Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.31 KB, 16 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển
sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường,nhiều lĩnh vực mới xuất hiện,trong
đó có lĩnh vực chứng khoán còn khá mới mẻ. Được coi là môi trường đầu tư kinh
doanh phức tạp và nhạy cảm, số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn
cùng độ rủi ro cao, kéo theo tính cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích
được thiết lập trên thị trường; do vậy, tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán là
điều khó có thể tránh khỏi.
Trong quá trình thực hiện vẫn còn có một số vướng mắc và cần xử lý, đòi hỏi sự
quyết liệt hơn từ phía nhà nước.Sau đây là thực trạng và giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực chứng khoán,các ý kiến pháp lý đưa ra để hạn chế và giải quyết tốt
các tranh chấp.
B. NỘI DUNG.
Khái quát chung:
Như chúng ta đã biết,thị trường chứng khoán là một phương thức huy động vốn
đầu tư trung và dài hạn có hiệu quả và có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế
xã hội trong từng quốc gia và trên thế giới. Thị trường chứng khoán đòi hỏi một
trình độ tổ chức cao, có sự quản lý chặt chẽ trên cơ sở một hệ thống pháp lý hoàn
chỉnh. Trong lịch sử, thị trường chứng khoán đã nhiều lần bị khủng hoảng do tác
động của đầu cơ, lừa đảo, thông tin thất thiệt…và suy cho cùng, công chúng đầu tư
bị thiệt hại rất lớn. Vào những năm cuối thế kỷ 20, môi trường quản lý thị trường
chứng khoán của một quốc gia là một nhân tố quyết định việc đầu tư vào các thị
trường mới nổi. Quản lý nghiêm túc là điều kiện tiên quyết để có được một thị
trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, trung thực và đáng tin cậy. Một thị
trường chứng khoán được quản lý tốt sẽ tác động đến việc nâng cao mạnh mẽ hiệu
quả và độ an toàn của thị trường, làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
trong và ngoài nước trong việc thực hiện các mục tiêu chính của họ là tăng lợi
nhuận, giảm chi phí giao dịch và quản lý rủi ro.

1



I. Khái niệm và các quy định,phương thức về giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực chứng khoán.
Khái niệm:
Tranh chấp trên thị trường chứng khoán là những xung đột về quyền và lợi ích phát
sinh giữa các chủ thể khi tham gia thị trường chứng khoán và được thể hiện ra bên
ngoài dưới dạng nhu cầu cần giải quyết thông qua hình thức nhất định theo quy
định của pháp luật. Tranh chấp này thường được thể hiện ra bên ngoài thông qua
những hành vi thực tế của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật chứng khoán,
chẳng hạn như hành vi khiếu nại về lợi ích không đạt được trong quan hệ bảo lãnh
phát hành, hành vi khởi kiện về quan hệ thanh toán giữa các khách hàng với công
ty chứng khoán, hành vi xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán.
1. Quy định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có tranh chấp, đảm bảo hoạt
động ổn định của toàn thị trường, các tranh chấp cần được giải quyết một cách kịp
thời, đúng đắn. Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán là tổng hợp các
cách thức, biện pháp do các bên tranh chấp áp dụng trên cơ sở quy định của pháp
luật nhằm loại bỏ xung đột về quyền và lợi ích phát sinh trên thị trường chứng
khoán.
Vì giao dịch chứng khoán là một giao dịch thương mại đặc thù, nên lĩnh vực chứng
khoán cũng một phần được điều chỉnh bởi luật thương mại và các luật chuyên
ngành chứng khoán. Tuy nhiên, vì hiện nay luật chứng khoán mới chỉ có những
quy định chung về giải quyết tranh chấp nên chúng ta có thể sử dụng luật thương
mại và luật trọng tài để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Theo quy định tại luật chứng khoán 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2010) có quy định
các phương thức giải quyết tranh chấp như sau:
Điều 131. Giải quyết tranh chấp
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán
tại Việt Nam có thể được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải hoặc yêu
cầu Trọng tài hoặc Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

2


2. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng
khoán và thị trường chứng khoán tại Trọng tài hoặc Tòa án được tiến hành theo
quy định của pháp luật”.
Nhận xét: Pháp luật đã có quy định cụ thể về các phương thức giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán,như : phương thức thương lượng, hòa giải, trọng
tài hoặc tòa án. Nếu như quy định cũ tại Nghị định 144/2003 (đã hết hiệu lực) có
quy định rằng các tranh chấp trong thị trường chứng khoán phải được giải quyết
trên cơ sở thương lượng, hòa giải; trong khi quy định mới này không bắt buộc điều
đó. Như vậy,quy định mới này mang tính linh hoạt và hợp lý hơn, thể hiện quyền
tôn trọng và tự định đoạt của các chủ thể trong tranh chấp về chứng khoán.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp.
2.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp mà không cần đến bên thứ
ba, các bên sẽ tự ngồi lại với nhau và cùng tìm ra hướng giải quyết.
*Ưu điểm:Trên thực tế, viêc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng có ưu
điểm là nhanh chóng, đơn giản, ít tốn kém. Chính vì thế, những tranh chấp nhỏ
thường được giải quyết thành công bằng phương thức này, và cũng vì thế mà nó
thường được khuyến khích sử dụng khi có tranh chấp xảy ra.
*Nhược điểm:Tuy nhiên, Đây là hình thức giải quyết tranh chấp không chính
thức, do các bên tự nguyện áp dụng,giải quyết bằng thương lượng thường được áp
dụng đối với tranh chấp đơn giản, giá trị, tranh chấp không lớn.
2.2. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
Phương thức hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có sự xuất hiện của
bên thứ ba trung gian, bên thứ ba này có nhiệm vụ đứng ra đàm phán giúp tìm ra
hướng giải quyết nhanh nhất và hợp lý nhất để giải quyết các tranh chấp. Trên thực
tế, các tranh chấp về chứng khoán thường là những tranh chấp phức tạp, đòi hỏi
bên tham gia hòa giải phải là bên có kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm làm

việc mới có thể đứng ra để hòa giải được. Xuất phát từ yêu cầu trên, pháp luật có
quy định một số chủ thể có thể tham gia hòa giải như: sở giao dịch chứng khoán,
trung tâm giao dịch chứng khoán.
3


Theo quy định tại khoản 8 điều 37 Luật chứng khoán quy định sở giao dịch chứng
khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán có thể làm trung gian hòa giải nếu
được các thành viên yêu cầu đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch chứng
khoán. Như vậy, các chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động hòa giải.
Ban hòa giải gồm có trưởng ban hòa giải là giám đốc hoặc phó giám đốc trung
tâm giao dịch chứng khoán, đại diện phòng giám sát thị trường, các phòng chức
năng có liên quan và đại diện của các công ti chứng khoán thành viên cùng một số
thành viên khác theo đề nghị của trưởng ban hòa giải.
Hiện nay, chưa có quy định cụ thể nào về trình tự, thủ tục hòa giải trong lĩnh
vực chứng khoán, mà các đơn vị hòa giải thường tự đặt ra trình tự để tiện trong
việc thực hiện hoạt động này.
*Nhận xét:Việc thực hiện kết quả hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện
của các bên.
Các quy định về hòa giải này có tính kế thừa thành tựu lập pháp của các nước, vì
hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển lâu đời đều có quy định về
hòa giải như trên.
2.3. Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán bằng hình thức trọng
tài:
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua
hoạt động của trọng tài viên (với tư cách là bên thứ ba độc lập), nhằm chấm dứt
xung đột bằng việc đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Trọng
tài được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán
nói riêng và tranh chấp kinh doanh nói chung, bởi tranh chấp sẽ luôn được giải
quyết tận gốc bằng pháp quyết chung thẩm, có tính bắt buộc chung trong khi thời

hạn và chi phí không cao, thủ tục đơn giản, không cứng nhắc.
Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán tại trọng tài thương mại phải
tuân theo trình tự thủ tục luật định. Do pháp luật chuyên ngành không có quy định
riêng nên theo quy định chung của pháp luật tố tụng trọng tài, thời hiệu khởi kiện
tranh chấp trên thị trường chứng khoán nói riêng và hoạt động thương mại nói
chung là 2 năm kể từ ngày xảy ra tranh chấp.
4


-Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán bằng hình thức
trọng tài:
Trước tiên, chúng ta xem xét đến các điều kiện để được giải quyết tranh chấp bằng
hình thức trọng tài.
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động thương
mại.
Thứ hai, ít nhất một trong các bên tranh chấp có hoạt động thương mại.
Thứ ba, tranh chấp giữa các bên được pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng tài.
Thứ tư, phải có thỏa thuận sử dụng biện pháp trọng tài để giải quyết tranh chấp,
thỏa thuận này có thể trước hoặc sau khi có tranh chấp xảy ra. Ngoài hình thức văn
bản, các bên có thể sử dụng các hình thức khác được pháp luật cho phép như: fax,
telex... Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ tính độc lập của thỏa thuận trọng
tài, khi mà hợp đồng vô hiệu thì sẽ không kéo theo sự vô hiệu của thỏa thuận về
hợp đồng. Như vậy, pháp luật không hề hạn chế các chủ thể lựa chọn trọng tài làm
phương thức giải quyết các tranh chấp, mà nó phụ thuộc vào các chủ thể có lựa
chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp cho mình hay không.
- Thủ tục giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán bằng trọng tài:
Pháp luật cho phép các bên lựa chọn một trong hai hình thức trọng tài để giải quyết
tranh chấp, các trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên tự thành lập.
Trường hợp các bên lựa chọn trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện
gửi trung tâm, trong đó nêu rõ tên trọng tài viên đã chọn. Trung tâm trọng tài sẽ gửi

bản sao đơn kiện kèm theo danh sách trọng tài viên của trung tâm cho bị đơn.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng
tài bản tự bảo vệ cùng tên trọng tài viên đã chọn. Hai trọng tài viên được chọn
thống nhất chọn trọng tài viên thứ ba là chủ tịch hội đồng trọng tài. Chủ tịch trung
tâm trọng tài có thể chỉ định trọng tài viên nếu hết hạn mà bị đơn không chọn trọng
tài viên không thống nhất chọn được trọng tài viên thứ ba. Đối với trường hợp
chọn trọng tài viên thứ ba. Đối với trường hợp hội đống trọng tài do các bên thành
lập, nguyên đơn gửi đơn đến bị đơn và quyền chỉ định trọng tài viên do tòa án nhân
dân cấp tỉnh nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở. Các trọng tài viên có thể thay đổi
5


trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp nếu có yếu tố ảnh hưởng đến tính khách
quan trong công việc.
2.4. Pháp luật giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán bằng tòa án:
Giải quyết tranh chấp tại tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp theo đó một bên
bằng đơn kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và tòa án theo
thủ tục luật định sẽ đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
Lựa chọn hình thức này, các bên phải tuân thủ trình tự thủ tục pháp lý phức tạp,
thời gian bị kéo dài, công sức và chi phí cao. Do vậy, giải quyết tranh chấp bằng
toàn án chủ yếu trong trường hợp các bên không đồng ý hòa giải, hòa giải không
thành hoặc không thể áp dụng hình thức trọng tài.
- Về thẩm quyền: Thẩm quyền của tòa án về giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quan hệ dân sự được pháp luật phân định theo vụ việc, theo cấp tòa án, theo
lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Theo vụ việc, căn cứ vào điều 29
BLTTDS, có thể xác định các tranh chấp trên thị trường chứng khoán thuộc thẩm
quyền của tòa kinh tế và tòa dân sự.
Thẩm quyền theo cấp của tòa án để giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng
khoán. Căn cứ quy định tại điều 33,34 BLTTDS, tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về mua bán chứng khoán giữa các tổ chức, cá nhân có

đăng kí kinh doanh và tranh chấp giữa công ti với cổ đông hoặc giữa các cổ đông
với nhau, không phụ thuộc vào dấu hiệu có yếu tố nước ngoài trong tranh chấp.
Các tranh chấp còn lại thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh nếu đương sự hay tài
sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài.
Việc xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của
nguyên đơn đối với các tranh chấp trên thị trường chứng khoán cũng giống như
mọi tranh chấp giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự
- Về thời hiệu: Thời hiệu khởi kiện của các tranh chấp trên thị trường là hai
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
- Trình tự, thủ tục: Thủ tục tố tụng bắt đầu từ thời điểm tòa án thụ lí đơn kiện
của nguyên đơn và kết thúc bằng bản án do hội đồng xét xử tuyên. Pháp luật hiện
6


hành quy định rõ, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tối đa là 6 tháng (kể từ
ngày thụ lí) đối với tranh chấp về dân sự và 3 tháng đối với tranh chấp về kinh
doanh thương mại, tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Trường hợp hòa giải thành, thẩm phán lập biên bản hòa
giải thành. Các bên được pháp luật dành cho một khoảng thời gian cần thiết là bảy
ngày (kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành) để suy nghĩ và cân nhắc những nội
dung đã thỏa thuận. Hết thời hạn mà không có bên nào thay đổi ý kiến, thẩm phán
mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có
hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có
căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp
luật, đạo đức xã hội. Trường hợp hòa giải không thành, thẩm phán ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Đương sự có thể tự mình tham gia hoặc cử người đại diện và
có quyền tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử làm việc tập thể và ra bản án
giải quyết vụ tranh chấp theo nguyên tắc đa số dựa trên kết quả của việc hỏi và

tranh luận tại phiên tòa. Bản án có hiệu lực bắt buộc thi hành tuy nhiên nếu không
đồng ý với quyết định phân xử của tòa, các bên tranh chấp có quyền kháng cáo
trong thời hạn luật định theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hoặc giám đốc thẩm.
II. Thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và đưa ra ý
kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp.
1. Ưu điểm trong hoạt động giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
hiện nay.
Thứ nhất, pháp luật đã có quy định các phương thức giải quyết tranh chấp để các
bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết tốt nhất và phù hợp nhất cho mình, thể
hiện tính kịp thời của pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ hai, các cơ quan chức năng trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp cũng đã có sự
quan tâm, chú ý đến lĩnh vực này, góp phần giúp cho các tranh chấp được giải
quyết nhanh và hiệu quả hơn.
2 Hạn chế
Chưa có quy định cụ thể về vấn đề thương lượng, hòa giải
7


Mặc dù hòa giải và thương lượng được đề cập đến là một phương thức giải
quyết tranh chấp, nhưng vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về
trình tự thủ tục của hai phương thức này, gây khó khăn cho các bên trong quá trình
thực hiện hòa giải hoặc thương lượng.
Đối với việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán, thương lượng
hòa giải có vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này xuất phát từ hai lí do cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán luôn
khuyến khích các bên có xung đột tiến hành thương lượng hòa giải vì phương thức
này tiết kiệm thời gian. Thậm chí trước khi ban hành luật chứng khoán, pháp luật
đã coi thương lượng hòa giải là phương thức giải quyết mang tính bắt buộc đối với
tranh chấp xảy ra trên thị trường tập trung. Thứ hai, pháp luật đã ghi nhận vai trò
trung gian hòa giải của một số tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán

nhằm giải quyết hiệu quả loại tranh chấp chuyên biệt này .Mặt khác, các quy định
hiện hành liên quan đến vấn đề hòa giải tranh chấp giữa các thành viên của trung
tâm giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán chưa thể hiện rõ hòa giải
được đề cập với tư cách là thủ tục bắt buộc hay tự nguyện, gây bối rối cho các chủ
thể trong quá trình áp dụng.
Hạn chế trong quy định về vai trò trung gian hòa giải của một số tổ chức hoạt
động trên thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, quy định về thẩm quyền hòa giải của trung tâm giao dịch chứng
khoán không thống nhất, còn mâu thuẫn.
Thiếu những quy định cụ thể hóa về trọng tài thương mại trong việc giải quyết
tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
Một số quy định còn bất cập trong pháp lệnh trọng tài thương mại.
Bên cạnh những nội dung cơ bản đã đạt được, Pháp lệnh còn tồn tại một số quy
định bất cập, gây khó khăn trong quá trình áp dụng, đặc biệt khi những quy định đó
cần được cụ thể hóa để giải quyết hiệu quả tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
Có thể chỉ ra một số hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán bị hạn chế.
8


Thứ hai, quy định không rõ ràng về cách xác định thời hiệu khởi kiện.
Thứ ba, một số vấn đề liên quan đến trọng tài viên chưa được quy định cụ thể,
rõ ràng và hợp lý.
Một số bất cập trong pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng
khoán tại tòa án.
Trong thời gian qua, việc giải quyết tranh chấp bằng các con đường hòa giải gặp
rất nhiều khó khăn. Hạn chế nhất hiện nay của việc thương lượng, hoà giải là
phương án hoà giải không thực hiện được nếu các bên không thiện chí thực hiện vì
không có biện pháp cưỡng chế thi hành. Ngay đối với các phương án hoà giải thực

hiện trên cơ sở hoà giải bắt buộc cũng không cưỡng chế thi hành được vì chỉ là bắt
buộc phải sử dụng hoà giải như phương pháp đầu tiên chứ không có nghĩa
quyết định hoà giải là bắt buộc. Chính vì vậy, đối với chủ thể phải thực hiện nghĩa
vụ nêu trong phán quyết, họ có thể chấp nhận phương án hoà giải nhưng trì hoãn
thực hiện nghĩa vụ hoặc không thực hiện nghĩa vụ. Kết quả là tranh chấp không
thực hiện được bằng con đường hoà giải, nguy cơ hết thời hiệu khởi kiện là tiềm
tàng.
Với những phân tích trên, chúng tôi cho rằng pháp luật cần quy định toà án có
trách nhiệm từ chối thụ lí vụ việc phát sinh từ các tranh chấp bắt buộc phải hoà
giải; đồng thời thời gian hoà giải ngoài toà án không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Một điểm cần xem xét thêm, đó là trường hợpđã có phương án hoà giải thành, nếu
vụ việc tiếp tụcđược giải quyết tại toà án thì hội đồng xét xử phải coi phương án
hoà giải như là tài liệu quan trọng để đưa ra phán quyết cuối cùng. Chỉ có quy định
như vậy, việc hoà giải trước tố tụng mới có ý nghĩa, các hoạt động hoà giải
mới được phát huy, uy tín của ban hoà giải mới được giữ vững. Để thực
hiện được điều đó, yêu cầu cần phải đạt được là uy tín của thành viên ban hoà giải
(điều kiện thành viên), cơ cấu thành phần ban hòa giải phải đáp ứng được nhu cầu
thị trường. Thực tế quá trình giải quyết tranh chấp chứng khoán ở Hàn Quốc có thể
là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong vấn đề này. Tuy nhiên, để các phán
quyết (của trọng tài, của ban hoà giải, của toà án) có giá trị cao, phản ánh đúng

9


nguyện vọng của các bên, yêu cầu đối với thành viên xét xử, trọng tài viên, thành
viên ban hoà giải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, theo ý kiến chúng tôi,
thành viên của hội đồng xét xử, trọng tài viên phải là những người (hoặc ít nhất có
một thành viên) am hiểu về pháp luật chuyên ngành chứng khoán, hiểu biết về
hoạt động chứng khoán. Không loại trừ trường hợp chúng ta có thẩm phán, trong
tài viên chuyên về lĩnh vực này. Hoặc mô hình giải quyết tranh chấp trên thị trường

bằng con đường tố tụng có thể nêu ra để tham khảo: Có thể thành lập hội đồng xét
xử đặc biệt trong đó thành viên của hộiđồng ít nhất có thẩm phán (trọng tài)
chuyên về lĩnh vực chứng khoán, có chuyên gia chứng khoán (có thể là chuyên
gia độc lập). Hội đồng xét xử với cơ cấu thành viên như vậy có khả năng đưa ra
những phán quyết có giá trị.
3.Đưa ra ý kiến pháp lý để hạn chế và giải quyết tốt các tranh chấp:
* Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Ban hành văn bản pháp luật về hòa giải tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
Thực tế hầu hết các trường hợp có tranh chấp, các bên đều tiến hành thương
lượng, hòa giải nếu không đạt kết quả mới nhờ đến cơ quan tài phán. Tuy nhiên
hiện nay pháp luật chưa quy định rõ trình tự, thủ tục tiến hành như thế nào. Theo
em, văn bản về hòa giải tranh chấp trên thị trường chứng khoán với tư cách là
phương thức giải quyết tranh chấp độc lập có thể bao gồm một số nội dung chính
sau đây:
- Về phạm vi áp dụng: áp dụng cho mọi tranh chấp xảy ra trên thị trường chứng
khoán, không phân biệt tranh chấp đó xảy ra trên bộ phận thị trường nào.
- Về hòa giải viên: phải quy định cụ thể các điều kiện trở thành hòa giải viên
tranh chấp trên thị trường chứng khoán. Hòa giải viên có thể hoạt động với tư cách
độc lập hoặc là thành viên thuộc các trung tâm hòa giải do sở giao dịch chứng
khoán hoặc một số tổ chức khác hoạt động trên thị trường thành lập. Bên cạnh
những điều kiện chung, mỗi trung tâm hòa giải có thể ban hành những quy định
riêng về tiêu chuẩn hòa giải viên phù hợp với đặc điểm của từng trung tâm.

10


- Về cơ cấu ban hòa giải: Ban hòa giải có thể gồm một hoặc một số hòa giải
viên, tùy thuộc vào mức độ phức tạp của vụ tranh chấp và yêu cầu từ phía các bên
có tranh chấp. Đối với những tranh chấp có tính chất phức tạp, ban hòa giải phải từ
hai thành viên trở lên. Tuy nhiên, thực tế hoạt động chứng khoán, quản lý nhà nước

về chứng khoán ở thị trường chứng khoán Việt Nam đã chỉ ra rằng trình độ hiểu
biết pháp luật và áp dụng pháp luật của các chuyên gia chứng khoán chưa đủ để
giải quyết mọi vấn đề pháp lý phát sinh. Do vậy trong thành phần của ban hòa giải
phải có ít nhất một hòa giải viên là chuyên gia pháp lý trong lĩnh vực chứng khoán
và thị trường chứng khoán.
- Về trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải: quy định cụ thể các bước cần tiến hành
để hòa giải một vụ tranh chấp trên thị trường, bắt đầu từ khi các bên đề xuất
nguyện vọng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, lựa chọn hòa giải viên, tổ chức
phiên hòa giải và cuối cùng là việc ghi nhận kết quả hòa giải.
* Đội ngũ cán bộ chuyên trách về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng
khoán còn có chuyên môn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu xử lý vụ việc.
Vấn đề đặt ra đối với quá trình giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
nói riêng và hoạt động kinh tế nói riêng là việc áp dụng pháp luật để đưa ra những
phán xét nhất định. Luật áp dụng ở đây không chỉ đơn thuần là pháp luật chứng
khoán (mang tính chất chuyên ngành) mà còn liên quan đến rất nhiều văn bản
thuộc các ngành luật khác. Chẳng hạn, đối với những tranh chấp về quyền sở hữu
chứng khoán và các quyền có liên quan, luật áp dụng không chỉ đơn thuần là pháp
luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động chứng khoán mà còn dựa trên nhiều văn bản
pháp luật khác như Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp. Các chủ thể có liên quan
không chỉ dựa trên luật nội dung mà còn phải tuân thủ luật tố tụng như Pháp lệnh
giải quyết các vụ án kinh tế, pháp luật về trọng tài. Nhiều thuật ngữ pháp lí nếu
không được hiểu đúng và áp dụng đúng đắn, quyền lợi của các bên có liên quan
không được đảm bảo, quan trọng hơn, nguyên tắc pháp chế bị vi phạm, tính tôn
nghiêm của pháp luật khôngđược bảo toàn. Thực tế hoạt động chứng khoán, quản
lí nhà nước về chứng khoán ở thị trường chứng khoán Việt Nam đã chỉ ra rằng

11


trình độ hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật một cách tổng thể của các chuyên

gia chứng khoán chưa đủ để giải quyết mọi vấn đề pháp lí phát sinh (nếu có). Với
những phân tích này, chúng tôi muốn chỉ ra vai trò của các cán bộ pháp luật, cơ
quan tư vấn pháp luật, bộ phận pháp chế trong quá trình giải quyết tranh chấp trên
thị trường chứng khoán. Những đối tượng này là các chuyên gia pháp luật, có khả
năng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp nhuần nhuyễn nhất. Họ đồng thời
cũng là các chuyên gia pháp lí trong lĩnh vực chứng khoán (trong sự so sánh với
các chuyên gia pháp lí thuộc các chuyên ngành khác). Các cơ quan có thẩm quyền
(mà trước tiên là Uỷ ban chứng khoán nhà nước), muốn thực hiện được những tiêu
chí trên, cần phát huy tối đa khả năng sẵn có của lực lượng này; đồng thời cũng đặt
ra chiến lược xác định cụ thể nhiệm vụ, vai trò của họ trong quá trình giải quyết
tranh chấp chứng khoán. Cụ thể là trong thành phần của ban hoà giải bắt buộc phải
có chuyên gia pháp lí (tham gia với tư cách thành viên). Chuyên gia pháp lí này có
thểđang công tác tại trung tâm (sở) giao dịch hoặc là chuyên gia pháp lí của cơ
quan quản lí nhà nước về chứng khoán hoặc có thể là chuyên gia pháp lí độc lập.
Mỗi trường hợp đều có những lợi thế riêng. Chẳng hạn như, nếu là cán bộ của
trung tâm (sở) giao dịch, họ làđối tượng cọ sát trực tiếp với hoạt động chứng
khoán; nắm bắt nhanh nhất các diễn biến của thị trường, nguyên nhân phát sinh
tranh chấp, vì vậy, quyết định hoặc hướng dẫn của họ phản ánh được tính thực tế.
Nếu chuyên gia pháp lí là cán bộ của Uỷ ban chứng khoán, những đối tượng này
chính là những người tham gia vào quá trình tư vấn, soạn thảo các văn bản pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nên họ hiểu hơn ai hết nội dung
trong mỗi văn bản. Việc phán quyết, hướng dẫn, giúp đỡ sẽ phản ánh đúng tinh
thần của văn bản pháp luật. Không chỉ như vậy, việc tham gia với tư cách thành
viên của ban hoà giải không chỉ mang lại lợi ích cho các bên có tranh chấp mà còn
mang lại lợi ích cho Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Sự tham gia của họ đồng
nghĩa với việc các đối tượng này nắm được những vấn đề cơ bản phát sinh trên thị
trường nhanh nhất, chính xác nhất, từ đó Uỷ ban chứng khoán có được những biện
pháp quản lí phù hợp. Sự tham gia của các chuyên gia pháp lí độc lập cũng có
ưu điểm. Chuyên giađộc lập sẽ đánh giá sự việc mang tính khách quan hơn. Mặt
12



khác, các chuyên gia độc lập muốn tham gia vào ban hoà giải thường phải có
những điều kiện nhất định. Chính những điều kiện đó đã phản ánh tính khoa học
(trong việc áp dụng pháp luật) và tính thực tế (đánh giá sự việc cụ thể trong quan
hệ thị trường mà không bị các yếu tố quản lý hay lý thuyết chi phối).
* Cần mở rộng thẩm quyền hòa giải của Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm
giao dịch chứng khoán, đồng thời ghi nhận vai trò trung gian hòa giải cho một số
tổ chức khác hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Thực tế, tranh chấp xảy ra tại thị trường chứng khoán không chỉ bao gồm các
tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán của thành viên mà còn
nhiều dạng tranh chấp khác như: Tranh chấp xảy ra trên thị trường sơ cấp trong quá
trình công ty chứng khoán thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán hoặc giữa
tổ chức phát hành và những nhà đầu tư; tranh chấp giữa các công ty chứng khoán
là thành viên của Sở nhưng không liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán
mà liên quan đến hoạt động giao dịch cạnh tranh khách hàng nhằm tăng thị phần…
Những tranh chấp nêu trên không thuộc thẩm quyền hòa giải của Sở giao dịch
chứng khoán. Trong khi đó tâm lý chung của các bên có tranh chấp khi tiến hành
hòa giải đều muốn lựa chọn những hòa giải viên có uy tín và đáng tin cậy như hòa
giải viên tại các sở trung tâm giao dịch chứng khoán. Việc pháp luật giới hạn phạm
vi hòa giải tranh chấp của Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng
khoán cũng chính là hạn chế quyền lựa chọn trung tâm hòa giải của các bên tranh
chấp. Chính vì vậy cần mở rộng thẩm quyền hòa giải của Sở giao dịch chứng
khoán theo hướng cho phép họ được quyền làm trung gian hòa giải các tranh chấp
xảy ra trên thị trường chứng khoán (trừ tranh chấp liên quan đến bản thân trung
tâm), nhằm một mặt, tạo điều kiện cho những trung tâm thực hiện tốt vai trò hòa
giải được mở rộng phạm vi tranh chấp nhằm hòa giải cũng như tạo cơ hội cho các
bên tranh chấp lựa chọn tổ chức hòa giải có uy tín, mặt khác nhằm khắc phục sự
mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định hiện nay hướng dẫn về thẩm quyền hòa
giải của trung tâm. Song song với việc mở rộng thẩm quyền hòa giải của sở, pháp


13


luật cần ghi nhận quyền của các bên tranh chấp được để sở hòa giải mà không bắt
buộc phải là thành viên của sở hoặc trung tâm.
Bên cạnh sở hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán, một số tổ chức hoạt động
trên thị trường chứng khoán cũng có khả năng và điều kiện đảm nhận vai trò trung
gian hòa giải đối với một số tranh chấp nhất định như trung tâm lưu ký chứng
khoán, hiệp hội các công ty chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán.
Pháp luật hiện hành không quy cấm các tổ chức này hoạt động hòa giải song cũng
không quy rõ vai trò trung gian hòa giải của chúng. Do vậy cần phải quy định rõ
vấn đề này nhằm tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức yên tâm tiến hành hoạt động hòa
giải.
* Hoàn thiện các quy định về trọng tài thương mại đối với việc giải quyết
tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
- Sửa đổi một số quy định trong pháp lệnh trọng tài thương mại nhằm tạo cơ sở
đúng đắn cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trọng tài giải quyết tranh chấp
trên thị trường chứng khoán:
+ Cần mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
+ Cần sửa đổi kịp thời quy định liên quan đến thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ
tranh chấp bằng trọng tài theo hướng xác định lại thời điểm dùng làm mốc để tính
thời hiệu khởi kiện.
+ Pháp luật không nên quy định bắt buộc trọng tài viên phải là công dân Việt
Nam. Pháp luật nên cho phép người nước ngoài cũng có thể trở thành trọng tài viên
để giải quyết tranh chấp tại Việt Nam nếu họ đáp ứng các điều kiện do pháp luật và
từng trung tâm trọng tài đặt ra.
+ Bổ sung quy định về số lượng trọng tài viên trong một hội đồng trọng tài.
- Cần ban hành các quy định cụ thể hóa một số vấn đề quan trọng về trọng tài
trong quá trình giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán.

+ Quy định thời hiệu khởi kiện riêng đối với tranh chấp trên thị trường chứng
khoán.

14


+ Phải cụ thể hóa các quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên trong lĩnh vực giải
quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán nhằm xây dựng đội ngũ trọng tài
viên chuyên biệt, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp trên thị trường.
+ Phải quy định rõ thành phần hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán và các trường hợp có thể áp dụng thủ tục trọng tài rút gọn.
Bên cạnh đó cần phải phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Để có một
thị trường chứng khoán có hiệu quả và phát triển
C.KẾT LUẬN:
Việc giải quyết tốt các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và phát triển,
hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết, nó có ý nghĩa to
lớn trong chiến lược huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho các nguồn vốn
trong và ngoài nước được lưu thông thông suốt, phục vụ cho việc đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội
Trên đây là các phân tích của cá nhân em về vấn đề giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực chứng khoán, cùng với các đề xuất pháp lý nhằm hạn chế giải quyết các tranh
chấp cũng như giải quyết tốt các tranh chấp xảy ra trên thực tế. Nhằm hướng tới
mục đích thị trường chứng khoán hoạt động thông suốt và hiệu quả hơn.Bài viết
còn nhiều hạn chế mong thầy cô cho ý kiến để hoàn thiện và hiểu 1 cách đầy đủ
vấn đề.

15


MỤC LỤC


16



×