Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích cơ sở thiết lập và những biểu hiện của nhà nước phân quyền cát cứ phong kiến tây âu 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.82 KB, 6 trang )

MỞ ĐẦU
Trạng thái phần quyền cát cứ là trạng thái cơ bản, nổi bật nhất trong thời kỳ
phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Nó bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến Tây Âu. Vậy trạng thái phân quyền cát cứ
được hiểu như thế nào? nó bắt nguồn từ những nguyên nhân gì? Và hệ quả của nó
ra sao? Để làm rõ những vấn đề này, Sau đây tôi xin được đi làm rõ đề tài: “ Phân
tích cơ sở thiết lập và những biểu hiện của nhà nước phân quyền cát cứ phong
kiến Tây Âu”.
NỘI DUNG
1.

Khái quát thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu.
Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến Tây Âu được chia

ra là ba gia đoạn:
- Sơ kỳ trung đại (từ thế kỷ V đến thế kỷ IX): Đây là giai đoạn hình thành và
-

củng cố nhà nước phong kiến Tây Âu.
Trung kỳ trung đại ( Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIV): Đây là giai đoạn phát triển

-

của nhừ nước phong kiến Tây Âu.
Hậu kỳ trung đại ( từ thế kỷ XIV đến thể kỷ XVII): Đây là giai đoạn khủng
hoảng và suy vong của chế đọ phong kiến ở Tây Âu.
Mối quan hệ phong kiến được thể hiện của chế độ phong kiến Tây Âu là quan

hệ bóc lột bằng địa tô – đây là đặc trưng được thể hiện rõ nhất của chế độ phong
kiến Tây Âu. Mối quan hệ giữa lãnh chúa và nông nô là mối quan hệ bất bình đẳng
về mọi mặt. Lãnh chúa phong kiến phương Tây là chủ sở hữu ruông đất lớn, nguồn


lợi thu hầu hết bằng địa tô. Vì vậy, hình ảnh của vị địa chủ phong kiến Phương rất
nổi, hay nói cách khác, định tính và định hình của giai cấp địa chủ phong kiến
phương Tây rất rõ ràng và đạn nét. Nông nô Phuong Tây hoàn toàn không có ruộng
đất,phải hoàn toàn lĩnh canh ruộng đất của lãnh chúa và nộp địa tô cho chủ. Người
nông nô đúng 100% là người tá điền, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Chế đọ sở hữu tư
1


về ruộng đất tập trung vào tay của giai cấp phong kiến là nhiều nhất và gần như
tuyệt đối.
Năm 843 chế độ phân quyền cát cứ xuất hiện và ngày càng phát triển.
2. Trạng thái phân quyền cát cứ của nhà nước phong kiến Tây Âu.
2.1 Cơ sở thiết lập ( nguyên nhân).
Nguyên nhân sau xa: Đế quốc Frăng được dựng lên do kết quả của những cuộc
chiến tanh xâm lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là
một liên hiệp tạm thời, không vững chắc. Trong phạm vi cả Tấy Âu và phạm vi
từng nước đều có khuynh hương phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc
của chính quyền phong kiến trung ương.
Nguyên nhân cơ bản, có tính quyết định là về kinh tế. trong đó, trước hết phải
nói đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của
lãnh chúa. Được hình thành từ hai nguồn:
Thứ nhất: Chế độ phân phong ruộng đất và chế độ thừa kế ruộng đất. Các vua
đều ban cấp ruộng đất cho những người trong họ hàng, cho bầy tôi và cho giáo hội
để trả công cho họ, hoặc để mua chuộc sự ủng hộ của họ khi xảy ra chiến tranh.
Các quý tộc, các lãnh chúa lớn cũng làm như vậy, tức là cũng phải đem ruộng đất
vua phân phong để chia cho tùy tùng của mình. Chế độ phân phong theo hình chop
như vậy đã tạo nên các quan hệ thần thuộc và tôn chủ, đó là quan hệ giữa người
nhận đất và người phong đất. Khởi đầu các ruộng đất phong chưa trở thành vật sở
hữu có thể thừa kế. Nhưng sau đó trên thực tế, tất cả con cái đều được thừa kế
ruộng đất mà cha ông mình được phân phong. Và một tập quán được hình thành tự

thế kỉ XI: chỉ người con trưởng mới được thừa kế. Một bộ phận đất tự do là tài sản
tư hữu của con cháu những địa chủ La Mã xưa kia và của chúa phong kiến địa
phương do thừa kế và cưỡng đoạt mà có. Những chúa đất này sẽ không thể nào giữ
được tính mạng và tài sản, nếu không có trong tay một lực lượng vũ trang và một
đám thân thuộc xung quanh để làm chỗ dựa. Vì vậy những chúa đất này cũng phải
thực hiện việc phân phong như trên.

2


Thứ hai: Là số ruộng đất ít ỏi của những nông dân tự do, nằm rải rác trong
những khu đất đai của lãnh địa. Nông dân tự do ngoài nghĩa vụ phải đi lính cho
nhà vua, còn là nạn nhân của các cuộc nội chiến, là đối tượng cướp bóc của giặc
ngoại xâm, nên họ phải nhờ chúa phong kiến ở lãnh địa để bảo hộ cho mình. Và
đương nhiên họ phải hiến đất cho lãnh chúa và trở thành lệ nông hoặc nông nô.
Chế độ phân phong và thừa kế dẫn đến hậu quả quyền sở hữu tối cao về ruộng
đất không thuộc về nhà vua và dẫn tới trạng thái phân quyền cát cứ. Trạng thái
phân quyền cát cứ đẻ ra trạng thái kinh tế tự cấp tự túc. Đến lượt nó nền kinh tế tự
nhiên nó lại là một yếu tố kinh tế củng cố trạng thái chính trị phân quyền cát cứ.
Về giao thông: do chiến tranh liên miên lại không được sửa chữa nên việc đi lại
gặp rất nhiều khó khăn và không an toàn do nạn cướp bóc thường xuyên xảy ra. Vì
vậy, liên hệ giữa các vùng không thường xuyên chặt chẽ. Đây là một số nguyên
nhân dẫn tới khuynh hướng cát cứ địa phương của các chúa phong kiến.
Ngoài ra, từng nước còn có những nguyên nhân khác nhau:
VD: Ở pháp, có những thời kỳ mà ruộng đất của nhà vua ít hơn rất nhiều so với
ruộng đất của các lãnh chúa phong kiến, thể lực của nhà vua rất hạn chế. Những
lãnh chúa lớn thường áp đảo nhà vua và tranh giành quyền lợi với nhau.
Ở Italia, do sự hình thành của các quốc gia thành thị, do sự xâm lược và xâu xé
của các thế lực bên ngoài, do sự hình thành quốc gia của giáo hoàng ở miền trung
Italia, nên Italia không có chính quyền trung ương.

Ở Đức, bọn chúa phong kiến rất chú trọng việc xâm lược để thỏa mãn nhu cầu
ruộng đất và của cải. Thế lực của chúng rất mạnh, nên cục diện cát cứ ở Đức rất
trầm trọng, thể kỉ XV ở Đức có khoảng 300 lãnh địa lớn nhỏ. Nói đến trạng thái
phân quyền cát cứ là nói đến lãnh địa và lãnh chúa phong kiến. Đất đai được phân
phong lần lượt trở thành tư hữu và tạo nên lãnh địa. Nhà vua ở trung ương thực tế
cũng chỉ là một lãnh chúa mà thôi. Có hai lãnh địa là lãnh địa phong kiến và lãnh
địa của giáo hội thiên chúa.
2.2. Biểu hiện của trạng thái phân quyền cát cứ.

3


Kinh tế: nền kinh tế của lãnh địa là nền kinh tế tự cung tự cấp. Lãnh địa có
nhiều trang viên, các trang viên lại được chia thành hai phần, một phần do lãnh
chúa trực tiếp quản lý gồm lâu đài và một số ruộng đất, vườn tược, một phần gồm
đất đai canh tác được chia thành nhiều khoản nhỏ để cấp cho các gia đình nông dân
lãnh canh.
Xã hội: Quan hệ cơ bản trong xã hội là quan hệ lãnh chúa với nông dân. Nông
dân có ba loại: nông dân tự do, lên nông và nông nô. Lệ dân và nông dân tự do
trước sau gì cũng bị biến thành nông nô, cả đời phụ thuộc chặt chẽ vào lãnh chúa,
làm lao dịch không công, nọp địa tô cho địa chủ… Đối với lệ nông không phải
nông nô, thid số ngày lao dịch và khoản tô hiện vật được giảm nhẹ hơn. Vì nông nô
phụ thuộc vào chúa phong kiến vầ mặt thân thể, nên họ phải nộp thuế thân cho
chúa phong kiến. Nông nô lấy vợ, lấy chồng phải nộp thuế kết hôn. Con cái nông
nô muốn kế thừa tài sản của cha cũng phải nộp thuế kế thừa. Nhưng so với lệ nô
trong xã hội cổ đại thì thân phận của nông no có khác hơn, họ có nhà của, công cụ
sản xuất, kinh tế gia đình riêng.
Chính trị: Những tược vị và chức vị mà nhà vua trao cho lãnh chúa nay trở
thành cha truyền con nối, biến luôn khu vực hành chính do chúng đứng đầu thành
lãnh địa riêng, biến thần thuộc, thần dân của nhà vua thành thần thuộc, thần dân

của lãnh chúa, có tòa án xét xử riêng những thần dân trong lãnh địa dám chống lại
chúng. Những vụ xét xử còn đem lại cho lãnh chúa một khoản thu nhập lớn nhờ
những món tiền phạt và tịch thu tài sản. ngoài ra lãnh chúa còn có quyền đúc tiền,
thu thuế… bộ phận quân đội của lãnh chúa hoàn toàn tách khỏi sự điều động của
nhà vua. Giữa các lãnh chúa thường xuyên xảy ra chiến tranh nhằm mở rộng lãnh
địa, quyền lực, tài sản.
3. Đánh giá chung.
Trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến có ảnh hửơng rất lớn
đến tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu như ở thời kỳ đâu nhà nước Frăng đứng đầu
nhà nước là vua, vua coi toàn bộ lãnh thổ vương quốc là sản nghiệp của mình, các
4


quan lại trong bộ máy nhà nước chỉ là bầy tôi giúp việc quản lý sản nghiệp đó, vua
là tổng chỉ huy quân đội nắm quyền xét xử tối cao quyền thế thì đến thời kỳ phân
quyền cát cứ ở Tây Âu đứng đầu nhà nước vẫn là vua nhưng quyền lực lại bị hạn
chế và phân tán cho các lãnh chúa. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến
địa phương không có sự thống nhất chặt chẽ. Mỗi lãnh địa như là một quốc gia
riêng và các lãnh chúa chính là một ông vua ngự trị trên vương quốc đó.
KẾT LUẬN
Có thể nói trạng thái phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản và nổi bật nhất
trong thời kỳ trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Nó xuất hiện
và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn trung kỳ trung đại chủ yếu do chế độ sở hữu
phong kiến về ruộng đất của các lãnh chúa, nó bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực
trong đời sống - xã hội. Qua đây, cho thấy quyền lực của các lãnh chúa trong nhà
nước phân quyền cát cứ phong kiến Tây Âu là rất lớn, lãnh chúa nắm tất cả mọi
quyền lực trong phạm vi lãnh địa, nó tương đương như một ông vua ngụ trị trên
lãnh địa đó.

5



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế
giới, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012.

2.

Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp

3.

luật thế giới, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997
Nguyễn Gia Phu (chủ biên), Lịch sử thế giới trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà

4.

Nội, 2006
Một số tài liệu tham khảo khác ( tạp chí, internet).

6



×