Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu pháp luật về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, thực trạng và đề xuất pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.29 KB, 17 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU
Mọi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán khi bỏ ra lượng vốn của mình
đều mong muốn sẽ thu lại được lợi nhuận. Tuy nhiên, với tính chất nhạy cảm và
rủi ro cao như thị trường chứng khoán, mọi hành vi đầu tư đều cần sự tính toán
kĩ lưỡng và một tầm nhìn xa. Những nhà đầu tư nào không có được khả năng đó
thường tìm đến những người có chuyên môn để giúp mình. Đó là lí do công ty
quản lí quỹ được ra đời. Nhưng khi nắm giữ một khoản tiền không phải của
mình để đầu tư, người ta thường làm việc không trách nhiệm hết mình hoặc lạm
dụng số tiền đó vì một mục đích tư lợi khác. Để giải quyết bài toán này, ngân
hàng giám sát- những tổ chức có chuyên môn được mời gọi đến để giám sát hoạt
động của công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán. Đối với các nhà đầu tư, ngân
hàng giám sát như một người hùng bảo vệ quyền lợi của họ. Chính vì tầm quan
trọng lớn lao ấy, bài làm của em xin được dành để : “Tìm hiểu pháp luật về ngân
hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, thực trạng và
đề xuất pháp lý.”
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán:
1/ Các khái niệm liên quan:
Muốn tìm hiểu về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán thì trước tiên, ta phải tìm hiểu về các khái niệm liên quan.
• Quỹ đầu tư chứng khoán: Theo quy định tại khoản 27 điều 6 Luật
chứng khoán 2006 thì “quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp
của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán
hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư
không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.”
Cũng theo Điều 82 của Luật này thì “quỹ đầu tư chứng khoán bao gồm
quỹ đại chúng và quỹ thành viên. Quỹ đại chúng bao gồm quỹ mở và quỹ đóng”.
Qũy đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ
quỹ ra công chúng.; Qũy thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán có số thành viên
tham gia góp vốn không vượt quá 30 thành viên và chỉ bao gồm thành viên là


pháp nhân; Qũy mở là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công
chúng phải được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.; Qũy đóng là quỹ đại
chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng không được mua lại theo
yêu cầu của nhà đầu tư.
Như vậy, ngay trong định nghĩa tại khoản 27 Điều 6 Luật chứng khoán,
pháp luật đã ghi nhận rằng “nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối
với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.” Vậy ai mới là chủ thể có quyền năng
này? Đó là công ty quản lý quỹ.
• Công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán: Công ty quản lí quỹ đầu tư
chứng khoán là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật chứng khoán
1


2006, được Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt
động. Nghiệp vụ kinh doanh của công ty này là quản lí quỹ đầu tư, quản lí danh
mục đầu tư và tư vấn đầu tư.
Nghiệp vụ quản lí quỹ đầu tư của công ty này được hiểu là hoạt động điều
hành quỹ hàng ngày để thực hiện việc đầu tư chứng khoán và các đầu tư khác
một cách tốt nhất từ tài sản của quỹ theo quy định tại Điều lệ quỹ và Nghị quyết
của Đại hội nhà đầu tư. Công ty quản lí quỹ được thu phí quản lí và nhận tiền
thưởng từ kết quả đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình quản lí ấy, công ty không
được phạm vào một số điều cấm như đầu tư vào chính quỹ đó hoặc quỹ khác
không do mình quản lí; sử dụng tài sản quỹ đại chúng để góp vốn vào chính
công ty; cho vay hoặc bảo lãnh cho bất kì khoản vay nào; trả nợ thay cho công
ty hay trang trải cho các chi phí không hợp lý hoặc cao hơn mức bình thường.
Nhưng các nhà đầu tư vốn không có chuyên môn sâu, lại không được quyền
kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định của quỹ đầu tư nên không thể
nào giám sát nổi công ty quản lí quỹ. Do đó, nhiệm vụ này được giao cho Ngân
hàng giám sát.
2/ Ngân hàng giám sát:

Khoản 1 Điều 98 Luật chứng khoán 2006 có quy định “ Ngân hàng giám
sát là ngân hàng thương mại có Giấy chứng nhận đăng kí hoạt động lưu ký
chứng khoán có chức năng thực hiện các dịch vụ lưu ký và giám sát việc quản lý
quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán.”. Từ quy định này, ta có thể khái
quát lên rằng: Ngân hàng giám sát là ngân hàng thương mại được quyền thực
hiện hoạt động giám sát quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán
theo thỏa thuận với các nhà đầu tư và công ty quản lí quỹ nhằm bảo vệ lợi ích
của các nhà đầu tư vào quỹ.
Ngân hàng giám sát thường không cần thiết đối với các quỹ thành viên vì
các thành viên của quỹ này chủ yếu chính là các ngân hàng với nghiệp vụ
chuyên môn cao, và số lượng thành viên lại ít nên quỹ thành viên có thể tự giám
sát tốt, giúp giảm thiểu các chi phí liên quan cũng như tinh gọn cơ cấu tổ chức.
Tuy nhiên, đối với các quỹ đại chúng, sự góp mặt của ngân hàng giám sát là
không thể thiếu.
Có nhiều lí do cho việc cần có sự góp mặt của ngân hàng giám sát ở đây.
Tuy nhiên, có thể gộp vào thành ba lí do chính như sau:
Thứ nhất, là để bảo vệ nhà đầu tư: Thực tiễn đã chứng minh rằng rất
nhiều nhà đầu tư của các quỹ đại chúng, các công ty đầu tư chứng khoán là
những nhà đầu tư không chuyên nghiệp, không am hiểu về nghiệp vụ đầu tư
chứng khoán, trong khi các ngân hàng là những tổ chức có chuyên môn cao, đối
trọng với công ty quản lí quỹ nên mới có thể đòi hỏi công ty quản lí quỹ phải
thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình.
Bên cạnh đó, như chúng ta đã bàn luận ở trên, việc quản lí quỹ hằng ngày
không phải do các nhà đầu tư thực hiện, phần vì họ không có thời gian, phần vì
họ không có chuyên môn, và cũng phần vì muốn đảm bảo cho công ty quản lí
quỹ có đủ thẩm quyền để tiến hành hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, điều này làm
cho các nhà đầu tư không hoàn toàn yên tâm về những gì đang diễn ra với nguồn
2



vốn của mình. Bởi thế, ngân hàng giám sát sẽ là chủ thể thường xuyên theo dõi
hoạt động của quỹ. Những xác nhận của ngân hàng giám sát đối với những báo
cáo của công ty quản lí quỹ sẽ làm cho các nhà đầu tư thấy tin cậy và yên tâm
tiếp tục đầu tư vốn vào thị trường trứng khoán.
Thứ hai, là để bảo đảm tính minh bạch trong quản lí và sử dụng tài sản
của quỹ: Khi ngân hàng giám sát có nhiệm vụ nắm giữ tài sản của quỹ, công ty
quản lí quỹ sẽ chỉ còn một nhiệm vụ để tập trung vào hoàn thành đó là quản lí và
quyết định giao dịch đối với tài sản ấy và giảm khả năng lạm dụng tài sản ấy để
tư lợi. Việc tách bạch như vậy không những đảm bảo cho những nhà đầu tư yên
tâm về khả năng kiểm soát của ngân hàng giám sát mà còn giúp cho công ty
quản lí quỹ đầu tư giảm bớt những chi phí quản lí quỹ đầu tư, vì xét dưới góc độ
lí thuyết, nghiệp vụ gìn giữ tài sản của ngân hàng sẽ chuyên nghiệp hơn nên chi
phí quản lí cũng sẽ thấp hơn.
Thứ ba, là để hỗ trợ công ty quản lí quỹ về mặt kĩ thuật hoặc tài chính
trong hoạt động quản lí quỹ đầu tư chứng khoán. Về mặt kĩ thuật, ngân hàng
giám sát có thể hỗ trợ công ty quản lí quỹ những công việc mà công ty không có
đủ điều kiện, phương tiện để làm, ví dụ như nghiệp vụ lưu kí chứng khoán, bảo
quản, ghi chép những giao dịch… nhất là khi công ty quản lí quỹ phải quản lí
nhiều quỹ đầu tư khác nhau mà pháp luật lại yêu cầu phải tách biệt về tài sản
giữa chúng. Bên cạnh đó, về phương diện tài chính, ngân hàng giám sát có thể
cho quỹ vay một lượng vốn nhất định trong những trường hợp cần thiết để trang
trải những chi phí của quỹ theo quy định của pháp luật.
II. Pháp luật về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán
1/ Điều kiện pháp lý đối với ngân hàng giám sát:
Tại khoản 1 Điều 26 Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC của Bộ tài chính về
việc ban hành quy chế thành lập và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán quy định;
“Ngân hàng giám sát do công ty quản lý quỹ lựa chọn phải đáp ứng các điều
kiện quy định tại Khoản 1 Điều 98 Luật Chứng khoán”.Do đó, căn cứ vào khoản
1 Điều 98 đã trích ở trên, có thể phân tích những điều kiện pháp lý đối với ngân

hàng giám sát như sau:
- Thứ nhất, ngân hàng giám sát phải là ngân hàng thương mại theo quy
định của pháp luật. Khoản 3 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010 có quy định:
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận.”
Ngân hàng thương mại ở đây có thể là ngân hàng thương mại cổ phần
hoặc ngân hàng thương mại nhà nước với hình thức tổ chức theo quy định tại
Điều 6 Luật các tổ chức tín dụng 2010:
“1. Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình
thức công ty cổ phần, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

3


2. Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100%
vốn điều lệ.”
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng 2010 từ Điều 18 đến Điều 29
thì ngân hàng thương mại được Ngân hàng nhà nước cấp giấy phép thành lập và
hoạt động theo quy định của pháp luật, trong đó có các điều kiện về vốn pháp
định, về chuyên môn nghiệp vụ của người lãnh đạo, điều hành là quan trọng
nhất.
- Thứ hai, ngân hàng giám sát phải được cấp giấy chứng nhận đăng kí
hoạt động lưu kí chứng khoán. Giấy chứng nhận đăng kí hoạt động lưu kí chứng
khoán được Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp cho ngân hàng thương mại thỏa
mãn các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 48 Luật chứng khoán 2006, đó là
các điều kiện:
a/ Có Giấy phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam theo quy định của
pháp luật;

b/ Nợ quá hạn không quá năm phần trăm (5%) tổng dư nợ, có lãi trong
năm kinh doanh gần nhất.
c/ Có địa điểm, trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động đăng kí, lưu kí, thanh
toán các giao dịch chứng khoán.
Sở dĩ phải có điều kiện này vì: có được cấp giấy chứng nhận đăng kí hoạt
động lưu kí chứng khoán thì ngân hàng giám sát mới có đủ thẩm quyền để tiến
hành lưu kí chứng khoán của các nhà đầu tư, mới nắm giữ được chứng khoán để
tiến hàng giám sát, đối trọng với công ty quản lí quỹ.
- Thứ ba, ngân hàng giám sát phải giao kết hợp đồng giám sát với công ty
quản lí quỹ theo thỏa thuận với đại hội nhà đầu tư và phù hợp với điều lệ quỹ.
Hay nói một cách đơn giản hơn, tức là ngân hàng giám sát phải được sự ủy thác
của nhà đầu tư. Ngân hàng giám sát phải đáp ứng điều kiện này như một lẽ
đương nhiên vì chỉ khi được các nhà đầu tư ủy thác thì ngân hàng giám sát mới
có tư cách giám sát công ty quản lí quỹ.
2/ Những hoạt động chính của Ngân hàng giám sát trong quá trình
giám sát hoạt động quản lí quỹ đầu tư chứng khoán:
Luật chứng khoán 2006 và Quyết định 45/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài
chính về việc ban hành Quy chế thành lập và quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán
có rất nhiều quy định về những hoạt động của Ngân hàng giám sát trong hoạt
động quản lí quỹ đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, có thể kết luận rằng, ngân
hàng giám sát có bốn hoạt động chính là:
+ Lưu kí tài sản, thu chi thanh toán và chuyển giao tiền, chứng khoán liên
quan đến hoạt động của quỹ.
+ Giám sát việc tuân thủ pháp luật và Điều lệ quỹ trong hoạt động của
công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán.
+ Xác nhận các báo cáo có liên quan do công ty quản lí quỹ đầu tư chứng
khoán lập.
+ Giám sát việc công bố thông tin đối với Quỹ đầu tư chứng khoán.
4



Những hoạt động này của ngân hàng giám sát đều được quy định trong
các văn bản pháp luật.
a/ Hoạt động lưu kí tài sản, thu chi thanh toán và chuyển giao tiền,
chứng khoán liên quan đến hoạt động của quỹ:
Hoạt động này của ngân hàng giám sát được ghi nhận tại điểm b và điểm
d khoản 2 Điều 98 Luật chứng khoán 2006. Theo đó, ngân hàng giám sát “thực
hiện lưu ký tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán; quản lý tách
biệt tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán và các tài sản khác
của ngân hàng giám sát”; “thực hiện hoạt động thu, chi, thanh toán và chuyển
giao tiền, chứng khoán liên quan đến hoạt động của quỹ đại chúng, công ty đầu
tư chứng khoán theo yêu cầu hợp pháp của công ty quản lý quỹ hoặc Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc công ty đầu tư chứng khoán.” Đây là công việc và cũng là
nghĩa vụ của Ngân hàng giám sát. Điều 27 Quyết định 45/2007/QĐ-BTC quy
định cụ thể hơn về hoạt động lưu kí tài sản Quỹ của Ngân hàng giám sát. Theo
đó, Ngân hàng giám sát có thể ủy thác hoạt động lưu ký tài sản cho các Ngân
hàng lưu ký khác và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cũng như mọi chi phí phát
sinh liên quan tới các hoạt động ủy thác lưu kí này. Hoạt động ủy thác này phải
đảm bảo các nguyên tắc:
- Tài sản lưu ký phải được xác định rõ là tài sản của Quỹ hoặc tài sản
của nhà đầu tư ủy thác mà Ngân hàng giám sát cung cấp dịch vụ lưu
ký.
- Ngân hàng lưu ký nhận lưu ký theo ủy quyền chỉ thực hiện các nghĩa
vụ theo lệnh hoặc chỉ thị hợp pháp của Ngân hàng giám sát được quy
định cụ thể tại Hợp đồng ủy thác lưu ký được ký kết giữa Ngân hàng
giám sát và Ngân hàng lưu ký nhận lưu ký theo ủy quyền;
- Ngân hàng lưu ký nhận lưu ký theo ủy quyền có thể tái lưu ký tài sản
tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán.
Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là nhằm giúp giảm tải công việc cho
ngân hàng giám sát nếu như ngân hàng đó cùng một lúc có quá nhiều việc phải

giải quyết hoặc có quá nhiều Công ty quản lí quỹ kí hợp đồng mời giám sát. Khi
được ủy quyền như vậy, bản thân ngân hàng giám sát được san sẻ bớt công việc,
công việc được chuyển cho những ngân hàng khác cũng có chuyên môn nghiệp
vụ mà có ít việc phải giải quyết hơn nên chất lượng lưu ký tài sản cũng được
nâng cao hơn trong khi trách nhiệm của ngân hàng giám sát vẫn được đảm bảo,
các nhà đầu tư vẫn có thể yên tâm về tài sản của mình. Đây là một quy định rất
linh động của pháp luật.
Khi thực hiện hoạt động lưu kí tài sản Quỹ, Ngân hàng giám sát phải cần
lưu ý những gì và có các nghĩa vụ cụ thể nào được quy định tại khoản 2 , 3, 4 và
khoản 5 Điều 27 Quyết định 45/2007/QĐ-BTC ví dụ như phải quản lí và lưu kí
tách biệt tài sản của các Quỹ với nhau và với tài sản của Ngân hàng giám sát,
Ngân hàng lưu kí và các tài sản khác do các ngân hàng này quản lí; Mỗi Quỹ
được mở một tài khoản lưu ký chứng khoán riêng biệt, tách biệt với tài khoản
lưu ký chứng khoán của Công ty quản lý quỹ và với các tài khoản lưu ký chứng
khoán của các Quỹ khác; Việc chuyển giao tài sản liên quan đến hoạt động của
5


Quỹ chỉ được phép thực hiện theo chỉ thị bằng văn bản của Công ty quản lý Quỹ
theo đúng quy định tại Hợp đồng lưu ký, Hợp đồng giám sát; Ngân hàng giám
sát, ngân hàng lưu ký phải thực hiện kịp thời và đầy đủ các hoạt động chứng
khoán và thực hiện các quyền phát sinh liên quan tới việc sở hữu chứng khoán
của Quỹ theo lệnh hoặc chỉ thị hợp pháp của Công ty quản lý quỹ; … (khoản 2);
Các giao dịch cho Quỹ trên tài khoản của Ngân hàng giám sát, Ngân hàng lưu
ký bao gồm các hoạt động nhận tiền, thanh toán giao dịch, nhận cổ tức, lãi trái
phiếu và các khoản thu nhập khác, phải được xác định rõ là thuộc về Quỹ.
Trường hợp giao dịch trên tài khoản của Ngân hàng lưu ký nhận lưu ký theo ủy
quyền, các giao dịch này phải được xác định rõ là thuộc về Ngân hàng giám sát
thay mặt cho Quỹ. (khoản 3); Ngân hàng giám sát, Ngân hàng lưu ký phải đảm
bảo có hệ thống kỹ thuật phù hợp để tự động tiếp nhận, theo dõi, thực hiện và

hạch toán các giao dịch liên quan tới tài sản trên tài khoản, ngoại trừ trường hợp
có những chỉ thị cụ thể khác bằng văn bản của Công ty quản lý quỹ…..
Pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo những điều kiện tốt nhất về cả
chuyên môn nghiệp vụ và cơ sở vật chất để Ngân hàng giám sát có thể thực hiện
trách nhiệm của mình một cách hiệu quả nhất, giảm thiểu những rủi ro phát sinh.
b/ Hoạt động giám sát việc tuân thủ pháp luật và Điều lệ quỹ trong hoạt
động của công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán:
Hoạt động này được Luật Chứng khoán ghi nhận tại điểm c khoản 2 Điều
98. Theo đó, Ngân hàng giám sát thực hiện việc “Giám sát để bảo đảm công ty
quản lý quỹ quản lý quỹ đại chúng, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty đầu
tư chứng khoán quản lý tài sản của công ty tuân thủ quy định tại Luật này và
Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán;”
Nội dung hoạt động giám sát của Ngân hàng giám sát được quy định cụ
thể tại Điều 28 Quyết định 45/2007/QĐ-BTC. Ngân hàng giám sát phải thực
hiện một số nghiệp vụ cụ thể như “kiểm tra và giám sát việc định giá tài sản
ròng của Quỹ, giá trị tài sản ròng trên một đơn vị quỹ do Công ty quản lý quỹ
thực hiện”, “đảm bảo rằng việc định giá tài sản ròng của Quỹ tuân thủ theo các
quy định pháp luật và các quy định tại Điều lệ Quỹ” ngay sau khi Hợp đồng
giám sát có hiệu lực và trong các trường hợp khác mà Ngân hàng giám sát xét
thấy là cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo cho công việc định giá ấy được chính
xác, Ngân hàng giám sát được cung cấp dịch vụ xác định giá trị tài sản ròng của
Quỹ cho Công ty quản lý quỹ. Bộ phận cung cấp dịch vụ xác định giá trị tài sản
ròng tại Ngân hàng giám sát phải đảm bảo tách biệt về hoạt động, hệ thống công
nghệ thông tin và hệ thống báo cáo với bộ phận thực hiện chức năng giám sát.
Bộ phận cung cấp dịch vụ xác định giá trị tài sản ròng của Quỹ tại Ngân hàng
giám sát phải đảm bảo có nhân viên có chứng chỉ hành nghề kiểm toán hoặc kế
toán.
Ngoài ra, Ngân hàng giám sát phải giám sát hoạt động đầu tư của Quỹ
đại chúng, hoạt động của Công ty quản lý quỹ tuân thủ theo các quy định tại
Điều 92 Luật Chứng khoán, các quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động

Công ty quản lý quỹ do Bộ Tài chính ban hành, Điều 15 Quy chế này và các quy
định tại Điều lệ Quỹ. Trong trường hợp phát hiện vi phạm các quy định này,
6


Ngân hàng giám sát phải báo cáo ngay cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và
thông báo trong vòng hai mươi tư (24) giờ cho Công ty quản lý quỹ đồng thời
yêu cầu thực hiện sửa lỗi hoặc thực hiện các hoạt động khắc phục hậu quả của
các hành vi vi phạm này trong thời hạn quy định. Ngân hàng giám sát cũng giám
sát việc thực hiện thanh lí tái sản Quỹ theo quy định tại Điều 14 Quy chế tổ chức
và hoạt động Công ty quản lý quỹ. Ngân hàng này có trách nhiệm lập và lưu trữ
hồ sơ, chứng từ dưới dạng văn bản và tệp dữ liệu điện tử nhằm xác nhận việc
tuân thủ của Ngân hàng giám sát và Công ty quản lý quỹ theo các quy định của
pháp luật. Các tài liệu này phải được cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền
phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra theo yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước. Các tài liệu này phải được gửi cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, kể cả
các tài liệu thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định về thông tin và bảo mật
thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật. Các tài liệu, hồ sơ này phải
được lưu trữ tối thiểu trong thời gian mười lăm (15) năm. Trường hợp Công ty
quản lý quỹ phải bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư, Quỹ theo quy định tại Quy
chế Tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý quỹ do Bộ Tài chính ban
hành, Ngân hàng giám sát phải thực hiện thủ tục thanh toán một cách kịp thời
và đầy đủ. Trong trường hợp thiệt hại từ hoạt động quản lý tài sản do sai sót của
Công ty quản lý quỹ gây ra là quá lớn hoặc không thể thu hồi được từ nhà đầu
tư, phần thiệt hại này sẽ được ghi nhận và thực hiện các bút toán khấu trừ vào tài
sản của Quỹ.
Trong quá trình thực hiện hoạt động này, Ngân hàng giám sát phải tuân
thủ thực hiện một số nghĩa vụ như “chỉ được phép sử dụng tiền và tài sản của
Quỹ để thanh toán các khoản phí và chi phí của Quỹ theo các quy định pháp
luật và các quy định tại Điều lệ Quỹ” hay Ngân hàng phải “có trách nhiệm cung

cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác những thông tin cần thiết cho Công ty quản lý
quỹ, tổ chức kiểm toán độc lập được chấp thuận theo quy định của pháp luật và
các quy định trong hợp đồng giám sát”…
Ngân hàng cũng có một số quyền hạn để giúp thực hiện tốt nghiệp vụ
trong hoạt động này của mình như những quyền quy định tại Điều 28 Quyết
định 45/2007/QĐ-BTC chẳng hạn “Ngân hàng giám sát có quyền yêu cầu Công
ty quản lý quỹ cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết liên
quan đến hoạt động quản lý tài sản của Quỹ, đảm bảo rằng Ngân hàng giám sát
có thể thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với Quỹ, Công ty quản lý quỹ
theo quy định của pháp luật.” (khoản 11); “ Ngân hàng giám sát được cung cấp
dịch vụ xác định giá trị tài sản ròng của Quỹ cho Công ty quản lý quỹ. Bộ phận
cung cấp dịch vụ xác định giá trị tài sản ròng tại Ngân hàng giám sát phải đảm
bảo tách biệt về hoạt động, hệ thống công nghệ thông tin và hệ thống báo
cáo với bộ phận thực hiện chức năng giám sát. Bộ phận cung cấp dịch vụ xác
định giá trị tài sản ròng của Quỹ tại Ngân hàng giám sát phải đảm bảo có nhân
viên có chứng chỉ hành nghề kiểm toán hoặc kế toán.” (khoản 12); “ Ngân hàng
giám sát được cung cấp dịch vụ lập, lưu trữ và cập nhật Sổ đăng ký nhà đầu
tư theo yêu cầu của Công ty quản lý quỹ. Bộ phận chịu trách nhiệm lập, lưu trữ
và cập nhật Sổ đăng ký nhà đầu tư tại Ngân hàng giám sát phải đảm bảo tách
biệt về hoạt động, hệ thống công nghệ thông tin và hệ thống báo cáo với bộ
7


phận thực hiện chức năng giám sát.” (khoản 13)….Những quyền năng được
pháp luật trao cho Ngân hàng giám sát này là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
Ngân hàng giám sát được đầy đủ, chặt chẽ mọi hoạt động của Công ty quản lí
Quỹ.
c/ Xác nhận các báo cáo có liên quan do công ty quản lí quỹ đầu tư
chứng khoán lập:
Điểm đ khoản 2 Điều 98 Luật chứng khoán 2006 có quy định một trong

các nghĩa vụ của Ngân hàng giám sát là “Xác nhận báo cáo do công ty quản lý
quỹ, công ty đầu tư chứng khoán lập có liên quan đến quỹ đại chúng, công ty
đầu tư chứng khoán;”
Đối với các nhà đầu tư, mọi quyết định đầu tư của công ty quản lí Quỹ
đều ảnh hưởng trực tiếp tới túi tiền của họ. Trong khi đó, họ lại không được trực
tiếp điều hành việc ra những quyết định đó, và đôi khi, cũng không đủ khả năng,
đủ hiểu biết để phân tích, lên tiếng về quyết định của công ty. Điều này khiến họ
luôn luôn bất an rất nhiều. Nhưng khi họ giao nhiệm vụ xác nhận các báo cáo có
liên quan do công ty quản lí quỹ lập cho Ngân hàng giám sát, gánh nặng này có
vẻ như đã được trút bỏ. Mỗi dấu đỏ của Ngân hàng xác nhận các báo cáo của
Công ty là điều kiện quyết định tới hiệu lực và giá trị của bản báo cáo ấy. Nếu
không được Ngân hàng giám sát xác nhận, báo cáo của công ty sẽ không có giá
trị và phải được kiểm kê, tiến hành làm lại. Để xác nhận được những báo cáo
này, Ngân hàng giám sát phải thực hiện tốt những hoạt động giám sát với từng
bước trong quá trình hoạt động của công ty quản lí Quỹ.
d/ Giám sát việc công bố thông tin đối với Quỹ đầu tư chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là một thị trường vô cùng nhạy cảm. Nó đã được
chứng minh là nhạy cảm hơn nhiều so với cả những thị trường khác vốn cũng
được đánh giá là dễ biến động như thị trường tín dụng hay thị trường bất động
sản. Mọi thông tin có liên quan trên thị trường chứng khoán đều ảnh hưởng đến
giá chứng khoán và tâm lí của các nhà đầu tư. Do đó, việc công bố thông tin kịp
thời và trung thực là vô cùng quan trọng. Và có một hoạt động không thể thiếu
của Ngân hàng giám sát là “Giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo và công bố
thông tin của công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán theo quy định
của Luật này” (điểm e Khoản 2 Điều 98 Luật chứng khoán 2006).
Các quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin của Công ty quản lí
Quỹ về Quỹ đại chúng được quy định cụ thể tại Điều 104, Điều 105 Luật chứng
khoán 2006; Điều 33 Chương IV Quyết định số 35/2007/QĐ- BTC về việc ban
hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ; Điều 19 Quyết định
số 125/2008/ QĐ-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài chính về việc sửa

đổi bổ sung một số điều của quy chế tổ chức và hoạt động của công ty quản lí
quỹ ban hành kèm theo Quyết định số 35/2007/QĐ- BTC. Nhiệm vụ của Ngân
hàng giám sát là phải theo dõi sát sao và yêu cầu Công ty quản lí quỹ thực hiện
đúng các quy định trên của pháp luật.

8


3/ Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng giám sát:
Trong quá trình xây dựng pháp luật, các nhà lập pháp không quên ràng
buộc cho Ngân hàng giám sát những quyền và nghĩa vụ nhất định bởi có bị ràng
buộc bởi các nghĩa vụ và được hưởng các quyền lợi xứng đáng thì Ngân hàng
giám sát mới thực hiện một cách chính xác và có trách nhiệm những nhiệm vụ
của mình.
Thứ nhất, khoản 2 Điều 98 Luật chứng khoán 2006 và khoản 1 Điều 28
quy định những nghĩa vụ mà ngân hàng giám sát phải tuân thủ. Bao gồm:
- Thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định đối với thành viên trung
tâm lưu kí chứng khoán. Những nghĩa vụ này đảm bảo cho tư cách thành viên
lưu kí của ngân hàng giám sát để thực hiện hoạt động lưu kí chứng khoán cho
quỹ đầu tư chứng khoán.
- Thực hiện lưu kí tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán,
quản lí tách biệt tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán và các
tài sản khác của ngân hàng giám sát. Những yêu cầu về việc quản lí tách bạch tài
sản nhằm đảm bảo tránh nhầm lẫn đồng thời hạn chế những rủi ro đạo đức trong
hoạt động quản lí tài sản.
- Tiến hành hoạt động giám sát để đảm bảo công ty quản lí quỹ tiến hành
quản lí tài sản của quỹ đại chúng tuân thủ đúng pháp luật chứng khoán và điều lệ
quỹ đầu tư chứng khoán.
- Thực hiện hoạt động thu, chi, thanh toán và chuyển giao tiền, chứng
khoán liên quan đến hoạt động của quỹ đại chúng theo yêu cầu hợp pháp của

công ty quản lí quỹ.
- Xác nhận báo cáo do công ty quản lí quỹ, công ty đầu tư chứng khoán
lập có liên quan đến quỹ đại chúng. Những xác nhận này có ý nghĩa quan trọng
đối với các nhà đầu tư vào quỹ.
- Giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty
quản lí quỹ theo quy định của pháp luật chứng khoán, bao gồm cả việc công bố
thông tin định kì và công bố thông tin bất thường.
- Báo cáo UBCKNN khi phát hiện công ty quản lí quỹ hoặc những tổ
chức, cá nhân có liên quan vi phạm pháp luật hoặc điều lệ quỹ đầu tư chứng
khoán nhằm ngăn chặn kịp thời những tổn thất cho quỹ.
- Định kì cùng công ty quản lí quỹ đối chiếu sổ kế toán, báo cáo tài chính
và hoạt động giao dịch của quỹ đại chúng. Đây là những hoạt động nhằm kiểm
tra tính xác thực của những thông tin do công ti quản lí quỹ công bố đồng thời là
cơ sở để ngân hàng giám sát xác nhận vào các báo cáo của công ty quản lí quỹ.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định tại điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán.
Nếu Ngân hàng giám sát không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình,
“Công ty quản lí quỹ có nghĩa vụ báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong
trường hợp phát hiện Ngân hàng giám sát, Ngân hàng lưu ký vi phạm Điều lệ
Quỹ, Điều lệ Công ty đầu tư chứng khoán và Bản cáo bạch, Hợp đồng giám sát,
Hợp đồng lưu ký và pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong
vòng hai mươi tư (24) giờ kể từ khi phát hiện ra vi phạm.” (khoản 8 Điều 33
Quyết định số 35/2007/QĐ- BTC về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động
của công ty quản lý quỹ). Khi đó, Ngân hàng giám sát không những phải chịu
9


những chế tài của các cơ quan quản lí nhà nước về chứng khoán và thị trường
chứng khoán mà còn không tránh khỏi việc bị chấm dứt Hợp đồng giám sát với
công ty quản lí Quỹ; và đi cùng với nó, là sự sụt giảm uy tín của Ngân hàng, ảnh
hưởng đến mọi hoạt động kinh doanh về sau của Ngân hàng.

Bên cạnh đó, Quyết định Số 399/QĐ-UBCK của chủ tịch uỷ ban chứng
khoán nhà nước Về ban hành Quy định giám sát công ty quản lý quỹ, ngân hàng
giám sát tài sản quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán cũng quy định tại Điều 2, Điều
3 phần II rằng việc giám sát các ngân hàng giám sát do Ban Quản lí kinh doanh
chứng khoán thực hiện. Công việc ấy bao gồm giám sát việc duy trì các điều
kiện để thực hiện chức năng của ngân hàng giám sát tài sản quỹ theo quy định;
giám sát việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng giám sát đối với
công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán; Việc tuân thủ các mối quan hệ
giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý quỹ theo quy định của pháp luật;
giám sát việc tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, các quy định về
ngân hàng giám sát; và giám sát việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ của ngân
hàng giám sát.
Ban Quản lí kinh doanh chứng khoán có thể giám sát từ xa qua các báo
cáo, công văn, văn bản giải trình, thông tin công bố của công ty quản lý quỹ,
ngân hàng giám sát hoặc giám sát tại chỗ thông qua các đợt kiểm tra định kỳ
hàng năm hoặc bất thường khi có các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp xảy ra cần
thiết phải thu thập thêm chứng cứ tại các công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám
sát. Ban Quản lí kinh doanh chứng khoán có trách nhiệm đề xuất với Lãnh đạo
Ủy ban chứng khoán Nhà nước về việc kiểm tra tại chỗ các công ty quản lý quỹ,
ngân hàng giám sát và chủ trì phối hợp với các đơn vị khác để thực hiện.
Đây là những khung pháp lý được xây dựng để đảm bảo Ngân hàng giám
sát thực hiện nghiêm túc tất cả những nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, tương ứng với những nghĩa vụ trên đây, ngân hàng giám sát có
những quyền năng cơ bản sau:
- Quyền được hưởng phí giám sát do công ti quản lí quỹ chi trả;
- Quyền từ chối xác nhận những báo cáo không trung thực của công ti
quản lí quỹ về hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán;
- Quyền từ chối những mệnh lệnh không hợp pháp của công ti quản lí quỹ
liên quan đến những giao dịch tài sản của quỹ;
- Những quyền khác quy định trong điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán.

4/ Những hạn chế đối với Ngân hàng giám sát:
Ngân hàng giám sát cũng phải chịu một số hạn chế nhất định quy định tại
Điều 99 Luật chứng khoán 2006 nhằm đảm bảo an toàn và minh bạch cho các
giao dịch tài sản của quỹ. Những hạn chế này bao gồm:
- Ngân hàng giám sát, thành viên hội đồng quản trị, người điều hành và
nhân viên của ngân hàng giám sát trực tiếp làm nhiệm vụ giám sát và bảo quản
tài sản của quỹ đại chúng không được là đối tác mua, bán trong giao dịch mua,
bán tài sản của quỹ đại chúng.
- Ngân hàng giám sát, thành viên hội đồng quản trị, người điều hành và
nhân viên trực tiếp của ngân hàng giám sát làm nhiệm vụ giám sát hoạt động
10


quỹ đại chúng và bảo quản tài sản của quỹ đại chúng không được là người có
liên quan hoặc có quan hệ sở hữu, vay hoặc cho vay với công ti quản lí quỹ và
ngược lại.
Những hạn chế này được cụ thể hóa tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 và
khoản 6 Điều 26 Quyết định 45/2007/QĐ-BTC. Đây là những quy định cụ thể
hơn về hạn chế cơ cấu tổ chức, cơ cấu thành viên và tiêu chuẩn nhân viên… của
ngân hàng giám sát. Ví dụ như Ngân hàng giám sát, thành viên Hội đồng quản
trị, Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc và nhân
viên nghiệp vụ không được là các đối tác trong các giao dịch tài sản của Quỹ…
III. Thực trạng và đề xuất pháp lý:
1/ Thực trạng:
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn mười
năm và trong khoảng thời gian ấy, nó đã phát triển một cách nhanh chóng. Từ
3.000 tài khoản năm 2000, đến nay thị trường đã có trên dưới 1.000.000 tài
khoản của nhà đầu tư. Có rất nhiều công ty quản lí quỹ ra đời và hoạt động; hiệu
quả có, và thất bại cũng có. Tính đến thời điểm này, có 24 Quỹ đầu tư chứng
khoán và 47 công ty quản lí quỹ công bố công khai cơ sở dữ liệu công ty trên

trang web của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Trong đó, phải kể đến các quỹ có
số vốn lớn như Quỹ Đầu tư Việt Nam (1.349.000.000.000 VNĐ); Quỹ Thành
viên Việt Nhật FPT (1.123.300.000.000 VNĐ); Quỹ Tầm Nhìn SSI
(1.700.000.000.000 VNĐ); Quỹ Đầu tư Chứng khoán Bảo Việt
(1.000.000.000.000 VNĐ),… Và nhiều công ty quản lí quỹ đã có bề dày kinh
nghiệm với số vốn điều lệ lớn như Công ty TNHH MTV Quản lý quỹ Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam (500.000.000.000 VNĐ); Công ty Cổ phần
Quản lý quỹ Đầu tư Việt Nam Vinafund (209.600.000.000 VNĐ); Công ty Cổ
phần Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt (150.000.000.000 VNĐ); Công
ty Cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (110.000.000.000 VNĐ); Công ty Cổ phần
Quản lý quỹ Đầu tư Tài chính Dầu khí (100.000.000.000 VNĐ); Công ty Cổ
phần Quản lý Quỹ Đối tác Toàn Cầu (50.000.000.000 VNĐ); Công ty Cổ phần
Quản lý Quỹ Thép Việt (39. 215.000.000 VNĐ), … Các quỹ và công ty quản lí
quỹ này đều có các ngân hàng giám sát của riêng mình. Có thể liệt kê một số ví
dụ như sau:
Qũy đầu tư chứng
khoán
Quỹ thành viên Việt
Nhật FPT
Quỹ Tầm Nhìn SSI
Quỹ Đầu tư Chứng
khoán Bảo Việt
Quỹ Đầu tư Việt Nam

Công ty quản lí quỹ

Ngân hàng giám sát

Công ty Cổ phần Quản lý
Quỹ FPT

Công ty Cổ phần Quản lý
Quỹ SSI
Công ty TNHH Quản lý
Quỹ Bảo Việt
Công ty Liên doanh
Quản lý Quỹ đầu tư

Deutsche Bank
HSBC Chi nhánh HCM
HSBC
HSBC Chi nhánh HCM
11


Quỹ Đầu tư Chứng
khoán Vietcombank 2
Quỹ Đầu tư Chứng
khoán Sài Gòn A1

BIDV-Vietnam partner
Công ty Liên doanh
Deutsche Bank
Quản lý Quỹ
Vietcombank
Công ty Cổ phần Quản lý BIDV Chi nhánh NKKN
Quỹ Thành Việt

+/ Hiện nay lựa chọn số một được các nhà đầu tư chọn làm Ngân hàng
giám sát đều là những ngân hàng hoạt động vững mạnh, có số vốn điều lệ lớn và
chuyên môn cao như HSBC, Deutsche Bank, BIDV, Vietcombank, Standart

Chartered Bank, Far East National Bank… Điều đó dường như phản ánh được
rằng các nhà đầu tư đã nhận thức được tầm quan trọng của Ngân hàng giám sát
và đã chọn lựa kĩ càng nơi mà mình có thể đặt niềm tin. Tuy nhiên, trên thực tế
thì chưa hẳn là như vậy, bởi thường thì trong các cuộc họp Đại hội nhà đầu tư,
sự lựa chọn Ngân hàng nào giám sát là do Công ty Quản lý Quỹ gợi ý các nhà
đầu tư, và thường các nhà đầu tư cũng sẽ nghe theo sự lựa chọn ấy của Công ty
mà chưa ý thức được việc phải lựa chọn Ngân hàng giám sát một cách kĩ càng
bởi đây chính là đơn vị bảo vệ quyền lợi cho mình. Nếu tất cả việc đầu tư và
kinh doanh đều tốt đẹp thì sẽ chẳng có chuyện gì đáng bàn, nhưng nếu có bất
trắc xảy ra, thì khi ấy chỉ một ngân hàng giám sát đủ mạnh về tài chính, độc lập
về quyền lợi với công ty quản lí quỹ và chuyên nghiệp về hoạt động thì mới giúp
các nhà đầu tư đảm bảo được quyền lợi của mình. Nhưng trên thực tế, chưa
nhiều nhà đầu tư ý thức được vấn đề này mà thường đặt niềm tin và phó thác sự
lựa chọn ấy cho Công ty quản lí Quỹ.
+/ Một vấn đề nữa cần phải xem xét ở đây. Như trên đã phân tích, các
Ngân hàng giám sát (NHGS) được thực hiện khá nhiều quyền hạn. Về mặt
nguyên tắc, NHGS là ”cánh tay nối dài” của cơ quan quản lý và việc trao nhiều
quyền hạn cho NHGS sẽ là tốt cho thị trường. Tuy nhiên, điều đáng nói là
NHGS được trao nhiều quyền như vậy nhưng trách nhiệm của NHGS lại chưa
được quy định một cách tương xứng với quyền hạn mà họ được giao và làm cho
Công ty Quản lý quỹ (CTQLQ) bức xúc trước sự không công bằng này.
Trong trường hợp định giá chứng khoán phải được sự chấp thuận của
NHGS về tổ chức báo giá, định giá. Các nội dung trong sổ tay định giá được quy
định bởi hội đồng thẩm định giá, quy định về cách thức xác định giá trị tài sản
ròng cũng phải được NHGS chấp thuận. Như vậy, NHGS là đơn vị trực tiếp xác
nhận giá trị tài sản ròng của quỹ. Thế nhưng, trong trường hợp việc định giá
chứng khoán sai và được NHGS chấp nhận, khi có thiệt hại cho nhà đầu tư (nếu
có) sẽ do CTQLQ bồi thường nhưng không có quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho nhà đầu tư đối với NHGS, trong khi đó NHGS lại đóng vai
trò rất lớn trong việc xác định giá và giá trị tài sản ròng của quỹ. Việc xác nhận

giá trị tài sản ròng của quỹ thuộc về Quản trị quỹ nhưng NHGS lại được
“khoác” thêm quyền hạn này. Rõ ràng ở đây tiềm tàng một rủi ro rất lớn bởi
NHGS vừa có quyền đá bóng (cung cấp dịch vụ về giá) nhưng đồng thời lại có
quyền thổi còi (ký xác nhận giá trị tài sản ròng của quỹ). Mọi trách nhiệm đền
bù thiệt hại cuối cùng lại chỉ mình công ty quản lí quỹ gánh.
12


+/ Tiếp theo, tại khoản 4 Điều 8 Quy chế thành lập và quản lí quỹ đầu tư
chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định 45/2007/ QĐ-BTC quy định rằng
“Tiền mua chứng chỉ quỹ được chuyển vào tài khoản phong tỏa mở tại Ngân
hàng giám sát cho đến ngày Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp Giấy chứng
nhận đăng ký lập quỹ”. Quy định này nhằm tách biệt và đảm bảo an toàn cho
tiền của nhà đầu tư và tiền của quỹ, tránh sự nhập nhèm, lạm dụng tiền của nhà
đầu tư của các Quỹ đầu tư khi chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký lập quỹ.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng quy định này sẽ gây ảnh hưởng đến cả các
nhà đầu tư chứ không riêng gì CTQLQ bởi thời gian chuyển tiền thanh toán có
thể kéo dài đến 90 ngày. Như vậy sẽ có một số tiền lớn bị “chết” ở tài khoản
thanh toán trong khi lãi suất đối với tài khoản thanh toán lại rất thấp. Trong khi
đó, nếu số tiền ấy được đầu tư trên thị trường chứng khoán đang biến động hằng
ngày ấy, thì các nhà đầu tư sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn bởi thực tế, trong
khoảng thời gian này, rất nhiều nhà đầu tư đã bị mất đi nhiều cơ hội kinh doanh
lớn.
+/ Một thực trạng rất phổ biến nữa đó là việc, pháp luật giao cho Ngân
hàng giám sát giám sát các hoạt động của đầu tư của Quỹ đầu tư chứng khoán và
Công ty quản lí quỹ, nhưng khi Quỹ đầu tư hay Công ty quản lí quỹ vi phạm
pháp luật, thì Ngân hàng giám sát lại không hề phải chịu một chế tài nào. Liệu
việc này có đang tiếp tay tạo cho Ngân hàng giám sát tâm lí vô trách nhiệm với
công việc giám sát của mình khi mà lơ là công việc ấy cũng sẽ không bị làm
sao? Một ví dụ thực tế rất gần đây để minh chứng cho điều này đó là : Ngày

22/2/2012, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ban hành Quyết định số
166/QĐ-UBCK xử phạt vi phạm hành chính đối với việc: Từ ngày 8/8/2011 đến
ngày 8/10/2011, Quỹ Vietnam Investments Fund I, L.P, cổ đông lớn của Cty CP
Vinafco (Mã CK: VFC) đã giao dịch mua 569.320 cổ phiếu VFC. Tuy nhiên,
ngày 1/11/2011, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh mới nhận được
báo cáo kết quả giao dịch của Vietnam Investments Fund I, L.P. Như vậy,
Vietnam Investments Fund I, L.P đã chậm báo cáo kết quả giao dịch với
UBCKNN, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh, vi phạm quy định tại
Điểm 4.3 Khoản 4 Mục IV Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/1/2010 của
Bộ Tài chính hướng dẫn về việc CBTT trên thị trường chứng khoán (Thông tư
số 09/2010/TT-BTC).
Và Quyết định số 169/QĐ-UBCK xử phạt vi phạm hành chính đối với
việc: Từ ngày 26/10/2011 đến ngày 28/10/2011, Quỹ Tong Yang VN
Privatization Trust Fund 1, chủ tài khoản số CTBFCS4248 tại Cty CP Chứng
khoán Bản Việt (Công ty Tong Yang Investment Trust Management là Công ty
quản lý Quỹ Tong Yang VN Privatization Trust Fund 1), cổ đông lớn CtyCP
Khoáng sản Bắc Cạn (Mã CK: BKC) đã giao dịch bán 322.000 cổ phiếu BKC
nhưng không báo cáo trước khi thực hiện giao dịch với UBCKNN, Sở GDCK
Hà Nội. Như vậy, Quỹ Tong Yang VN Privatization Trust Fund 1 đã vi phạm
quy định tại Điểm 4.2 Khoản 4 Mục IV Thông tư số 09/2010/TT-BTC.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã phạt tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi
triệu đồng) theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Nghị định 85/2010/NĐ-CP đối
với Quỹ Vietnam Investments Fund I, L.P. và Công ty Tong Yang Investment
13


Trust Management nhưng không hề xử phạt Ngân hàng giám sát của những đơn
vị này. Chính những phán quyết này phải chăng đang dần tiếp tay cho sự chểnh
mảng, lơ là đang lớn dần lên trong tư tưởng của các Ngân hàng giám sát?
2/ Đề xuất pháp lý:

Sau khi tìm hiểu một số thực trạng và hạn chế tồn tại xoay quanh ngân
hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, em xin đưa ra
một số hướng hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh tuyên truyền và hướng dẫn nâng cao hiểu biết
pháp luật cho các nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán để họ có thể
bảo vệ được chính quyền lợi của mình. Đặc biệt là việc giúp các nhà đầu tư ý
thức sâu sắc về vai trò của Ngân hàng giám sát- chủ thể vô cùng quan trọng để
bảo vệ họ trước sự lạm quyền của công ty quản lí quỹ và tự nghiên cứu tìm hiểu,
lựa chọn lấy một ngân hàng xứng đáng để các nhà đầu tư đặt niềm tin.
Thứ hai, cần có thêm quy định NHGS cũng phải liên đới chịu trách nhiệm
cùng với CTQLQ khi phát sinh việc đền bù thiệt hại. NHGS phải chia sẻ trách
nhiệm với CTQLQ nếu có xảy ra sai xót trong việc tính giá trị tài sản ròng của
quỹ. Có quy định như vậy thì NHGS mới có trách nhiệm cao hơn khi xác định
đúng chỉ số NAV này, không dồn hết trách nhiệm cho Công ty quản lí quỹ. Được
như thế, chất lượng công việc định giá sẽ tăng cao mà cũng giải tỏa được bức
xúc của các Công ty quản lí quỹ, cân bằng giữa quyền hạn và trách nhiệm của
NHGS.
Thứ ba, pháp luật có thể linh hoạt cho phép trong thời gian tiền của nhà
đầu tư đang bị phong tỏa tại Ngân hàng giám sát cho đến ngày Ủy ban chứng
khoán nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký lập quỹ thì họ có thể vẫn được
gửi theo hình thức tiết kiệm ngay tại ngân hàng giám sát đấy để tối đa hóa lợi
nhuận cho nhà đầu tư, chia sẻ phần nào với họ khi vốn của họ bị “chết” trong
Ngân hàng và mất đi những cơ hội đầu tư chớp nhoáng hấp dẫn ngay trước mắt.
Thứ tư, cần bổ sung những quy định cụ thể về việc xử phạt đối với Ngân
hàng giám sát có liên đới khi không giám sát, đôn đốc, không phát hiện kịp thời
hoặc không báo cáo các vi phạm của Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như của
Công ty đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát là chủ thể gần nhất và có đầy
đủ quyền năng nhất, có điều kiện dễ dàng nhất để là “cánh tay nối dài” cho Cơ
quan quản lí Nhà nước cũng như cho các nhà đầu tư. Vậy mà họ lại thờ ơ với sứ
mệnh này thì quả là đáng trách. Chỉ khi đứng trước những nguy cơ phải chịu chế

tài thực sự thì họ mới nâng cao ý thức trách nhiệm và thực hiện nghiêm túc
nhiệm vụ của mình.
Bên cạnh đó, cần tăng cường sự giám sát và kiểm tra của các cơ quan
quản lí Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như năng lực
pháp lý và chuyên môn của cán bộ được giao giám sát ấy. Bởi chỉ khi có đủ
năng lực trình độ và hiểu biết pháp luật thì các cán bộ của cơ quan quản lí Nhà
nước mới phát hiện kịp thời và toàn diện những sai sót, vi phạm của các đối
tượng bị giám sát.

14


C. KẾT LUẬN:
Tính đến nay, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động được 12 năm.
Một đứa trẻ mười hai tuổi còn rất non nớt và cần được cha mẹ chăm sóc nên một
thị trường chứng khoán phức tạp như vậy mà mới tồn tại mười hai năm thì vẫn
còn rất cần được các chủ thể liên quan, các cấp chính quyền quan tâm theo dõi
và tạo cho nó một khung pháp lý ổn định. Hi vọng với những nghiên cứu tìm tòi
và những đề xuất pháp lý của mình về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán, em có thể đóng góp phần nào cho quá trình hoàn
thiện khung pháp lý ấy. Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài làm của em
không thể tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu cũng như sự ủng hộ nhiệt tình từ các thầy cô giáo cho bài
làm của mình!

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb.

CAND, Hà Nội, 2008.
2. Luật chứng khoán năm 2006
3. Luật các tổ chức tín dụng 2010.
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số
62/2010/QH12
5. Nghị định của Chính phủ số 85/2010/NĐ-CP ngày 02/8/2010 về xử lí
vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
6. Quy chế tổ chức và hoạt động của công ti quản lí quỹ ban hành kèm
theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 35/2007/QĐ-BTC ngày
15/05/2007.
7. Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC của Bộ tài chính về việc ban hành
quy chế thành lập và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
8. Quyết định Số 399/QĐ-UBCK
9. Bài viết “Ngân hàng giám sát: Trách nhiệm chưa “xứng” với quyền
năng”- Nguyễn Tuân – www.infotv.vn
10.Bài viết“Quản lý quỹ mở: Vì là “mở” nên cần phải “chặt””- Nguyễn
Tuân- www.infotv.vn
11. Các trang web: www.ssc.gov.vn
www.vneconomy.vn
v.v.....

MỤC LỤC
16


A. LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................................1
B. NỘI DUNG................................................................................................................................1
I. Khái quát chung về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán:
.................................................................................................................................................1

1/ Các khái niệm liên quan:................................................................................................ 1
2/ Ngân hàng giám sát:....................................................................................................... 2
II. Pháp luật về ngân hàng giám sát trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.........3
1/ Điều kiện pháp lý đối với ngân hàng giám sát:.............................................................. 3
2/ Những hoạt động chính của Ngân hàng giám sát trong quá trình giám sát hoạt động
quản lí quỹ đầu tư chứng khoán:.........................................................................................4
a/ Hoạt động lưu kí tài sản, thu chi thanh toán và chuyển giao tiền, chứng khoán liên
quan đến hoạt động của quỹ:..............................................................................................5
b/ Hoạt động giám sát việc tuân thủ pháp luật và Điều lệ quỹ trong hoạt động của công
ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán:.................................................................................... 6
c/ Xác nhận các báo cáo có liên quan do công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán lập:...8
d/ Giám sát việc công bố thông tin đối với Quỹ đầu tư chứng khoán:............................... 8
3/ Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng giám sát:..................................................................9
4/ Những hạn chế đối với Ngân hàng giám sát:................................................................10
III. Thực trạng và đề xuất pháp lý:........................................................................................11
1/ Thực trạng:....................................................................................................................11
2/ Đề xuất pháp lý:............................................................................................................14
C. KẾT LUẬN:............................................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................16

17



×