Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong phạm vi bài viết này xin trình bày về nguyên tắc khi xét xử, thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.6 KB, 9 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động xét xử của Tòa án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, liên quan đến chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của quốc gia. Yêu cầu
cao nhất đối với Tòa án là bằng hoạt động xét xử của mình phải xét xử khách quan,
đúng pháp luật, đảm bảo công bằng cho các bên đương sự. Vì vậy nhằm đảm bảo cho
Tòa án thực hiện đúng chức năng xét xử có hiệu quả, Nhà nước ta đã đưa ra những
quy định chặt chẽ nhằm điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án bằng việc ghi nhận
các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trong đó có nguyên tắc “nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trong
phạm vi bài viết này xin trình bày về nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” - thực trạng và phương hướng hoàn
thiện.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI
THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
1. Khái niệm
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật là một nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS của Việt Nam, thể hiện tư tưởng
pháp lý khi xét xử các vụ án dân sự Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tự mình ra
quyết định và tự chịu trách nhiệm về bản án và quyết định của mình mà không bị phụ
thuộc vào quan điểm, ý kiến của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào, không bị chi
phối bởi ý kiến của nhau và chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật để xem xét và
quyết định về từng vấn đề của vụ án.
2. Cơ sở lý luận của nguyên tắc
Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước ở
Việt Nam. Tiếp thu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức bộ máy nhà nước ta
hiện nay theo quyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây cũng
chính là cơ sở lý luận của nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.



Thứ hai, xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án thực hiện. Tòa
án là cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp- hoạt động nhân danh công lý và dựa vào
công lý thì Tòa án phải xét xử như một người đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc
vào bên nào,chỉ xét xử độc lập thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là
một cơ quan bảo vệ công lý.
Thứ ba, xuất phát từ chế độ dân chủ nhân dân của nước ta. Việc xét xử có Hội
thẩm nhân dân tham gia đã được Hiến Pháp và pháp luật quy định, đó là một trong
những nguyên tắc thể hiện rõ tư tưởng “ Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho Hội thẩm nhân dân thay
mặt cho nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước, hạn chế tiêu cực trong haotj
động của Tòa án, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Giúp cho việc xét
xử của Tòa án được rõ rang, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng được
nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc
Thứ nhất, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luậtlà nền tảng của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền. Đây là công
thức pháp lý chứa đựng các giá trị được thừa nhận chung trong nhà nước pháp quyền
đối với không chỉ trong hoạt động xét xử các vụ án mà cả trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử.
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án
dân sự của Tòa án. Đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự.
Thứ ba, thực hiện nguyên tắc này góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và ổn định các quan hệ kinh tế- xã hội
trong giao lưu dân sự.
II. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT.
1. Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập



a. Độc lập với các tổ chức, cơ quan nhà nước khác
Là một cơ quan Nhà nước xét xử duy nhất của nước CHXHCN Việt Nam, cho
nên các cơ quan khác phải tôn trọng quyền này và không được can thiệp vào việc xét
xử của Tòa án.
Trước hết xem xét mối liên hệ giữa Tòa án và tổ chức Đảng. Đảng là “lực lượng
lãnh đạo Nhà nước” (Điều 4 Hiến Pháp 1992). Theo đó, hoạt động xét xử của Tòa án
cũng chịu sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng cách chỉ ra các đường lối, chính
sách và rồi các đường lối, chính sách đó được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử tuân theo pháp luật cũng có nghĩa là đã thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng. Tuy nhiên, hoạt động của cấp ủy Đảng, của mọi đảng
viên cũng phải trong khuôn khổ của pháp luật, mọi sự can thiệp đều là vi phạm pháp
luật. Cho nên cần khẳng định rằng: Tòa án độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật
không thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, ngược lại các cấp ủy Đảng không được bao
biện làm thay, không lạm dụng quyền lực để can thiệp vào những vụ việc cụ thể của
hoạt động xét xử.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì hoạt động xét xử của tòa án được đặt
dưới sự giám sát của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, căn cứ theo các quy định hiện hành
của pháp luật tố tụng dân sự thì hoạt động kiểm sát trong tố tụng dân sự của Viện kiểm
sát không làm ảnh hưởng tới nguyên tắc Thẩn phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Vì vậy, vấn đề mà chúng ta cần quan tâm hiện nay là xác định
được mức độ tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự và phương thức kiểm
sát như thế nào để không làm ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử.
Sự độc lập của Thẩm phán và hội thẩm trong xét xử còn được thể hiện trong
mối quan hệ giữa các cấp xét xử. Ở nước ta hiện nay, việc xét xử các vụ án dân sự
được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm (Điều 17
BLTTDS). Khi xét xử lại vụ án, Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm hoàn toàn độc
lập với những nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm về nội dung của vụ án. HĐXX phúc
thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại
vụ án. Để đảm bảo sự độc lập của Tòa án cấp dưới thì tòa án cấp trên trong bản án



phúc thẩm chỉ nêu lên những sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm và những lý do hủy bản
án, quyết định sơ thẩm mà không có quyền yêu cầu tòa án cấp dưới công nhận hay bác
bỏ những chứng cứ nào trong quá trình xét xử lại vụ án, cũng như không có quyền yêu
cầu công nhận hay bác bỏ những chứng cứ nào trong quá trình xét xử lại vụ án, cũng
như không có quyền yêu cầu Tòa án cấp dưới xét xử theo những nhận định của mình,
không được quyết định trước những điều luật nào Tòa án cấp dưới phải áp dụng để
giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử lại vụ án thì vẫn độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Như vậy, mặc dù giữa các cấp tòa án tồn tại mối quan hệ quản lý hành
chính nhưng Tòa án cấp trên không thể ra lệnh hoặc chỉ đạo Tòa án cấp dưới xét xử
theo ý mình.
b. Độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng, của dư luận, báo chí.
Trong quá trình xét xử Thẩm phán và Hội thẩm không chỉ độc lập với các cơ
quan Nhà nước mà còn độc lập với các bên đương sự, người đại diện cảu đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư và những người tham
gia tố tụng khác.
Trong quá trình xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân còn độc lập với cơ quan
báo chí và dư luận xã hội. Điều 5 BLTTDS quy định: “ Việc xét xử các vụ án dân sự
phải được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do
bộ luật này quy định” là nhằm bảo đảm cho nhân dân tham gia giám sát hoạt động xét
xử của Tào án đồng thời tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân.
Chúng ta đang sống trong một xã hội dân chủ nên Thẩm phán và hội thẩm phải tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng đồng thời phải giữ vững bản lĩnh của
mình không vì sức ép của báo chí và dư luận xã hội mà xét xử thiên vị, không vô tư
khách quan gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của các bên đương sự.
c. Độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử
HĐXX gồm thẩn phán và Hội thẩm, thành phần cụ thể còn tùy vào tính chất của
từng vụ án cụ thể và cũng tùy thuộc vào từng cấp xét xử. Giữa Thẩm phán và Hội
thẩm có sự khác biệt nhau về trình độ nhận thức. Điều này được quy đinh ở những

tiêu chuẩn và điều kiện khác nhau để trở thành Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Do


vậy Thẩm phán không được áp đặt ý kiến của mình lên Hội thẩm, thẩm phán phải là
người phát biểu sau cùng (Điều 236 BLTTDS). Họ độc lập với nhau nhưng là độc lập
để đi đến thống nhất quan điểm đúng đắn, khách quan, giải quyết vụ án đúng pháp
luật và hợp lòng dân, mang lại hiệu quả tốt đẹp cho hoạt động tư pháp.
2. Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật
Như đã phân tích ở trên, Thẩm phán và Hội thẩm hoàn toàn độc lập trong quá
trình xét xử mà không chịu bất kỳ sự chi phối nào từ bên ngoài. Tuy nhiên sự độc lập
ở đây không có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm tùy tiện đưa ra phán quyết không có
căn cứ mà phải tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật ở đây có nghĩa là tuân theo cả
pháp luật về hình thức lẫn luật nội dung. Có nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm phải căn cứ theo các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật dân sự, luật
thương mại, Luật lao động,..và đối chiếu với các tình tiết của vụ án để xác định trên
thực tế có hành vi vi phạm pháp luật hay không đồng thời phải căn cứ vào bộ luật
TTDS và các văn bản hướng dẫn để xác định đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ án. Có như vậy thì bản án, quyết định của Tòa án mơi được đảm bảo tính
khách quan và đúng pháp luật.
3. Mối quan hệ giữa “ độc lập xét xử” và “chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng
dân sự
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Độc lập là
điều kiện tiên quyết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi
xét xử. Và ngược lại, chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội
thẩm được độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ rang buộc lẫn nhau.
Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến sự tùy tiện, độc đoán,
duy ý chí. Còn nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không được độc lập thì có thể dẫn tới
sự can thiệp trái phép từ phía cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động xét xử của Tòa
án. Như vậy, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt của một vấn đề, chúng có
mối quan hệ tác động qua lại và bổ sung cho nhau, nhằm đảm bảo cho việc xét xử vụ

án dân sự được khách quan, công bằng và đúng pháp luật.


III. THỰC TIẾN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM
NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT.
a. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Thực tiễn tố tụng tư pháp ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy, nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được ghi nhận
trong trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác nhau đã tạo cơ sở pháp lý vũng
chắc cho TA xét xử một cách độc lập, khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Nhìn
chung các vụ án được giải quyết cơ bản đúng pháp luật. Mặc dù số lượng vụ án mỗi
năm tăng lên nhiều nhưng cùng với nỗ lực của ngành Tòa án, các Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân đã cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử của mình. Trong năm 2010,
TAND các cấp đã thụ lý 215741 vụ việc dân sự; đã giải quyết xét xử được 194372 vụ
việc (90%). Trong đó, giải quyết xét xử theo thủ tục sơ thẩm 180022 vụ việc; theo thủ
tục phúc thẩm 13032 vụ việc và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 1318 vụ việc
(theo báo cáo tổng kết 2010 của ngành tòa án nhân dân). Mặc dù còn nhiều khó khăn
và thách thức đối với đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, song việc giáo dục
chính trị, tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp cho các thẩm phán và các hội thẩm nhân
dân luôn được Tòa án nhân dân tối cao coi trọng. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta
cũng đã quan tâm đến việc đầu tư cơ sở vật chất và cải thiện chế độ tiền lương cho
ngành Tòa án.
Bên cạnh những kết quả đạt được nói trên, thực tế cho thấy còn nhiều khó khăn
và vướng mắc khi đảm bảo thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Sự vi phạm nguyên tắc này đã dẫn tới hoạt động
xét xử ở nhiều nơi tỏ ra sự thiếu khách quan và công bằng và còn bị chi phối bởi nhiều
yếu tố như: Số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán vẫn còn hạn chế so với
yêu cầu của thực tế mặc dù đã được nâng lên một bước cơ bản so với trước đây. Một
số thẩm phán đã bộc lộ sự hạn chế về năng lực xét xử, thiếu kỹ năng và chuyên môn
xét xử. Ngoài áp lực về chuyên môn thì Thẩm phán còn phải đối diện với một thách

thức không nhỏ đó là về vật chất. Khi mà mức lương hiện này của Thẩm phán quá


thấp trong khi vật giá thì đắt đỏ điều đó đã khiến một số thẩm phán không giữ được
phẩm chất nghề nghiệp.
b. Một số bất cập, hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc

 Về hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật TTDS của nước ta mặc dù đã
được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, một số quy định của pháp
luật TTDS đã bộc lộ những hạn chế và vướng mắc không đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn xét xử các vụ án dân sự nói chung và nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phàn và
Hội thẩm nói riêng…
Về mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Hiện nay. Chúng ta
có ba cấp Tòa án nhưng mỗi cấp Tòa án lại có thẩm quyền khác nhau. Điều này có thể
dẫn đến một vụ án dân sự có thể quan nhiều lần xét xử khác nhau, kéo dài thời gian.
Với mô hình tổ chức Tòa án hiện nay cũng tạo ra một bộ máy cồng kềnh, hoạt động
kém hiệu quả và không phát huy hết được vị trí, vai trò của mỗi cấp Tòa án.

 Về chế độ đối với Thẩm phán. Vẫn còn tồn tại tình trạng Thẩm phán chưa
được đòa tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Chế độ tiền lương và các chế độ đãi
ngộ vật chất khác trên thực tế không đủ để nuôi Thẩm phán và gia đình họ. Do vậy nó
vô hình hạn chế nguồn Thẩm phán và sự khuyến khích đội ngũ Thẩm phán vươn lên.
Ngoài ra cơ chế tuyển chọn thẩm phán hiện nay vẫn còn nhiều bất cập.

 Đối với Hội thẩm nhân dân. Việc thực hiện chế định Hội thẩm nhân dân đã
nảy sinh nhiều bất cập, quyền năng pháp lý trao cho Hội thẩm là khá lớn song chưa có
cơ chế để Hội thẩm phát huy hết vai trò của mình. Bên cạnh đó, trình độ giữa Thẩm
phán và Hội thẩm là khá lớn nên việc thực hiện nguyên tắc này chỉ mang tính hình
thức.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẮM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC

THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN
THEO PHÁP LUẬT.
Trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu nội dung nguyên tắc và thực trạng áp dụng,
người viết xin được đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện
nguyên tắc hiệu quả như sau:


- Một là, đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
- Hai là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật pahir không ngừng
được hoàn thiện, tránh mâu thuẫn, chồng chéo và đặc biệt không để những quy phạm
cản trở sự phát triển của xã hội.
- Ba là, Thay đổi cơ chế tuyển chọn Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân, đồng
thời đảm bảo về số lượng và chất lượng Thẩm phán và Hội thẩm cho công tác xét xử.
Bên cạnh đó cần chú trọng đến chế độ đãi ngộ đối với tiền lương và các đãi ngộ vật
chất đối với Thẩm phán.
- Thứ tư, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Thực hiện việc tổ
chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Với mô hình Tòa án như vậy, mối quan hệ Tòa
án cấp trên và Tòa án cấp dưới lúc này chủ yếu là quan hệ tố tụng, theo đó sẽ tăng
cường tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm cũng như hạn chế được sự can thiệp
trái pháp luật của chính quyền địa phương vào hoạt động xét xử.
- Thứ năm, để lựa chọn Hội thẩm nhân dân không chỉ dựa trên yêu cầu về kiến
thức pháp lý chung chung mà cần đòi hỏi có kiến thức pháp lý được đào tạo trong hệ
thống các cơ sở đào tạo Luật, tối thiểu phải có trình độ trung cấp pháp lý.
C. KẾT LUẬN
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động tố tụng. Chỉ khi thực hiện triệt để
nguyên tắc này thì hoạt động TTDS mới đạt được mục đích tối cao đó là xét xử khách
quan, đúng pháp luật và hợp lòng dân. Qua đó đảm bảo thực hiện chế độ dân chủ,
công bằng cũng như đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật tố tụng dân sự 2004
2. Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Trường đại học Luật Hà
Nội
3. Luận văn Thạc sĩ luật học – Nguyễn Văn Cung “ Các nguyên tắc cơ bản của Tố
tụng dân sự Việt Nam” – Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997.
4. “ Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” – Nguyễn Ngọc Chí – Tạp chí Nhà nước và pháp
luật.



×