Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đánh giá pháp luật về cháo bán chứng khoản ở việt nam và tìm hiểu pháp luật về chào bán chứng khoán hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn ở việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.5 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐÂU
Thực tế hiện nay cho thấy chứng khoán và thị trường chứng khoán là
một bộ phận không thể tách rời khỏi nền kinh tế. Hoạt động chính của thị
trường chứng khoán đó là hoạt động giao dịch chứng khoán và để đảm bảo
cho thị trường hoạt động ổn định, bắt buộc phải có những cơ chế ràng buộc
quản lý đối với hoạt động chào bán chứng khoán. Cơ chế quản lý càng chặt
chẽ bao nhiêu thì tính ổn định của thị trường càng tăng bấy nhiêu. Hiện nay,
đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề này như Luật chứng khoán 2006,
Nghị định 01/2010/NĐ-CP về chào bán chứng khoán riêng lẻ. Nhằm góp
phần đem lại những hiểu biết sâu sắc hơn trong việc tìm hiểu pháp luật về
chào bán chứng khoán , em xin lựa chọn đề tài số 4 làm đề tài bài tập học kì:
“Đánh giá pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam và tìm hiểu
pháp luật về chào bán chứng khoán hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn ở Việt Nam đến mức độ nào”.

1


BÀI LÀM
I. Những vấn đề cơ bản về pháp luật chào bán chứng khoán.
1/ Khái quát về chào bán chứng khoán ra công chúng.
a/ Khái niệm và đặc điểm.
- Chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán để thu
hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của chủ thể chào bán.
- Chào bán chứng khoán có một số đặc điểm sau:
+ Thứ nhất, chủ thể chào bán chứng khoán rất đa dạng, có thể là chính
phủ, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp.
+ Thứ hai, chào bán chứng khoán là một hình thức huy động vốn cho
tổ chức chào bán. Chính phủ thường chào bán chứng khoán dưới dạng trái
phiếu chính phủ hoặc tín phiếu kho bạc để huy động vốn. Doanh nghiệp có
thể chào bán chứng khoán dưới dạng cổ phiếu (công ti cổ phần), trái phiếu


(công ti cổ phần và công ti trách nhiệm hữu hạn) hoặc cả cổ phiếu và trái
phiếu (công ti cổ phần) tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Các chủ thể tiến
hành chào bán chứng khoán đều nhằm mục đích huy động vốn. Riêng đối với
chứng chỉ quĩ, bản thân quĩ không có tư cách pháp nhân nên công ty quản lí
quĩ thực hiện chào bán để huy động vốn về cho quĩ đại chúng.
+ Thứ ba, Đối tượng của chào bán chứng khoán là chứng khoán.
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán là
hàng hóa không thể thiếu của thị trường chứng khoán. Vì vậy, muốn thị
trường chứng khoán đi vào hoạt động thì phải đưa hàng hóa là chứng khoán
vào lưu thông tại thị trường này.
+ Thứ tư, chào bán chứng khoán chỉ được thực hiện trên thị trường sơ
cấp. Thị trường này là nơi diễn ra giao dịch trực tiếp giữa tổ chức chào bán và
nhà đầu tư. Theo đó, chứng khoán được bán lần đầu cho nhà đầu tư. Điều đó
có nghĩa là thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới thực sự
chuyển cho tổ chức chào bán.
+ Thứ năm, chào bán chứng khoán là hoạt động diễn ra đầu tiên trong
một quy trình kinh doanh chứng khoán nên nó cũng đồng thời là hoạt động
2


làm nền tảng cơ sở cho tất cả các hoạt động khác liên quan đến chứng khoán
khác như kinh doanh chứng khoán, quản lí chứng khoán, xử lí vi phạm pháp
luật chứng khoán….
b/ Vai trò.
Chào bán chứng khoán có vai trò quan trọng không chỉ với chủ thể
chào bán mà còn đối với cả nền kinh tế nói chung.
Đối với chính phủ thì việc chào bán chứng khoán có khả năng giúp
chính phủ thu hút được nguồn vốn lớn, thường là để bù đắp thâm hụt ngân
sách và thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở cho đất nước.

Đối với các doanh nghiệp, chào bán chứng khoán là kênh huy động vốn
rất quan trọng, giúp các doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn về vốn
mà không bị phụ thuộc quá nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng, tiết kiệm được
chi phí. Hơn nữa, chào bán chứng khoán có khả năng đem lại cho doanh
nghiệp các nguồn vốn dài hạn và ổn định hơn so với nguồn vốn vay từ ngân
hàng.
Đối với nền kinh tế, chào bán chứng khoán sẽ đem lại nguồn vốn cần
thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán.
2.1/ Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng.
Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng là hoạt động huy động
vốn rất hiệu quả. Ở nước ta, cùng với sự lớn mạnh của thị trường chứng
khoán thì chào bán chứng khoán ra công chúng trở thành một phương thức
chào bán phổ biến. Hiểu một cách chung nhất thì chào bán chứng khoán ra
công chúng là việc mà chủ thể chào bán đưa chứng khoán ra đại bộ phận công
chúng đầu tư.
Chào bán chứng khoán ra công chúng được quy định trong khoản 12
điều 6 Luật chứng khoán Việt Nam 2006. Theo đó tại điều quy định :
“Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán
theo một trong các phương thức sau đây :
1) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;

3


2) Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể
nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
3) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định”
(*) Về chủ thể.
Theo quy định của luật hiện hành thì những chủ thể có quyền chào bán

chứng khoán ra công chúng bao gồm:
+ Các công ty cố phần đại chúng: đây là chủ thể phổ biến, thường
xuyên của thị trường chứng khoán và là chủ thể thường xuyên và chủ yếu
phát hành chứng khoán ra công chúng;
+ Các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần;
+ Các công ty cổ phần phi đại chúng;
+ Các quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng, các công ty đầu tư chứng
khoán.
(*) Về đối tượng chào bán.
Theo quy định của Luật chứng khoán thì đó là các chủ thể có quyền
chào bán các loại chứng khoán là cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ đầu tư.
(*) Về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng.
Việc chào bán chỉ được thực hiện sau khi chủ thể phát hành đã đăng kí
chào bán với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lí thị trường chứng
khoán. Chào bán rộng rãi ra công chúng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các nhà đầu
tư nhỏ, có khả năng gây nguy hại cho cả thị trường nên phải chịu sự kiểm tra
giám sát, tuân theo thủ tục chặt chẽ và những điều kiện khắt khe. Luật chứng
khoán 2006 quy định những điều kiện để được phát hành chứng khoán ra
công chúng. Theo đó chủ thể phát hành phải đáp ứng những điều kiện về tài
chính, tình hình kinh doanh, phương án phát hành, sử dụng và trả nợ vốn.
(*) Về phạm vi chào bán.
Việc chào bán được thực hiện trên phạm vi lớn, thu hút số lượng lớn
nhà đầu tư, không chỉ có tổ chức mà buộc phải có cả các nhà đầu tư nhỏ,
không chuyên. Vì việc chào bán mang tính chất “đại chúng” nên tổng giá trị
chứng khoán chào bán thường rất lớn.

4



Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng theo điều 3a của Nghị định
84/2010/NĐ-CP thì chào bán chứng khoán ra công chúng không được thực
hiện trong hai trường hợp sau:
“1. Doanh nghiệp không đủ điều kiện chào bán chứng khoán ra công
chúng theo qui định Điều 12 Luật chứng khoán.
2. Chào bán chứng khoán ra công chúng để thành lập doanh nghiệp,
trừ trường hợp doanh nghiệp qui định tại khoản 4 và 5 Điều 4 Nghị định này(
thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc lĩnh vực công nghệ cao)”
(*) Về hồ sơ và thủ tục chào bán.
Luật chứng khoán 2006 đã quy định cụ thể các nội dung của bản cáo
bạch. Đồng thời Luật cũng quy định về trình tự thủ tục chào bán chứng khoán
ra công chúng: quy định về phân phối chứng khoán, về việc đình chỉ chào bán
chứng khoán ra công chúng, về thời hạn chào bán chứng khoán ra công
chúng.
2.2/ Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức phát hành chào bán
chứng khoán của mình trong phạm vi một số nhà đầu tư được chọn lọc
(thường là các tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán lâu dài) như công ty
bảo hiểm, quỹ đầu tư, ngân hàng, các đối tác quan trọng... với những điều
kiện hạn chế. Vì thế, việc chào bán riêng lẻ đòi hỏi tổ chức phát hành hay tổ
chức tư vấn chào bán có mối quan hệ rộng rãi với các quỹ đầu tư, ngân hàng,
công ty đầu tư, công ty chứng khoán, các định chế tài chính… để thiết lập
kênh phân phối chứng khoán hiệu quả nhất.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định trong khoản 12a điều 6
Luật chứng khoán Việt Nam 2006 (sửa đổi bổ sung 2010). Theo đó: “chào
bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán cho dưới
một trăm nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và
không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet”.
(*) Về chủ thể chào bán
Theo Nghị định 01/2010/NĐ-CP đối với cổ phiếu thì chủ thể chào bán

cổ phiếu riêng lẻ là công ty cổ phần, các doanh nghiệp chuyển đổi thành công

5


ty cổ phần, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành
công ty cổ phần.
Đối với trái phiếu, theo nghị định 52/2006/NĐ-CP thì chủ thể chào bán
trái phiếu riêng lẻ là công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian
chuyển đổi thành công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo qui định của Luật
Doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh
thổ Việt Nam.
(*) Về đối tượng chào bán.
Đối tượng chào bán bao gồm cổ phiếu và trái phiếu. Tuy nhiên phương
thức này hay được dùng để chào bán trái phiếu.
(*) Về điều kiện chào bán.
Điều kiện chào bán riêng lẻ đối với cổ phiếu được quy định tại điều 8
Nghị định 01/2010/NĐ-CP, đó là: Doanh nghiệp thuộc phạm vi chủ thể được
phép chào bán cổ phiếu riêng lẻ; Có quyết định thông qua phương án chào
bán cơ phần riêng lẻ và phương án sử dụng vốn huy động được của chủ thể có
thẩm quyền; Phương án chào bán xác định rõ số lượng và đối tượng nhà đầu
tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng một năm kể từ
ngày hoàn thành đợt chào bán; Có hồ sơ đăng ký hợp lệ...
Điều kiện chào bán riêng lẻ đối với trái phiếu quy định tại Nghị định
52/2006/NĐ-CP như sau: Doanh nghiệp thuộc phạm vi chủ thể được phát
hành trái phiếu riêng lẻ; Có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày
chính thức đi vào hoạt động; Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm
phát hành được kiểm toán; Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền
kề năm phát hành phải có lãi; Có phương án phát hành được tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền thông qua.

(*) Về phạm vi chào bán.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ chỉ được tiến hành trên phạm vi hẹp,
hướng tới là một số ít các nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc số ít nhà đầu tư cá
nhân đặc biệt. Đây thường là các nhà đầu tư có kiến thức chuyên sâu về đầu
tư chứng khoán, có khả năng tiếp cận cùng loại thông tin về việc chào bán, có
khả năng tự hiểu và tự đánh giá được những thông tin đó… Vì thế, chứng

6


khoán phát hành theo phương thức này không phải là đối tượng giao dịch tại
Sở giao dịch chứng khoán.
(*) Về hồ sơ và thủ tục chào bán.
Khác với thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng, trong thủ tục
chào bán chứng khoán riêng lẻ, chủ thể phát hành chứng khoán riêng lẻ không
phải đăng ký phát hành với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán. Vì vậy
thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ đơn giản hơn, chỉ bao gồm hai bước:
công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối chứng khoán.
Chủ thể chào bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin về cuộc chào bán, bản
thân tổ chức phát hành và loại chứng khoán sắp phát hành. Các thông tin này
phải được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc niêm yết
công khai tại trụ sở của tổ chức phát hành, tổ chức tham gia phân phối, tại nơi
tổ chức đấu thầu và các địa điểm phân phối chứng khoán.
Phân phối chứng khoán thường được tiến hành theo phương thức bán lẻ
hoặc đấu thầu. Bán lẻ thường được sử dụng để chào bán thêm cổ phần ở các
công ty cổ phần đang hoạt động nay muốn tăng vốn điều lệ hoặc để phân phối
cổ phàn lần đầu ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Phương thức đấu
thầu thường được áp dụng để chào bán riêng lẻ trái phiêu doanh nghiệp.
Riêng đối với chào bán cổ phiếu, còn có thêm một thủ tục là đăng ký với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trước khi công bố thông tin.

II. Đánh giá pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam.
1. Những điểm tiến bộ.
a/ Đối với các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán ra
công chúng.
- Xét dưới góc độ pháp luật Việt Nam quy định về chào bán chứng
khoán ra công chúng, pháp luật Việt nam đã xây dựng được một hệ thống văn
bản pháp luật hiện hành điều chỉnh rất chi tiết và cụ thể. Các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện nay về chào bán chứng khoán khá chặt chẽ và đầy
đủ. Trong đó, các chủ thể muốn kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán cần
phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về điều kiện thành lập cũng như điều kiện
hoạt động của doanh nghiệp, các quy định về báo cáo lên các cơ quan nhà

7


nước và chế độ công bố thông tin, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp khá đầy đủ. Pháp luật chứng khoán quy định khá chặt chẽ về điều kiện
thành lập của các chủ thể kinh doanh chứng khoán, điều kiện chào bán chứng
khoán ra công chúng.
- Về điều kiện chào bán cổ phiếu, Luật chứng khoán 2006 đã khắt khe
hơn khi đưa ra điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đăng kí phát
hành cổ phiếu ra công chúng như phải kinh doanh có lãi năm liền kề, không
có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu. Luật chứng khoán cũng
đã quy định về điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, đây là
điểm mới đáng ghi nhận của Luật chứng khoán nhắm bảo đảm chất lượng của
những chứng chỉ quỹ đầu tư được lưu hành trên thị trường.
- Về trình tự, thủ tục, Luật chứng khoán đã khắc phục được nhược điểm
của các văn bản trước. Trước đây, theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP các chủ thể
muốn phát hành chứng khoán thì phải gửi hồ sơ xin cấp phép phát hành tới
Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Sau đó Nghị định 144/2003/NĐ-CP đã thay

thế quy định này bằng quy định đăng ký phát hành chứng khoán ra công
chúng, tuy nhiên vẫn yêu cầu các chủ thể phát hành phải có đơn đăng ký phát
hành. Quy định này thể hiện quan hệ xin - cho giữa các chủ thể phát hành và
ủy ban chứng khoán. Luật chứng khoán hiện nay quy định tổ chức phát hành
thực hiện đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng bằng cách lập hồ sơ
đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng gửi Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước. Tuỳ thuộc loại chứng khoán sẽ phát hành mà chủ thể phát hành phải
hoàn tất bộ hồ sơ khác nhau. Ngoài ra, việc quy định chỉ một loại hồ sơ đăng
ký chào bán cổ phiếu áp dụng chung cho cả chào bán lần đầu và chào bán
thêm cũng giúp cho thủ tục chào bán bớt rườm rà.
b/ Đối với các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán
riêng lẻ.
- Xét dưới góc độ pháp luật Việt Nam quy định về chào bán chứng
khoán riêng lẻ, pháp luật Việt nam đã xây dựng được một hệ thống văn bản
pháp luật hiện hành điều chỉnh rất chi tiết và cụ thể. Các quy định của pháp
luật chứng khoán riêng lẻ nhìn chung là khá đầy đủ đáp ứng được nhu cầu hội

8


nhập hóa nền kinh tế quốc tế và nền kinh tế thị trường hiện nay. Các quy định
của pháp luật đã đáp ứng phần nào nhu cầu về huy động vốn của các chủ thể
phát hành.
- Về điều kiện chào bán riêng lẻ pháp luật có sự quy định khác nhau đối
với mỗi loại hình công ty. Công ty cổ phần mới thành lập có điều kiện về chào
bán chứng khoán riêng lẻ khác với doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ
phần, khác với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công
ty cổ phần. Sự phân biệt này nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn ở nước ta khi
các doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hóa, bản chất của các loại
doanh nghiệp khi chưa cổ phần là khác nhau nên cần làm những công việc

khác nhau khi chào bán chứng khoán riêng lẻ.
- Pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ quy định về chào bán chứng
khoán riêng lẻ khá đơn giản, chủ thể phát hành không cần phải làm thủ tục
đăng ký chào bán với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán. Điều này
khắc phục được tình trạng điều kiện phải làm thủ tục đăng ký phức tạp của
chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, chủ thể phát hành chứng
khoán riêng lẻ vẫn phải đảm bảo cung cấp cho các nhà đầu tư một cách đầy
đủ, trung thực các thông tin về cuộc chào bán và chủ thể chào bán chứng
khoán riêng lẻ đó và về loại chứng khoán sắp chào bán thông qua việc công
bố thông báo chào bán chứng khoán riêng lẻ. Như vậy, quy định này của pháp
luật một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức phát hành mặt khác lại tạo
điều kiện cho việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán
nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm, lừa đảo trên thị trường phát hành chứng
khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
- Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ đơn giản, dễ thực hiện
hơn so với chào bán chứng khoán ra công chúng. Thủ tục chỉ bao gồm hai
bước là công bố thông tin và phân phối chứng khoán không cần phải đăng kí
chào bán chứng khoán, điều này giúp nhà phát hành tiết kiệm thời gian, công
sức và chi phí.
2. Những hạn chế còn tồn tại.

9


Thứ nhất, theo luật định, doanh nghiệp chào bán cổ phiếu ra công
chúng phải đáp ứng các điều kiện như phải có mức vốn điều lệ thực góp tối
thiểu là 10 tỷ đồng và phải hoạt động kinh doanh có lãi. Nhưng trên thực tế có
rất nhiều doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng và có trên 100 cổ đông
muốn phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để huy động vốn nhưng
không biết phải thực hiện như thế nào. Điều này gây khó khăn cho doanh

nghiệp trong việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn, mặt khác đã tạo
ra tình trạng các doanh nghiệp buộc phải “lách luật” bằng cách chặt nhỏ đợt
phát hành thành các đợt phát hành riêng lẻ; hoặc ban đầu chỉ phân phối cho
dưới 100 cổ đông để không phải tuân thủ quy định của Luật chứng khoán
nhưng sau đó cho phép chuyển nhượng (chỉ là hình thức, không phải là
chuyển nhượng thực sự) và sau đợt phát hành, số cổ đông vẫn là trên 100
người.
Thứ hai, căn cứ quy định của Luật chứng khoán về điều kiện chào bán
chứng khoán ra công chúng thì một điều kiện là phải kinh doanh có lãi và
không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu. Đối với các công
ty cổ phần thành lập mới, theo các quy định hiện hành, trong vòng hai năm sẽ
không được phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng vì sẽ không đáp ứng đủ
hồ sơ theo quy định. Điều này hạn chế việc huy động vốn đại chúng trong
nhân dân đồng thời tạo ra các hình thức phát hành chui, thiếu công bố thông
tin và tính minh bạch.
Thứ ba, quy định về bản cáo bạch, báo cáo tài chính là một trong
những căn cứ để nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư. Nhưng làm thế nào để
kiểm chứng được thông tin mà doanh nghiệp công bố trong bản cáo bạch khi
chào bán chứng khoán ra công chúng là chính xác khi mà hiện nay chưa có
quy định nào buộc doanh nghiệp phải chứng thực cho các thông tin trong bản
cáo bạch.
Thứ tư, hồ sơ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng yêu cầu báo cáo
tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán. Tuy nhiên
Pháp luật hiện hành hiện nay chưa có quy định về tiêu chuẩn đối với tổ chức
kiểm toán thực hiện kiểm toán, chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để đánh giá nội

10


dung hoạt động kiểm toán của các tổ chức đó. Ngoài ra cũng chưa có những

quy định để gắn trách nhiệm của tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đối với
kết quả hoạt động kiểm toán và một thực tế hiện nay là sự độc quyền của các
tổ chức kiểm toán, chi phí kiểm toán vượt quá sức của tổ chức lần đầu chào
bán chứng khoán ra công chúng do các điều kiện khắt khe của tổ chức kiểm
toán.
Thứ năm, theo quy định hiện nay, các doanh nghiệp phát hành phải
nêu giá phát hành và giá bảo lãnh phát hành (nếu có) ngay khi nộp hồ sơ đăng
ký phát hành. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp và các tổ
chức bảo lãnh phát hành đặc biệt là trong bối cảnh thị trường chứng khoán
nhiều biến động và thời gian thẩm định hồ sơ đăng ký phát hành kéo dài như
hiện nay. Điều này tạo ra nhiều rủi ro cho doanh nghiệp và nhà bảo lãnh khi
ấn định giá phát hành và giá bảo lãnh quá sớm, làm giảm sự an toàn của đợt
phát hành.
Thứ sáu, chào bán chứng khoán riêng lẻ khác với chào bán ra công
chúng ở chỗ chào bán chứng khoán được tiến hành với những thủ tục đơn
giản hơn với chế độ công bố thông tin đơn giản hơn. Nhưng nghị định
01/2010 ra đời đã ràng buộc về chế độ công bố thông tin ngặt nghèo giống
như chào bán chứng khoán ra công chúng làm cho ranh giới của chào bán
chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ bị xóa mờ.
Thứ bảy, phần lớn các chứng khoán được chào bán riêng lẻ là những
chứng khoán chưa được niêm yết và giao dịch ngoài thị trường tập trung do
vậy, mức rủi ro khá cao. Bên cạnh đó, chưa có một cơ chế giải quyết tranh
chấp hiệu quả trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ.
3. Một số giải pháp hoàn thiện.
Thứ nhất, nhiều ý kiến cho rằng, trước đòi hỏi của sự vận động, phát
triển của nền kinh tế và nhu cầu huy động vốn thông qua việc phát hành
chứng khoán của doanh nghiệp, cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định có
liên quan theo hướng, có thể bỏ điều kiện về vốn, giữ nguyên điều kiện về
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện chào bán chứng khoán ra
công chúng.


11


Đây cũng là quan điểm của cơ quan quản lý. Theo một thành viên Ban
soạn thảo và Tổ biên tập dự án Luật Chứng khoán sửa đổi bổ sung (dự kiến
được Quốc hội xem xét thông qua vào năm 2011), luật mới sẽ tạo điều kiện
cho việc huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua việc phát hành chứng
khoán ra công chúng (với quy định bỏ điều kiện về mức vốn tối thiểu), đồng
thời vẫn đảm bảo chất lượng hàng hóa khi tham gia thị trường (với quy định
về điều kiện kết quả kinh doanh có lãi của năm liền trước năm đăng ký). Qua
đó giảm bớt việc doanh nghiệp phải “phát hành chui” vi phạm pháp luật.
Thứ hai, trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động như hiện này thì
thời gian thẩm định hồ sơ nên rút ngắn. Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần
kiểm tra kỹ hơn việc chào bán chứng khoán ra công chứng nhưng có thể giảm
một số thủ tục không cần thiết để rút ngắn thời gian đăng ký phát hành theo
hướng xem xét chặt chẽ việc chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng,
còn những lần chào bán tiếp theo thời gian xét duyệt hồ sơ xem xét để có thể
đẩy nhanh vì doanh nghiệp đã được xem xét kỹ trong chào bán lần đầu
Thứ ba, pháp luật cần có các quy định cụ thể về hoạt động của các tổ
chức kiểm toán, trách nhiệm của các tổ chức này, đồng thời nới lỏng các điều
kiện của tổ chức kiểm toán, thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng tham gia
vào thị trường chứng khoán thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng.
Thứ tư, cần thành lập một cơ quan có chức năng chuyên quản lý, giám
sát và thực hiện các thủ tục liên quan đến quản lý như cho phép, chấp nhận
..đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tiến tới thành lập một cơ
quan thống nhất quản lý việc chào bán chứng khoán của doanh nghiệp và xa
hơn nữa là chào bán chứng khoán nói chung.
Thứ năm, để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các tổ chức phát hành
đối với các thông tin trong bản cáo bạch, để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp

pháp của các nhà đầu tư pháp luật cần đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể để đánh
giá tính tính trung thực của bản cáo bạch cũng như các thông tin liên quan đến
tài chính.
Thứ sáu, tăng cường tính hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
chào bán chứng khoán riêng lẻ và đưa ra các giao dịch chứng khoán chưa

12


niêm yết vào khuôn khổ pháp lý. Đặc biệt, tăng cường công tác thanh tra,
giám sát trong việc xác định tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục chào bán, quy định
về hồ sơ, công bố thông tin trước và sau khi chào bán,... bảo đảm cho hoạt
động này diễn ra côn bằng, đúng pháp luật.
Thứ bảy, xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào
bán chứng khoán riêng lẻ. Những tranh chấp này có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán. Do vậy, cần
phải có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, chế
tài áp dụng, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Thứ tám, bên cạnh một cơ quan chuyên quản lý hoạt động chào bán
chứng khoán, cần ban hành một nghị định về xử phạt trong lĩnh vực chào bán
chứng khoán. Nghị định này sẽ là cơ sở pháp luật để cơ quan quản lý áp dụng
khi tiến hành xử lý các vi phạm phát sinh trong việc chào bán chứng khoán.
III. Pháp luật về chào bán chứng khoán hiện hành đã đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn ở Việt Nam đến mức độ nào.
Sau hơn một thập kỷ phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
những bước phát triển khá tích cực, đóng góp rất lớn đến sự phát triển của nền
kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng trải qua một thời kỳ bùng
nổ ấn tượng vào năm 2006 và sau đó lại rơi vào tình trạng suy giảm từ năm
2009 đến nay với những hiện tượng như: giá chứng khoán giảm liên tục
xuống mức rất thấp so với mệnh giá, nhiều công ty chứng khoán thua lỗ,...

Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận được vai trò tích cực của thị trường
chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua đã có những đóng góp to lớn đến
thị trường tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân của Việt Nam.
Đi kèm với sự bùng nổ thị trường chứng khoán, Việt Nam đã xuất hiện
các dấu hiệu gian lận chứng khoán như làm giả chứng khoán, thao túng thị
trường chứng khoán,... Thực tế, trong thời gian qua tại thị trường Việt Nam có
khá nhiều chứng khoán lên giá, xuống giá mà không thể giải thích được. Bản
thân các cổ đông lớn, các công ty niêm yết cũng công bố thông tin theo cách
rất dễ gây nhầm lẫn, khó hiểu (như công bố thông tin vừa mua, vừa bán cổ
phiếu quỹ, hoặc thông báo mua/bán cổ phiếu nhưng xong lại không thực

13


hiện,..). tình trạng này chứa đựng nhiều yếu tố dễ tổn thương, đổ vỡ hệ thống,
nếu không có sự tăng cường kiểm soát của hệ thống pháp luật và các cơ quan
quản lý chứng khoán.
Thực tế cho thấy, nhiều quy định hiện hành về điều kiện chào bán
chứng khoán ra công chúng còn chưa phù hợp với hoạt động và nhu cầu của
nhiều doanh nghiệp (như về quy định vốn tối thiểu của doanh nghiệp phải đạt
10 tỷ đồng), bên cạnh đó quy định về xử phạt hành chính còn bất cập (mức
hình phạt quá nhẹ không đủ sức răn đe) và thủ tục từ phía cơ quan quản lý nhà
nước tuy đã được cải tiến, nhưng vẫn còn rườm rà. Do vậy, có không ít trường
hợp doanh nghiệp cố tình vi phạm để thực hiện việc phát hành chứng khoán
ra công chúng khi chưa đáp ứng đủ điều kiện và sẵn sàng chịu phạt. Tính tới
tháng 6/2009, Thanh tra Ủy ban chứng khoán đã xử phạt hành chính tổng số
219 doanh nghiệp vi phạm về chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng
không đăng ký; và con số thực tế còn cao hơn rất nhiều.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về chào bán chứng khoán riêng lẻ đa
dạng và phức tạp. Nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý nhưng chưa có cơ

quan quản lý chung ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý chung của Nhà nước đối
với hoạt động này. Có nhiều văn bản khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động
này nhưng hiệu quả pháp lý không cao, phần lớn là các văn bản dưới luật.
Hơn nữa, trong mỗi văn bản điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ của các doanh nghiệp còn tồn tạo nhiều bất cập chưa được sửa đổi, bổ
sung. Chẳng hạn sự mâu thuẫn trong việc quy định điều kiện chào bán trái
phiếu của công ty cổ phần giữa Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định
52/2006/NĐ-CP; những bất cập về phương thức tổ chức bán cổ phần lần đầu,
cơ quan quyết định cổ phần hóa và xác định giá trị doanh nghiệp, quy định về
nhà đầu tư chiến lược trong nghị định 187/2004/NĐ-CP;...
Như vậy, khung pháp lý về hoạt động chào bán chứng khoan chưa đảm
bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động thực sự công bằng, minh bạch
cũng như chưa đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư; thị trường hoạt động
trong điều kiện chưa đủ các quy định về chống gian lận trong khâu phát hành
đến giao dịch chứng khoán; chưa đủ các quy định về bảo lãnh phát hành,... Dễ

14


nhận thấy, các quy định pháp luật cho hoạt động chào bán chứng khoán ở Việt
Nam trong thời gian qua còn thiếu hụt đáng kể so với tốc độ tăng quy mô. Các
chế tài xử phạt chưa đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, tính răn đe đối
với các trường hợp gian lận chứng khoán, chậm công bố thông tin. Theo Ngân
hàng thế giới (WB), hiện tại cơ chế bảo vệ nhà đầu tư ở Việt Nam là điểm còn
khá yếu và quan ngại (WB, 2011).
Có thể thấy, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ
thống Văn bản pháp luật để có thể đáp ứng được sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ và đa dạng của thị trường chứng khoán.
IV. Kết luận.
Chào bán chứng khoán là hoạt động chủ yếu giúp cho các doanh

nghiệp, chính phủ và chính quyền địa phương huy động vốn một cách hiệu
quả. Hệ thống pháp luật là một trong những yếu tố khách quan tác động đến
hoạt động chào bán chứng khoán. Khi hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ,
hoàn thiện và đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho thị trường hoạt động ổn định, công
bằng, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán, tạo
niềm tin cho công chúng đầu tư. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về vấn đề này là một đòi hỏi cấp thiết nhất là khi nước ta đang trong giai đoạn
đẩy mạnh phát triển kinh tế. Một thị trường vốn hoạt động ổn định và hiệu
quả sẽ đóng vai trò đòn bẩy phát triển nền kinh tế vững bước đi lên, đáp ứng
mục tiêu dân giàu nước mạnh.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật chứng khoán,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2008.
2/ Nguyễn Minh Hằng, “Một số vấn đề về dự thảo Luật chứng khoán
liên quan đến chào bán chứng khoán ra công chúng”, Tạp chí luật học, số
4/2006
3/ Nguyễn Minh Hằng, “Tính thống nhất của các quy định về chào bán
cổ phần theo luật doanh nghiệp 2005 và luật chứng khoán 2006”, Tạp chí luật
học, số 8/2006.
4/ Phạm Thị Giang Thu, “Một số vấn đề pháp luật chứng khoán và thị
trường chứng khoán”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
5/ Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh
nghiệp Việt nam hiện nay, khóa luận tốt nghiệp, Lục Thị Hồng Nhung, 2010.
6/ Nguyễn Minh Hằng, “Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công
chúng công ty cổ phần Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận án
Tiến sĩ năm 2010.

7/ Luật chứng khoán 2006.
8/ Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 của Chính
phủ về việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương.
9/ Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ
về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
10/ Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2010 của Chính
phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ.
11/ Luật Doanh nghiệp năm 2005.

16


MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………..01
I. Những vấn đề cơ bản về pháp luật chào
bán chứng khoán.…………………………………………………………….02
1/ Khái quát về chào bán chứng khoán ra
công chúng.………………………………………………………………….02
a/ Khái niệm và đặc điểm.…………………………………………………...02
b/ Vai trò.………………………………………….………………………....03
2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán.…………………………...03
2.1/ Pháp luật về chào bán chứng khoán ra
công chúng.………………………………………………………………….03
2.2/ Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.……………………...........05
II. Đánh giá pháp luật về chào bán chứng khoán
ở Việt Nam.………………………………………………………………….07
1. Những điểm tiến bộ.……………………………………………………....07
2. Những hạn chế còn tồn tại.……………………………………………......09
3. Một số giải pháp hoàn thiện.…………………………………………...…11
III. Pháp luật về chào bán chứng khoán hiện hành

đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn ở Việt Nam
đến mức độ nào.………………………………………………................…..13
IV. Kết luận……………………………………………….......................…..15
Danh mục Tài liệu tham khảo………………………………………...……..16

17



×