Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 3 giải một số dạng toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.84 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Nghị quyết Trung ương II của Đảng đã khẳng định “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu”. Chính vì vậy Đảng và nhân dân ta đã không ngừng quan tâm đến
chất lượng giáo dục, đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước.
Cùng với các môn học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng quan
trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của
thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận
thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn toán còn góp phần rèn luyện
phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát
triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt
khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong
đời sống thực tế.
Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt 2 năm qua tôi đứng lớp ở khối 3,
tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở
trường tiểu học, vì:
+ Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu hơn kiến thức về
số học, đo lường, yếu tố đại số, các yếu tố hình học đã được học trong môn toán
ở tểu học. Hơn thế nữa phần lớn các biểu tượng, khái niệm, quy tắc, tính chất
toán học đều được học sinh tiếp thu qua con đường giải toán.
+ Thông qua nội dung thực tế đa dạng của bài toán, học sinh sẽ tiếp nhận được
những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khả năng
áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống.
+ Việc giải quyết bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự xem xét vấn đề, tự
mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự kiểm tra
lại kết quả. Do đó giải toán là một cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì,
vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác.
Đồng thời trong thực tế học tập của học sinh tiểu học, đặc biệt là các lớp đầu
cấp việc giải toán còn có những khó khăn như: Khả năng phân tích đề của các
em chưa cao, nhất là đối với các bài toán có những dữ liệu chưa rõ ràng, các em
thường trình bày lời giải chưa chính xác, cách dẫn dắt lời giải hay sai, có khi các


em còn rất ngại làm, ngại giải toán có lời văn.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi nhận thấy việc giúp học sinh giải toán có lời
văn lớp 3 là vấn đề rất cần thiết nên ngay từ đầu năm học ( 2016 – 2017) khi
được phân công dạy lớp 3 tôi đã trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn tìm hiểu về đề
tài: “ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 3 giải một số dạng toán có lời
văn”
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu và làm sáng tỏ một số khó khăn, tồn tại trong quá trình giải toán có
lời văn ở lớp 3, cách thức dạy học về nội dung giải toán.
Tìm ra một số biện pháp cụ thể, nhằm hình thành và phát triển kĩ năng giải các
bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3.
Giúp học sinh lớp 3 biết cách giải và trình bày bài toán có lời văn, nắm chắc và
thực hiện đúng quy trình bài toán.


1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực trạng giảng dạy về chủ đề dạy giải một số dạng toán có lời văn
lớp 3A5 trường Tiểu học Điện Biên 2.
- Cải tiến phương pháp dạy học về giải toán có lời văn lớp 3A5
- Dạy thực nghiệm để kiểm nghiệm các giải pháp đề ra và đề xuất ý kiến về
dạy giải toán có lời văn.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu nội dung chương trình, SGK
Toán 3. Đọc và tham khảo các tài liệu có liên quan đến dạy học môn toán ở tiểu
học.
Phương pháp thực hành: Xây dựng và tổ chức các hình thức dạy học giải
toán có lời văn.
Phương pháp điều tra: Điều tra bằng cách phỏng vấn giáo viên, học sinh. Kiểm
tra kết quả học tập để thu thập thông tin, số liệu.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Thông qua việc thiết kế các hình thức

dạy học phần giải toán có lời văn và tổ chức các giờ học toán ở trên lớp, từ
những kết quả đạt được tổng kết thành kinh nghiệm thực tiễn.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học
Ở học sinh tiểu học, nhất là học sinh các lớp đầu cấp, hệ thống tín hiệu
thứ nhất còn chiếm nhiều ưu thế so với hệ thống tín hiệu thứ hai, do đó các
em rất nhạy cảm với tác động bên ngoài. Điều này phản ánh trong nhiều
hoạt động nhận thức ở lứa tuổi học sinh tiểu học. Do khả năng phân tích
chưa phát triển, các em thường tri giác trên tổng thể. Tri giác không gian
chịu nhiều tác động của trường tri giác gây ra các biến dạng vào "ảo giác".
Ở học sinh tiểu học sự chú ý không có chủ định còn chiếm ưu thế, sự chú
ý này chưa bền vững nhất là các đối tượng ít thay đổi. Do thiếu khả năng
tổng hợp, sự chú ý của học sinh tiểu học còn phân tán, mặt khác do thiếu cả
khả năng phân tích nên các em dễ bị lôi cuốn vào trực quan, gợi cảm. Sự
chú ý ở các em thường hướng ra bên ngoài vào hành động chứ các em chưa
có khả năng hướng vào trong, hướng vào tư duy.
Trí nhớ trực quan hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ
lôgíc, ghi nhớ máy móc dễ dàng hơn ghi nhớ lôgíc, hình ảnh cụ thể dễ nhớ
hơn các câu chữ trừu tượng. Trí tưởng tượng tuy có phát triển hơn nhưng
tản mạn, ít có tổ chức và còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh
nghiệm sống và các mẫu hình đã biết.
Với đặc điểm nhận thức như trên thì quá trình nhận thức môn Toán của
học sinh tiểu học được phát triển qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu (Từ lớp 1 đến lớp 3): sự nhận thức còn mang tính trực quan.
- Giai đoạn hai (Từ lớp 4 đến lớp 5): các hoạt động tri giác phát triển và
được hướng dẫn bởi các hoạt động nhận thức khác nên chính xác dần.
Dựa vào đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học việc dạy học giải toán
có lời văn nhằm mục đích rèn luyện và phát triển khả năng tư duy linh



hoạt, sáng tạo, khả năng tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, khả năng vận
dụng những kiến thức đã học và những trường hợp có liên quan.
2.1.2. Đặc điểm của môn toán ở Tiểu học
Môn Toán nói chung và môn Toán ở tiểu học nói riêng ngoài những đặc
điểm chung của Toán học còn có những đặc điểm riêng:
a. Vào lớp1, học sinh lần đầu tiên được tiếp xúc với môn Toán, cụ thể là
được tiếp xúc với các đối tượng của môn Toán, các quan hệ Toán học, các
phép toán của Toán học...Đó là cơ sở ban đầu để làm nền tảng cho quá
trình học tập môn Toán sau này. Đặc biệt đó cũng là lần đầu tiên các em
được làm quen và rèn luyện các thao tác tư duy trong môn Toán như: quan
sát, so sánh, tổng hợp, chứng minh...vv.
b. Nội dung môn Toán ở tiểu học không có cấu trúc thành những phân môn
riêng biệt như các bậc học trên mà nó là một môn học thống nhất: bao gồm
những mặt kiến thức chủ yếu có mối quan hệ hữu cơ với nhau và lấy kiến
thức số học làm kiến thức cốt lõi.
c. Cấu trúc nội dung môn Toán ở tiểu học quán triệt vào tư tưởng của Toán
học hiện đại và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh tiểu học.
d. Các kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ
yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố phát
triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.
2.1.3. Tầm quan trọng của dạy học giải toán ở Tiểu học:
Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn
toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ
với nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ
bản và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình.
Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các
điểm sau:
a. Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung
đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh

củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời
qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện
những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy
để giúp các em phát huy hoặc khắc phục.
b. Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện
thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống
một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng
thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng
những kỹ năng đó trong cuộc sống.
c. Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví
dụ: các số, các phép tính, các đại lượng v.v... đều có nguồn gốc trong cuộc
sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối
quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v..
d. Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng
lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một
bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em


cần phân biệt cái gì đã cho và caí gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa
các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm; Suy luận, nêu nên những phán
đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải
quyết vấn đề đặt v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần
giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm
việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết
quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v...
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Năm học 2017-2018 tôi được phân công giảng dạy lớp 3A5 Trường Tiểu
học Điện Biên 2. Lớp 3A5 do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 41 học sinh.
*Qua quá trình giảng dạy ở trường tiểu học, đặc biệt là được đứng lớp ở
lớp

3, tôi thấy: mặc dù mấy năm gần đây các nhà trường đã áp dụng
phương pháp mới vào quá trình dạy học, học sinh được hoạt động nhiều
hơn, khả năng tư duy, kĩ năng thực hành ở học sinh được phát triển nhiều
hơn, xong ở các em vẫn còn một số hạn chế về năng lực tư duy, ở thói quen
mà chưa thể khắc phục được:
- Một số học sinh vẫn còn tình trạng ghi nhớ máy móc, khả năng phân tích
tổng hợp chưa cao, sự chú ý của các em còn dễ bị chi phối, lôi cuốn vào
trực giác gợi cảm bên ngoài, khả năng cảm nhận vào bản chất còn hạn chế.
-Trong toán có lời văn thì thường các em giải được những bài toán điển
hình, bởi những bài toán này các em đã nắm được công thức tính cụ thể.
Còn những bài toán không có dạng điển hình hoặc là đúng dạng nhưng phải
qua một vài bước mới ứng dụng được công thức giải thì các em thường
không biết làm như thế nào. Từ đó về căn bản chất lượng dạy và học toán
có lời văn chưa cao. Để nắm được thực trạng học sinh lớp 3 giải một dạng
toán có lời văn tốt, cụ thể như thế nào tôi đã tiến hành ra bốn bài toán
thuộc bốn kiểu bài của bốn dạng toán giải có lời văn như sau:
1
* Bài toán 1: Một cửa hàng có 27 m vải hoa và người ta đã bán đi
số vải
3
đó. Hỏi cửa hàng đã bán bao nhiêu mét vải?
* Bài toán 2: Năm nay con 7 tuổi, tuổi mẹ gấp 5 lần tuổi con. Hỏi năm nay
mẹ bao nhiêu tuổi?
* Bài toán 3: Mẹ có 40 quả bưởi, sau khi đem bán thì số bưởi giảm đi 4
lần. Hỏi mẹ còn lại bao nhiêu quả bưởi?
* Bài toán 4: Anh có 20 cái kẹo, em có nhiều hơn anh 7 cái kẹo. Hỏi cả
hai anh em có bao nhiêu cái kẹo?
Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả các em làm bài như sau:
- Có nhiều em làm đúng cả 4 bài.
- Một số em còn chưa xác định được dạng toán cụ thể của từng bài nên còn

bị nhầm lẫn.
- Một số em tính sai.
Sau khi khảo sát chất lượng môn toán đầu năm học vào thời điểm tháng
10/2017(năm học 2017 – 2018) kết quả giải toán của lớp 3A5 đạt được cụ thể
như sau :


Tổng
số HS
41

Điểm 1 - > 4
SL

TL 0/0

7 em

17

Điểm 5 - > 6

Điểm 7 - > 8

Điểm 9- > 10

SL

TL 0/0


SL

TL0/0

TL

TL0/0

9 em

21,9

14 em

34,1

10 em 24,3

Từ thực tế trên tôi đã tìm hiểu và rút ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
Về phía học sinh:
- Các em chưa biết cách đọc hiểu đề toán để từ đó biết tóm tắt làm rõ nội
dung của đề. Do đó các em chưa biết xác định hướng giải của bài toán là
bắt đầu từ đâu.
- Lời giải đặt chưa lô gíc với phép tính, lời giải còn thiếu ý, chưa hoàn
chỉnh.
- Học sinh có thể tiếp thu rất dễ dàng các phép tính số học nhưng khi gặp
toán có lời văn các em còn lúng túng và dẫn đến không hứng thú với việc
giải toán nên kết quả thực hành giải toán chưa cao.
*Về phía giáo viên:
- GV chưa tìm hiểu rõ những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái sai của học

sinh để tìm phương pháp dạy phù hợp giúp học sinh nắm được cách giải có
hệ thống và vận dụng cách giải vào bất kì bài toán nào.
- GV còn sử dụng phương pháp đàm thoại nhiều trong tiết học.
- GV thường cho học sinh lên chữa bài khi mà lớp làm bài chưa xong dẫn
đến học sinh dưới lớp chép bài của bạn mà không tự suy nghĩ để tìm ra
hướng giải bài toán.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được
thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có
liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn
chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy
bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra
được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm
được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài
toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình
mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp
giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải
viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3
mới phải viết câu lời giải…Nhưng với yêu cầu đổi mới của giáo dục thì hiện nay
ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước
nhảy vọt khá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu như nắm bắt được cách
giải toán ngay từ lớp 1, 2, 3 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt
và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp
tục học tốt ở các lớp sau.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:


2.3.1 Tìm hiểu tâm lí học sinh, giúp học sinh có hứng thú học toán có lời
văn.

Học sinh Tiểu học hiện nay nhìn chung các em phần lớp chưa hứng thú học
Toán có lời văn, tư tưởng còn phân tán, chưa bền vững, chưa ổn định, chủ yếu là
hứng thú gián tiếp. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này là do: việc
giảng dạy chưa làm cho HS nhận thức rõ ý nghĩa của môn Toán, chưa thực sự
tạo tính chủ động, sáng tạo trong quá trình giải toán, cũng như chưa tạo ra bầu
không khí tích cực trong quá trình học toán. Nếu tăng cường một số biện pháp
tâm lí sư phạm nhằm thay đổi những nguyên nhân trên theo hướng tích cực thì
hứng thú học môn Toán ở học sinh Tiểu học sẽ được nâng cao. Trước khi bắt đầu
vào học môn Toán phải tạo ra cho học sinh có tâm lí thoải mái không mang tính
chất khô khan, cứng nhắc. Học sinh có ý thức tự giải quyết vấn đề bằng cách
hợp tác trao đổi, thảo luận với bạn trong nhóm những điều chưa hiểu còn thắc
mắc, phân vân trong khoảng thời gian cụ thể. Giáo viên có thể hỗ trợ tích cực để
các em giải quyết được vấn đề một cách nhanh, dễ hiểu nhất giúp các em khắc
sâu kiến thức để có hứng thú hơn khi học môn toán.
2.3.2 Hướng cho học sinh tự suy nghĩ làm việc, biết tự lập kế hoạch giải
toán
Việc giải toán có lời văn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học
sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới.
Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích
cực vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các
mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho và cái phải tìm. Suy luận, nêu
lên những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần
thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải
toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận,
chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự
kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v...
Các em biết tự lập kế hoạch giải toán mà không thụ động.
Giáo viên phân tích rõ cho học sinh:
- Xác định căn cứ để lập lời giải.
- Căn cứ vào câu hỏi của bài toán

- Căn cứ vào kế hoạch giải bài toán đã lập
- Căn cứ vào yêu cầu tìm giữ kiên chưa biết hoặc kết quả cần tìm.
- Những dữ kiện chưa biết cần tìm để trả lời câu hỏi cuối cùng của bài toán
hay nói cách khác phục vụ tìm đáp số cuối cùng.
- Nội dung lời giải mô tả định tính mục đích thực hiện phép tính.
2.3.3 Khảo sát phân loại đối tượng học sinh .
*Đối với giáo viên được phân công giảng dạy môn toán, để chất lượng
học toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng đạt kết quả tốt thì việc
đầu tiên là phải khảo sát chất lượng học sinh, phân loại đối tượng học sinh
một cách cụ thể để tìm hiểu mức độ học tập ở các em, từ đó đề ra kế hoạch
bồi dưỡng cụ thể, áp dụng biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng loại
đối tượng học sinh. Những em tiếp thu việc giải toán chậm thì không yêu
cầu các em phải giải tất cả các bài toán có trong chương trình mà tập trung


rèn cho các em làm chắc dạng toán cơ bản, điển hình. Trong các giờ học
không nên ép các em phải làm đủ số lượng bài như các bạn khác trong lớp
mà chỉ cho các em làm số lượng bài vừa phải với lực học của mình, nên
giao bài từ dễ đến khó và động viên các em kịp thời. Như vậy sẽ giúp cho
các em đỡ chán nản khi phải giải những bài toán mà các em cho là khó.
2.3..4 Hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải một bài toán:
Thông thường nếu là dạng toán điển hình thì giáo viên sẽ hướng dẫn để
học sinh nhận ra dạng toán và giải theo công thức của từng dạng. Vậy với
dạng toán mà khác dạng hoặc qua những bước phụ mới tìm ra được dạng
quen thuộc thì học sinh sẽ lúng túng, do đó cần phải hướng dẫn học sinh
nắm được cách giải mà có thể giải được bất kì bài toán nào, dạng toán nào.
Ta có thể hướng dẫn học sinh:
Bước 1.Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề và tóm tắt đề
GV không dùng phương pháp đàm thoại để hỏi “ Bài toán cho biết gì? Bài
toán yêu cầu tìm gì?” mà sử dụng cách khác, ví dụ như:

+ Gạch một gạch dưới những điều đã cho.
+ Gạch hai gạch dưới những điều cần tìm.
Như vậy, học sinh tự mình tìm hiểu rõ nội dung, yêu cầu của đề, tự phân
biệt được những gì bài toán đã cho và những gì bài toán yêu cầu cần tìm để
tìm mối liên quan giữa các yếu tố cho các bước tiếp theo.
Từ bước tìm hiểu bài ở trên đã giúp học sinh tóm tắt bài toán một cách dễ
dàng. Học sinh có thể dùng kí hiệu, sơ đồ ... để tóm tắt một cách ngắn gọn
nhất thể hiện rõ mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài toán.
Bước 2: Định hướng cho học sinh lập kế hoạch giải bài toán:
Để giải được bài toán thì phải có hướng giải, do đó phải có kế hoạch để
giải bài toán theo trình tự như thế nào cho hợp lí.
Thường các bài toán giải trong toán lớp 3 thường được đưa ra ở 2 dạng
chính đó là các bài toán điển hình đơn giản chỉ dựa vào công thức là có thể
giải được. Dạng thứ 2 là các bài toán phức tạp hơn, phải qua một vài bước
trung gian thì mới vận dụng công thức để giải. Đây là dạng toán có nhiều
phép tính.
Bước 3: Trình bày bài toán.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 50 SGK Toán 3.
“ Thùng thứ nhất đựng 18 l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ
nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”.
- Yêu cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:
Thùng 1 có :
18l .
Thùng 2 có:
nhiều hơn 6l.
Hỏi cả hai thùng:
? lít dầu.
- Sau khi học sinh nêu được bằng lời để tóm tắt bài toán, tôi hướng dẫn học sinh
tập tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Thùng 1

Thùng 2


- Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, tôi
tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải:
+ Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm số lít dầu ở cả hai thùng trước hết ta phải
tính gì?
( Tính số dầu ở thùng thứ hai).
Yêu cầu học sinh trình bày bằng lời nói. Lời giải và phép tính tương ứng.
Thùng thứ hai đựng số lít dầu là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 6 = 24 (lít)
Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai:
Cả hai thùng đựng số lít dầu là:
18 + 24 = 42 (lít)
- Giáo viên khuyến khích các em có cách đặt lời giải khác.
Tuy nhiên ở phép tính thứ hai, tôi thấy có một số em thực hiện tìm số dầu cả
hai thùng bằng cách lấy 24 + 6 = 30 (lít).
Đối với những em này, tôi nhận thấy các em có khả năng tư duy chưa tốt, còn
chưa nắm vững yêu cầu bài toán. Đây là những trường hợp nằm trong nhóm đối
tượng học sinh chưa hoàn thành. Tôi phải hướng dẫn các em hiểu rõ:
Muốn tìm số dầu cả hai thùng ta phải làm gì? để các em nêu được: Lấy số dầu
thùng thứ nhất + số dầu ở thùng thứ hai và giúp cho các em thấy được số dầu ở
thùng thứ nhất là 18l và số dầu ở thùng thứ hai là 24l.
- Sau đó yêu cầu học sinh trình bày bài giải.
- Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu miệng đề toán và
tập tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng nhiều lần để các em ghi nhớ một bài
toán.
Ví dụ: Bài tập 3 (trang 50 - SGK toán 3)
Bao gạo
Bao ngô


27kg
5kg

?kg

- Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời theo yêu
cầu.
Học sinh: Bao gạo nặng 27 kg. Bao ngô nặng hơn bao gạo 5kg. Hỏi cả hai
bao gạo và ngô nặng tất cả bao nhiêu ki - lô - gam?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
Bao ngô nặng số kg là: 27 + 5 = 32 (kg)
Cả hai bao nặng số kg là: 32 + 27 = 59 (kg)
Rồi tự trình bày bài giải:
Bài giải
Bao ngô nặng số ki – lô - gam là:
27 + 5 = 32 (kg)
Cả hai bao nặng số ki – lô - gam là:
32 + 27 = 59 (kg)
Đáp số: 59 ki lô gam.
* Quy trình hướng dẫn giải một bài toán cụ thể:
- Chương trình Toán lớp 3 thường được cho dưới các dạng sau:


+ Một cửa hàng buổi sáng bán được 432l dầu, buổi chiều bán được gấp đôi buổi
sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu? (Bài tập 4 tr 103).
1
+ Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng
số
3

cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây? (Bài tập 3 tr 106)...
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh các
kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kĩ năng trình bày
bài giải, được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề:
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số thuật ngữ
quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ
1 1
thông thường như: “ gấp đôi”, “ , ”, “tất cả”…
3 4
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang
làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề. Tôi không dùng phương pháp đàm thoại
để hỏi “ Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?” mà sử dụng cách
khác, ví dụ như:
+ Gạch một gạch dưới những điều đã cho.
+ Gạch hai gạch dưới những điều cần tìm.
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội
dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và
dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài
toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Định hướng cho học sinh lập kế hoạch giải toán:
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép chia” nếu
1 1
bài toán yêu cầu “tìm , ... ”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần
3 4
còn lại” hay là “lấy ra”. Chọn “phép nhân” nếu “gấp đôi, gấp 3” …

Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa
1
được quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường
3
nữa? (Bài tập 2 tr 119).
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu
hỏi gợi ý như:
+ Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa trước hết
phải tìm gì trước? Nêu cách tìm? ( Tìm số mét đường đã sửa: 1215 : 3)
+ Sau khi tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (Tìm số mét đường
còn phải sửa)
+ Nêu cách tìm? ( Lấy tổng số mét đường phải sửa trừ đi số đã sửa).


b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng quan
trọng và khó khăn nhất đối với một số học sinh trung bình, yếu lớp 3. Chính vì
vậy việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó
khăn lớn đối với người dạy. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn các
cách hướng dẫn sau:
- Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của bài
toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu lời giải:
“Vườn nhà Hoa có số cây cam là:” (Đối với bài toán đơn)
- Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: “Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao
nhiêu mét đường nữa trước hết phải tìm gì trước?” Để học sinh trả lời miệng:
“Tìm số mét đường đã sửa:” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu
hỏi, câu lời giải và phép tính):
Số mét đường đã sửa là:
1215 : 3 = 405 (m)

Đáp số: 405 (mét).
Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách
lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như 2 cách
trên.
Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em suy
nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù
hợp với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (ngắn gọn, dễ hiểu,
phù hợp với các em) còn các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù
hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải:
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu lời
giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp
mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này
trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy
định.
- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau
gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch
chân), câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở
cuối câu có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 -> 3
chữ, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số
ghi sang phần vở bên phải ( có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả
và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
 Lưu ý: Trong mọi trường hợp người giáo viên luôn luôn phải dùng thước
để gạch chân và liên tục nhắc học sinh tạo cho các em bỏ thói quen xấu:
gạch bằng tay.
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình bày
bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ



đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên
chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước
lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình
bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập…
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc nhở,
rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp
giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự
thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực tiếp
các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải toán có lời văn, tôi đã cho học sinh
làm một số dạng bài tập giải toán có lời văn như sau:
1
Ví dụ 1: Một thùng đựng 24l mật ong, lấy ra
số lít mật ong đó.
3
Hỏi trong thùng còn lại bao nhiêu lít mật ong?
Không cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay cách làm như sau:
Tóm tắt
Có :
24l.
1
Lấy ra:
số lít mật ong.
3
Còn lại: ? lít mật ong.

Bài giải
Số lít mật ong được lấy ra là:

24 : 3 = 8 (l)

Trong thùng còn lại số lít mật ong là:
24 – 8 = 16 (l)
Đáp số: 16 lít mật ong.
Ví dụ 2: Một bến xe có 45 ô tô. Lúc đầu có 18 ô tô rời bến, sau đó có
thêm 17 ô tô nữa rời bến. Hỏi bến xe đó còn lại bao nhiêu ô tô?
Học sinh lớp tôi thực hiện như sau:
Tóm tắt
Có:
45 ô tô.
Rời bến: 18 ô tô.
Rời tiếp: 17 ô tô.
Còn lại: ? ô tô.

Bài giải
Số ô tô rời bến là:
18 + 17 = 35 (ô tô)
Số ô tô còn lại trong bến là:
45 – 35 = 10 (ô tô)
Đáp số: 10 ô tô.
Ví dụ:* Hướng dẫn học sinh giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị :
Bài 1: Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài.
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán
+ Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can).
+ Bài toán hỏi gì? (1 can chứa bao nhiêu lít mật ong).
+ Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi
bảng:
7 can: 35 l

1 can:…. l ?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán.


Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Đáp số: 5 l mật ong.
- Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm
phép tính gì? (phép tính chia).
- Giáo viên giới thiệu: Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu
chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can,
chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của
một phần trong các phần.
- Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp
dụng, củng cố như:
Bài 2: Có 300 kg gạo chia đều vào 5 bao. Hỏi mỗi bao gạo như thế đựng được
bao nhiêu ki – lô – gam gạo?
+ Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề toán và nêu miệng phần tóm tắt và giải:
Tóm tắt
5 bao: 300kg
1 bao:…… kg?
Bài giải
Số ki-lô-gam gạo chứa trong mỗi bao là:
300 : 5 = 60 (kg)
Đáp số: 60 kg gạo
Bài 3: Có 15 kg đậu chia đều vào 3 túi. Hỏi mỗi bao như thế đựng được bao
nhiêu ki-lô-gam đậu?
- Thực hiện tương tự bài 1
3 túi : 15 kg

1 túi : ….. kg?
Bài giải
Số ki-lô-gam gạo đựng trong mỗi túi là:
15 : 3 = 5 ( kg)
Đáp số : 5 kg
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi
2 can có mấy lít mật ong?
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán
7 can : 35 lít
2 can : …. lít?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán:
+ Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? (1can chứa được
bao nhiêu lít mật ong)
+ Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong
của 7 can chia cho 7).
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: … l?
+ Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can.
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2).


- Giải bài toán
Bài giải
Số lít mật ong có trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Số lít mật ong có trong 2 can là:
5 x 2 = 10 (l)
Đáp số:10l mật ong.
- Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong
trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.

- Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1:
Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước:
+Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau) .
Thực hiện phép chia.
+ Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại( giá trị của nhiều phần bằng
nhau).Thực hiện phép nhân.
- Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng.
- Giáo viên nêu miệng bài toán, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và
giải thích cách làm.
Bài 1: Có 45 kg ngô chia đều trong 3 túi. Hỏi với 8 túi như thế đựng được bao
nhiêu ki-lô-gam ngô?
3 túi : 45 kg
8 túi : …kg?
Bài giải
Số ki-lô-gam có trong mỗi túi là:
45 : 3 = 15 ( kg)
Số ki-lô-gam có trong 8 túi là:
15 x 8 = 120 ( kg)
Đáp số: 120 kg
Bài 2: Có 20 gói bánh dựng trong 4 thùng. Hỏi 12 thùng như thế đựng được bao
nhiêu gói bánh?
4 thùng : 20 gói.
12 thùng :….gói?
Bài giải
Số gói bánh đựng trong 1 thùng là
20 : 4 = 5 ( gói)
Số gói bánh đựng trong 12 thùng là:
5 x 12 = 60 ( gói)
Đáp số: 60 gói bánh
Sau khi HS được làm bài tập áp dụng GV củng cố lại cách làm của dạng bài

này và yêu cầu HS nhắc lại để nắm chắc kiểu bài 1
Bước 1: ( Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị ( Giá trị 1 phần). ( phép chia).
Bước 2: Tìm nhiều đơn vị (gấp lên số lần) ( phép nhân).
+ Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị (nhiều
phần).
- Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2.


* Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút
về đơn vị giải bằng 2 phép tính chia: ( Kiểu bài 2)
Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu
có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán :
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán
35 lít: 7 can
10 lít: ….can?
- Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán:
+ Muốn tính được 10 lít mật ong đựng trong bao nhiêu can ta phải biết gì? ( 1
can chứa được bao nhiêu lít mật ong).
+Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong
của 7 can chia cho 7).
+ Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: …l?
+ Vậy muốn biết 10 lít đựng trong bao nhiêu can khi đã biết số lít đựng trong 1
can?
(Lấy 10 lít mật ong chia cho số lít mật ong có trong 1 can ).
- Giải bài toán
Bài giải
Số lít mật ong trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)

Số can cần có để đựng 10 lít là:
10 : 5 = 2 ( can)
Đáp số: 2 can
- Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong
trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị.
- Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 2:
+ Bước 1:: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về đơn vị) .
( phép chia).
+ Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia).
Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương
pháp hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở
kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá
kết quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài).
Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt của bài các em sẽ
thấy được cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải như:
35 l : 7 can.
35 l : 7 can
10 l : 2 can ( đúng)
10 l : 50can ( vô lí).
Từ đó các em nắm chắc phương pháp giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng , kĩ
xảo tốt khi giải toán.
* Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài :
Để học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các
bước giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài.


Các
bước

Kiểu bài 1

( Tìm giá trị của các phần)
- Tìm giá trị của 1 phần: (phép
chia)
(Đây là bước rút về đơn vị)

Kiểu bài 2
( Tìm số phần)
- Tìm giá trị của 1 phần: ( phép
chia)
1
- (Đây cũng là bước rút về đơn
vị)
- Tìm giá trị của nhiều phần
- Tìm số phần.(phép chia)
( phép nhân)
- Lấy giá trị các phần chia cho
2
- Lấy giá trị 1 phần nhân với giá trị 1 phần.
số phần
Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải
các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song
song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi
lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc
các em không còn nhầm lẫn nữa.
* Lần 1:
Bài toán 1: Có 5 túi gạo chứa được 40 kg gạo. Hỏi 3 túi gạo thì chứa được bao
nhiêu ki - lô - gam gạo?
Bài toán 2: Có 40 ki – lô - gam gạo đựng vào 5 túi. Hỏi có 24 kg gạo thì cần bao
nhiêu túi như thế để đựng?
* Củng cố cách giải, mối quan hệ giữa các phép tính trong 2 bài toán này. Mặt

khác học sinh dễ dàng nhìn nhận ra lỗi sai của mình, nếu như nhầm phép tính
(Bài toán 2 là bài toán ngược của bài toán 1)
* Lần 2:
Bài toán 1: Có 4 cái áo đơm hết 24 cái cúc áo. Hỏi có 1236 cúc áo thì đơm
được bao nhiêu cái áo như thế?
Bài toán 2: Ba thùng như nhau đựng được 27 lít mật ong. Hỏi 7 thùng như thế
đựng được bao nhiêu kg mật ong?
*Đổi thứ tự bài để học sinh củng cố được cách nhận dạng 2 kiểu bài và phương
pháp giải.
2.3.5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê
các em trong học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý
từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những
em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi
các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi
tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn.
Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ
rệt tôi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học
sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố
không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong
muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta
đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí thông minh
khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc


phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp
đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì
phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức
dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như

làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì
đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“
Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt
động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng
2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học
tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản
ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học….
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý
đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
* Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê
các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý
từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những
em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi
các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi
tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn.
Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ
rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học
sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố
không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong
muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta
đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí thông minh
khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc
phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp
đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì
phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức

dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như
làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì
đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“
Lấy học sinh làm trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt
động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho
các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em
thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi
nhớ một số nội dung bài đã học….
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý
đến việc: Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.


- Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp
3, tôi đã khảo sát chất lượng học sinh qua các bài toán giải (vào cuối tháng 3
năm 2018).
Bài toán 1 : Đoạn thẳng AB dài 13 cm, đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn
thẳng AB. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu xăng - ti - mét ?
Bài toán 2 : Một can dầu có 36 l, sau khi dùng số dầu trong can giảm đi 6
lần. Hỏi trong can còn lại bao nhiêu lít dầu ?
Bài toán 3 : Hộp thứ nhất có 12 bút chì và nhiều hơn hộp thứ hai 4 bút chì.
Hỏi cả hai hộp có bao nhiêu bút chì ?
Bài toán 4 : Một cửa hàng bán trong 8 ngày được 1640 kg đường. Hỏi trong
5 ngày cửa hàng bán được bao nhiêu ki – lô – gam đường ?
1
Bài toán 5 : Một hình chữ nhật có chiều dài là 18 cm, chiều rộng bằng
3
chiều dài. Tính chu vi hình chữ nhật đó?
* Kết quả đạt được cụ thể ở lớp 3A5 như sau:
Tổng

số HS
41

Điểm 1 - > 4
SL

TL

0 em

0

%

Điểm 5 - > 6
SL

TL

0 em

0

%

Điểm 7 - > 8
SL

2 em


TL

%

4,8

Điểm 9- > 10
TL

TL

%

39 em 95,2

Như vậy, sau khi áp dụng một số biện pháp giải toán có lời văn theo
hướng đổi mới, chất lượng học sinh có tiến bộ rõ rệt. Từ 6 em chưa nắm
được cách giải toán có lời văn nay không còn em nào chưa nắm vững cách
giải toán. Trong lớp học, mỗi khi tiết toán có nội dung bài liên quan đến
toán giải học sinh không còn ngại làm nữa, không khí lớp học bớt căng
thẳng nhàm chán, học sinh có hứng thú và tự tin hơn khi học toán.
Qua quá trình nghiên cứu cơ sở lí luận, điều tra thực trạng và tiến hành
thực nghiệm với mục đích giúp học sinh giải toán có lời văn, tôi thấy chất
lượng môn toán của lớp được nâng lên đáng kể. Điều đó cho thấy, để học
sinh lĩnh hội đầy đủ kiến thức cơ bản và hứng thú với việc học toán cũng
như thành thạo trong giải toán thì phương pháp dạy của người thầy là rất
quan trọng. Thầy là người tổ chức các hoạt động - Trò là người trực tiếp thi
công.
Song để đạt được kết quả khả quan như trên, đòi hỏi giáo viên phải luôn
tìm tòi sáng tạo, nghiên cứu tỉ mỉ sách giáo khoa, sách hướng dẫn, vở bài

tập, tham khảo ý kiến đồng nghiệp, các phương pháp hướng dẫn cho phù
hợp với đặc điểm, trình độ trong đối tượng học sinh. Giáo viên phải có
lòng kiên trì, gần gũi động viên giúp đỡ và theo dõi sát sao trong sự thay
đổi của mỗi em để giúp các em tự tin hơn, hứng thú hơn trong học tập.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát
triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng


hoá, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó đây là dạng
toán rất gần gũi với đời sống thực tế.
Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở
thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và
trong cuộc sống thực tế hàng ngày.
Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu
không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học,
song lại là cái mới đối với bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã
phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học
giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình được bồi dưỡng
thêm lòng kiên trì, nhẫn lại, sự ham muốn, say xưa với việc nghiên cứu.
Tuy nhiên đề tài này của tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu trong lĩnh vực
khoa học nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn
nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các bạn đồng nghiệp
và những ai quan tâm đến vấn đề giải toán có lời văn cho học sinh ở bậc
tiểu học nói chung, giải Toán có lời văn ở lớp 3 nói riêng.
3.2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng học sinh giúp các em nắm được kiến thức, vận
dụng vào thực hành, tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Từ những kinh nghiệm thực tế trong những năm giảng dạy, để giúp học

sinh thích học và giải toán có lời văn, tôi kiến nghị với các nhà soạn sách
giáo khoa hãy lựa chọn, sắp xếp hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp để các em có thể vận dụng tốt các kiến thức đã học.
. Về phía nhà trường
- Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ cho giáo viên.
- Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy.
. Đối với giáo viên
Đối với giáo viên, ở mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng
bằng nhiều cách: đọc, nghiên cứu đề, phân tích bằng nhiều phương pháp
( Mô hình, sơ đồ đoạn thẳng, suy luận ....) để học sinh đễ hiểu, dễ nắm bài
hơn. Không nên dừng lại ở kết quả ban đầu ( giải đúng bài toán ) mà nên có
yêu cầu cao hơn đối với học sinh.
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức
như: trò chơi, đố vui.... phù hợp với đối tượng học sinh của mình: " Lấy
học sinh để hướng vào hoạt động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức,
trò nhận thức chủ động trong việc giải toán ''.
Trong giảng dạy giáo viên cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân tích,
tổng hợp, khả năng suy luận lôgíc, giúp các em nắm chắc kiến thức cụ thể.
Với toán có lời văn, đó là cách giải và trình bày lời giải, sử dụng tốt tất cả
các phương pháp đã nêu ở trên.
Không nên dừng lại ở kết quả ban đầu ( giải đúng bài toán ) mà nên có
yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Ví dụ: Như yêu cầu một học sinh ra một
đề toán tương tự hoặc tìm nhiều lời giải khác nhau.....


Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: '' Làm phép tính đó để
làm gì ?'' , từ đó có hướng giải đúng, chính xác.
Sau mỗi bài giải, học sinh phải biết xem xét lại kết quả mình làm để giúp

các em tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề gì đó.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn góp
phần nâng cao chất lượng môn toán. Tuy nhiên để thực hiện được những
biện pháp trên cần dựa vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Mặc dù
vậy, với sự giúp đỡ của nhà trường, đồng nghiệp và sự hưởng ứng tích cực
của học sinh, qua thực nghiệm kết quả cũng rất khả quan.
Với kinh nghiệm ít ỏi của bản thân, chắc chắn biện pháp tôi đưa ra không
thể tránh được những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của các bạn đồng
nghiệp. Tôi tin rằng nếu biện pháp trên đây được phổ biến và áp dụng đại
trà trong các trường tiểu học chắc chắn sẽ thu được kết quả cao trong khi
dạy học sinh lớp 3 giải toán có lời văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa ngày 25 tháng 3 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Sử


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thực hành giải toán tiểu học( Tập 1 và 2) – Tác giả: Trần Diên Hiển. Nhà
xất bản đại học sư phạm. Xuất bản 2004
2. Cơ sở lí luận và phương pháp của việc dạy học giải toán có lời văn – Tác giả:
Bùi Thị Xuân - Giảng viên trường đại học Hồng Đức. Tài liệu được viết năm

2005 -2006
3. Nghiên cứu SGV và SGK Toán 3 để tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy
học nội dung giải toán có lời văn.


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Sử
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Điện Biên 2 –Thành phố Thanh Hóa

TT Tên đề tài SKKN
1.

Một số biện pháp dạy cho học
sinh Tìm lời giải hay cho một
bài toán có lời văn lớp 4

2.

Một số biện pháp khắc phục
lỗi chính tả cho học sinh lớp
3

3.

Phương pháp dạy chữ viết
cho học sinh lớp 1


4.

Phương pháp dạy chữ viết
cho học sinh lớp 1

5.

Một số biện pháp dạy mở
rộng vố từ cho học sinh lớp 2
qua phân môn Luyện từ và
câu
Một số biện pháp dạy mở
rộng vố từ cho học sinh lớp 2
qua phân môn Luyện từ và
câu

6

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
Năm học đánh
xếp loại
(Phòng, Sở,
giá xếp loại
(A,
B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Phòng GD A
2007 -2008
&
ĐT
huyện
Quảng
Xương
Phòng GD A
2009 -2010
&
ĐT
Thành phố
Thanh Hóa
Phòng GD A
2010 - 2011
&
ĐT
Thành phố
Thanh Hóa
Sở GD & B
2010 - 2011
ĐT Thanh
Hóa
Phòng GD A
2013 -2014
&
ĐT
Thành phố
Thanh Hóa
Sở GD & B

2013 -2014
ĐT Thanh
Hóa

MỤC LỤC


Nội dung
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu

Trang
1
1
1
2

1.4 Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học

2
2
2
2

2.1.2 Đặc điểm của môn Toán ở Tiểu học

2.1.3 Tầm quan trọng của dạy học toán ở Tiểu học
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị

3
3
4
5
16
17
17
18


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 3
GIẢI MỘT SỐ DẠNG TOÁN CÓ LỜI VĂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Sử
Chức vụ
: Giáo viên

Đơn vị công tác : Trường tiểu học Điện Biên 2
Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

THANH HÓA NĂM 2018



×