủ
tục rút gọn trong tố tụng hình sự còn chưa hợp lý, một trong số đó là quy định
2


về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, dẫn tới tình trạng thủ
tục rút gọn không được áp dụng triệt để và bị lãng quên. Vậy sau đây bài viết
của em xin làm rõ hơn quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự.
NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn:
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự được áp dụng
đối với những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng; sự việc phạm tội đơn giản,

chứng cứ rõ ràng; người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; có căn
cước, lai lịch rõ ràng.
Thủ tục này có sự rút ngắn về thời gian tố tụng, đơn giản về cách thức
tiến hành nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng; góp
phần đấu tranh phòng, chống tội phạm kịp thời, có hiệu quả, bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự. Mặc dù vậy, thủ tục này
vẫn phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản và các giai đoạn của tố tụng hình
sự.
1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
Theo quy định của pháp luật “Điều 319 BLTTHS. Điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn
Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang;
2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
4. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.”
Lý do nào mà thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện
trên?
- Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang. Phạm tội quả tang là
trườn hợp người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt khi đang thực hiện tội phạm
3


hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Phạm tội
quả tang thông thường là những trường hợp đã xác định rõ ràng về hành vị
phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội. Người bị bắt trong trường hợp
này thường nhận tội ngay; chứng cứ tương đối đầy đủ và rõ ràng; người làm
chứng, người bị hại (nếu có) cũng thường được xác định cụ thể… Đây là một
trong những điều kiện cần thiết để có thể giải quyết nhanh chóng vụ án.
- Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Theo hướn dẫn tại Thông

tư số 10/TATC năm 1974: “Tội phạm đơn giản, rõ ràng là: Vụ án không có các
tình tiết phải mất thì giờ điều tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án
chỉ có một hoặc hai bị cáo”. Có thể hiểu sự việc phạm tội đơn giản là những sự
việc mà vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp và dễ xác định. Các
tình tiết phạm tội đơn giản; vụ án thường có ít bị cáo hoặc có nhiều bị cáo
nhưng không phải trường hợp phạm tội có tổ chức hoặc đồng phạm phức tạp,
khó xác định vai trò vị trí của từng đối tượng; lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự,
động cơ, mục đích phạm tội rõ ràng. Việc giải quyết vụ án không liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành, đến chính sách dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán
hay những vấn đề xã hội phức tạp khác.
Chứng cứ rõ ràng là chứng cứ đã được thu thập đầy đủ ngay từ đầu, thông
qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại, người trực
tiếp chứng kiến sự việc phạm tội, các tang vật… Các chứng cứ này không chỉ
đầy đủ mà còn thông nhất và đảm bảo giá trị chứng minh.
Những trường hợp phạm tội quả tang nhưng không đảm bảo điều kiện
tính chất của sự việc phạm tội đơn giản, rõ ràng thì không áp dụng thủ tục rút
gọn.
- Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm ít nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Dấu hiệu về mặt nội dung
chính trị - xã hội của loại tội này có tính nguy hại không lớn cho xã hội, dấu
hiệu về mặt hậu quả pháp lí của loại tội này là có thể phải chịu hình cao nhất là
4


3 năm tù. Do hậu quả mà loại tội này gây ra cho xã hội và hậu quả pháp lí mà
người thực hiện tội phạm có thể phải chịu là không lớn nên việc xử lí có thể
nhanh chóng, dễ dàng hơn các loại tội phạm nghiệm trọng, rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng; và nếu trong trường hợp việc xử lí không chính xác thì
hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng so với các trường hợp thực hiện các

loại tội phạm khác và dễ khắc phục. Do đó, pháp luật chỉ quy định áp dụng thủ
tục rút gọn cho loại tội phạm ít nghiêm trọng.
- Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Lai lịch, căn cước của
người phạm tội là vấn đề cần làm rõ trong quá trình giải quyết vụ án. Qua việc
xác minh lai lịch, căn cước, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể làm rõ được
các yếu tố về nhân thân, gia đình, mối quan hệ xã hội… của người phạm tội,
trên cơ sở đó có những quyết định đúng đắn trong việc định tội và quyết định
hình phạt. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng được coi là điều kiện để
áp dụng thủ tục rút gọn vì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ khôn mất nhiều thời
gian để điều tra xác minh nên có thể rút ngắn thời gian giải quyết vụ án mà vẫn
đảm bảo chính xác. Nếu căn cước, lai lịch của người phạm tội chưa được xác
minh chắc chắn thì không được áp dụng thủ tục rút gọn.
2. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Nhận xét quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình
sự
- Ưu điểm:
Như chúng ta đã biết thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự đã quy định và
áp dụng ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Trước
đây thì việc quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
còn rất đơn giản và chưa khoa học. Ví dụ như: Thông tư số 139 ngày 28/5/1974
của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, các vụ
án phạm pháp quả tang. Thông tư này quy định: Đối với các vụ án phạm tội quả
tang không thuộc loại trọng án, có đủ chứng cứ, bị can nhận tội, thì cơ quan
5


Công an lập biên bản đưa sang Viện Kiểm sát nhân dân để quyết định chuyển
thẳng sang Tòa án xét xử.
Thông tư số 10-TATC ngày 08/7/1974 của Tòa án nhân dân tối cao quy

định về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử một số án hình sự ít
quan trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Thông tư này cũng đã
hướng dẫn tương đối chi tiết về điều kiện áp dụng thủ tục rút ngắn đối với
những vụ án hình sự là những vụ án hình sự nhỏ có thể phân xử mà không phải
mở phiên tòa. Cụ thể, chỉ những việc có đủ bốn điều kiện sau đây mới được áp
dụng thủ tục rút ngắn:
Thứ nhất, có thể áp dụng thủ tục về việc đưa vụ án ra xét xử không cần có cáo
trạng đối với một số vụ án thuộc các loại tội xâm phạm tài sản chủ nghĩa, làm
ăn phi pháp, gây rối trật tự chung như: Trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản
xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của công dân, lừa đảo nơi công cộng; đầu cơ tích
trữ, chứa chấp trái phép các loại vật tư, lương thực, hàng hóa do nhà nước quản
lý, buôn bán tem phiếu ở các cửa hàng, các chợ; nấu rượu lậu, buôn rượu lậu,
lạm phát lợn, trâu bò; hành động càn quấy, gây rối trật tự chung; hành hung
người khác; lăng mạ hành hung cán bộ trong khi làm nhiệm vụ. Ngoài những
loại tội phạm kể trên, cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án các địa phương
cũng có thể thống nhất ý kiến về đưa ra xét xử một số tội phạm khác không cần
có cáo trạng.
Thứ hai, việc phạm pháp phải có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng. Việc
phạm pháp có tính chất quả tang là bị cáo bị bắt ngay khi phạm tội hoặc ngay
sau khi phạm tội, hoặc bị cáo bị các nhà chức trách hay nhân dân đuổi bắt được
ngay sau khi phạm tội. Tội phạm đơn giản, rõ ràng là vụ án không có những tình
tiết phải mất thời gian điều tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ
có một hoặc hai bị cáo.
Thứ ba, bị cáo phải có căn cước, lý lịch đã được xác minh rõ ràng.
Thứ tư , hình phạt tối đa mà Tòa án nhân dân có th ể quy ết đ ịnh là t ừ 2 năm
tù trở xuống.
6


Hiện nay, theo quan niệm mới trong BLTTHS năm 2003 về điều kiện

áp dụng thủ tục rút gọn. Vấn đề này được quy định khá chặt chẽ và khoa
học trong Bộ luật. Chỉ khi nào vụ án hình sự hội tụ đầy đủ 4 điều kiện sau
thì mới được quyết định áp dụng thủ tục rút gọn: Người thực hiện hành vi
phạm tội bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, ch ứng c ứ rõ ràng; t ội
phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn
cước, lai lịch rõ ràng. Như vậy, thủ tục rút gọn đối với m ột số v ụ án khi
đáp ứng được các điều kiện mà Bộ luật hình sự đã quy định n ếu đ ược các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng sẽ có một số tác dụng nh ất đ ịnh, góp
phần giải quyết nhanh chóng vụ án; tiết kiệm được kinh phí, lực l ượng và
thời gian trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án; không đ ể l ọt t ội
phạm, không làm oan người vô tội; đảm bảo việc điều tra, truy t ố, xét x ử
vô tư, khách quan. Đồng thời còn bảo vệ được các quyền và lợi ích h ợp
pháp của công dân trước pháp luật.
- Nhược điểm:
Những quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn như đã phân tích ở
trên, theo một số ý kiến là chưa đầy đủ, còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều
kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng triệt để thủ tục tiến bộ này trong
hoạt động tố tụng hình sự, dẫn đến nhiều địa phương bỏ quên không áp dụng
thủ tục này trong hoạt động tố tụng hình sự. Những vướng mắc đó thể hiện như
sau:
Thứ nhất, việc sử dụng thuật ngữ “người thực hiện hành vi phạm tội” tại
khoản 1 và “người phạm tội” ở khoản 3 điều này là không phù hợp với nguyên
tắc ‘không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” được quy định tại Điều 10 BLTTHS. Đây
không chỉ là nguyên tắc tố tụng được Việt Nam và các nước trên thế giới ghi
nhận mà còn là một trong những quyền cơ bản của công dân. Vào thời điểm

7



Viện kiểm sát xem xét điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn thì người mà Viện
kiểm sát áp dụng thủ tục rút gọn đối với họ chưa bị coi là người có tội.
Thứ hai, pháp luật hiện hành không quy định điều kiện phải có sự đồng ý
lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn của bị can mà chỉ có quy định về quyền khiếu
nại của họ đối với quyết định này. Có một số ý kiến cho rằng do văn hoá pháp
lý, mặt bằng hiểu biết pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế nên việc đưa
điều kiện này vào BLTTHS là chưa thực sự phù hợp với thực tế của Việt Nam
hiện nay(1) Ngược lại, nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung điều kiện người thực
hiện hành vi phạm tội đồng ý lựa chọn áp dụng thủ tục thủ tục rút gọn. Lập luận
cho ý kiến này là thủ tục rút gọn với việc rút ngắn thời gian và rút gọn một số
thủ tục tố tụng nên phần nào ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo, đặc biệt là
quyền bào chữa. Mặt khác, sẽ là không công bằng nếu một người thực hiện
hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, tính chất đơn giản, rõ ràng lại bị xử lý theo
một thủ tục ít nhiều mang tính hạn chế hơn so với những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng, phức tạp. Từ đó, có thể nói rằng việc quy định bị can có quyền
lựa chọn hình thức thông thường hay rút gọn đối với vụ án của mình là hoàn
toàn cần thiết, bởi quyền được xét xử với một thủ tục đầy đủ theo luật tố tụng
hình sự là quyền cơ bản của công dân. Đây là yêu cầu cần thiết để đảm bảo
quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay.(2)
Thứ ba, có rất nhiều vụ án tuy không phải thuộc trường hợp phạm tội quả
tang, song sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng, căn cước người phạm tội rõ ràng, song lại không được áp dụng
thủ tục rút gọn vì không phải là trường hợp phạm tội quả tang ví dụ: A trộm cắp
của B một chiếc xe máy, hai hôm sau trên đường A đi tiêu thụ thì bị B phát hiện

1 Nguyễn Văn Hiền, Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự Việ Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2004, tr.45.
2 Chương trình KHXH cấp nhà nước, đề tài Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục
tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do

dân và vì dân, Hà Nội, 2006, tr.304.

8


báo Công an bắt giữ A, A thừa nhận hành vi trộm cắp xe máy của B, tang vật
được thu hồi trả lại ngay cho B.
Hoặc có những trường hợp người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của
mình mà hành vi phạm tội đó cũng rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm
được thực hiện cũng là tội phạm ít nghiêm trọng, lai lịch, căn cước rõ ràng,
nhưng vì không phải là trường hợp phạm tội quả tang nên cũng không được áp
dụng thủ tục rút gọn ví dụ: Trước đó 6 tháng, A tới nhà B trộm cắp của B 01
điện thoại di động trị giá 7 triệu đồng mang về giấu ở nhà với mục đích sau này
sẽ đem ra sử dụng, sau khi mất điện thoại, B đã có đơn trình báo ra cơ quan
Công an. Trong lúc cơ quan Công an chưa xác định được ai là người lấy trộm
điện thoại của B thì A đã tới Công an tự thú hành vi phạm tội của mình đồng
thời mang nộp chiếc điện thoại mà mình đã trộm cắp cho cơ quan Công an…
Bên cạnh đó có rất nhiều vụ án phạm tội nghiêm trọng, hoàn toàn thỏa mãn các
điều kiện 1, 2, 4 quy định tại Điều 319, song không thể áp dụng được thủ tục rút
gọn vì không thỏa mãn với điều kiện thứ ba là “Tội phạm đã thực hiện là tội
phạm ít nghiêm trọng”. Như vậy, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại
Điều 319 BLTTHS hiện hành chỉ được áp dụng trong trường hợp phạm tội quả
tang, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, là không phù hợp với thực tiễn, bỏ sót
rất nhiều vụ án có thể áp dụng được thủ tục rút gọn, nhưng lại không được áp
dụng, làm mất nhiều thời gian, không hạn chế được lượng án tồn đọng, tốn kém
về chi phí vật chất, gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, đôi
khi còn vi phạm cả về thời hạn tạm giữ, tạm giam, xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân.
Ngoài ra, qua thực tiễn ta còn thấy được thủ tục rút gọn trong tố tụng hình
sự bị bỏ quên trong khi có đủ các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn. Năm

2004, khi BLTTHS được triển khai thi hành, thủ tục rút gọn đã được áp dụng
như để thử nghiệm đối với một vài vụ án. Sau đó cho đến nay, thủ tục này ít
được áp dụng, mặc dù không ít vụ án có đủ các điều kiện để áp dụng. Sở dĩ, các
cơ quan tiến hành tố tụng không mặn mà trong việc áp dụng thủ tục rút gọn một
9


phần là do các quy định của BLTTHS về thủ tục này còn chung chung, nhất là
về mối quan hệ giữa các quy định của thủ tục rút gọn và các thủ tục tố tụng
chung bắt buộc phải thực hiện; do lãnh đạo các cơ quan tư pháp ở các địa
phương thiếu quan tâm, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện. Tuy vậy, nguyên nhân
chính vẫn là do thời hạn để thực hiện việc điều tra, truy tố và xét xử quá ngắn,
trong khi điều kiện làm việc, quan hệ phối hợp và năng lực công tác của cán bộ
còn hạn chế, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng không muốn tự làm khó mình.
2.2. Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện quy định về điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, để đảm bảo nguyên tắc tố tụng, đảm bảo quyền công dân, tránh
những định kiến của cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can có thể dẫn đến
những sai lầm trong việc xác định sự thật của vụ án, theo chúng tôi cần thay các
thuật ngữ “người thực hiện hành vi phạm tội” tại khoản 1 và “người phạm tội” ở
khoản 3 Điều 319 bằng thuật ngữ “bị can” cho chính xác và đúng tư cách tố
tụng của họ.
Thứ hai, cần bổ sung điều kiện phải có sự đồng ý lựa chọn áp dụng thủ
tục rút gọn của bị can. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước có áp dụng những
thủ tục có tính chất rút gọn thủ tục và rút ngắn thời gian (với những tên gọi khác
nhau và những quy định cụ thể cũng khác nhau) cũng coi việc bị can, bị cáo
đồng ý lựa chọn thủ tục đặc biệt đó là một điều kiện không thể thiếu để áp dụng.
Ví dụ, Điều 462 BLTTHS Nhật Bản quy định yêu cầu của công tố viên yêu cầu
toà giản lược ra lệnh xử phạt theo thủ tục giản lược phải kèm theo văn bản đồng
ý của người bị tình nghi;(3) Điều 314 BLTTHS Liên bang Nga quy định bị can

có quyền tuyên bố đồng ý với nội dung buộc tội họ và yêu cầu ra bản án mà
không cần tiến hành xét xử và việc đưa ra yêu cầu là tự nguyện.(4)

3 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản, bản dịch tiếng Việt của VKSNDTC, Hà Nội, 1993, tr. 75.
4 Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2002, bản dịch tiếng Việt của VKSNDTC, Hà Nội, 2002, tr.
131.

10


Thứ ba, cần nâng cao năng lực và trách nhiệm làm việc của các cơ quan
tiến hành tố tụng để đảm bảo giải quyết vụ việc kịp thời trong thời hạn ngắn của
thủ tục rút gọn.
KẾT LUẬN
Việc quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự là hết sức cần
thiết và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm,
tiết kiệm được thời gian, chi phí tiền của cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại cần được khắc phục.
Hy vọng những nhà làm luật và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ có những cải cách
để phát huy triệt để vai trò của thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
/> />
12




×