Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

bài tập học kỳ môn lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới 9 điểm phân tích và đánh giá sự khác biệt cơ bản về hình thức chính thể nhà nước của nhà n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.89 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước tư sản ra đời là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là thành quả trực tiếp của cách mạng
tư sản đánh dấu một bước quan trọng trong tiến trình phát triển của hình thức
chính thể nhà nước. Các hình thức chính thể trong mỗi nhà nước tư sản lại
không giống nhau do nhiều nguyên nhân quy định. Sự khác nhau ấy được thể
hiện rõ nhất ở hai hình thức chính thể của nhà nước Anh và Mỹ. Ở nước Anh
giai cấp tư sản đã liên minh với tầng lớp quí tộc phong kiến tiến hành cuộc
cách mạng tư sản lật đổ nền chuyên chế phong kiến . nhưng do những hạn chế
của giai cấp lãnh đạo và cuộc cách mạng chưa mang tính triệt để . Nó vẩn duy
trì những đặc quyền phong kiến và thiết lập một hình thức Nhà nước quân chủ
nghị viện. Ở nước Mỹ cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Mỹ do giai
cấp tư sản lãnh đạo đã đi đến thắng lợi và hình thành nên nhà nước Cộng hòa
tổng thống.
Vì vậy, dựa vào kiến thức lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới đã được
học, em xin chọn đề tài “Phân tích và đánh giá sự khác biệt cơ bản về hình
thức chính thể nhà nước của nhà nước Anh và Mĩ ” làm bài tập học kì của
mình.
Dù đã cố gắng song bài viết vẫn không thể tránh được những thiếu sót và
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ giáo của các thầy cô giúp cho
bài viết được hoàn chỉnh hơn với sự cảm ơn chân thành nhất.!.

1


NỘI DUNG
I. Những nét khái quát về hình thức chính thể:
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự để lập ra các cơ
quan quyền lực tối cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ cơ bản
giữa các cơ quan đó với nhau. Đặc biệt, Hình thức chính thể của nhà nước tư
sản là cách thức và trình tự thành lập các cơ quan quyền lực tối cao và xác lập


mối quan hệ giữa chúng.
Có hai hình thức chính thể nhà nước tư sản là : chính thể quân chủ hạn
chế (quân chủ nhị hợp và quân chủ đại nghị) và chính thể cộng hoà( cộng hoà
tổng thống, cộng hoà đại nghị, cộng hoà hỗn hợp). Chính thể quân chủ là hình
thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ (hay một
phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế. Chính thể
cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về cơ
quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
II. Sự khác biệt cơ bản giữa hình thức chính thể nhà nước tư sản Anh
với hình thức chính thể nhà nuớc tư sản Mỹ:
Sự khác biệt cơ bản giữa hai nhà nước này là: nhà nước tư sản Anh theo
hình thức chính thể quân chủ đại nghị ( nghị viện), nhà nước tư sản Mỹ lại
theo hình thức chính thể cộng hoà tổng thống Tuy nhiên thì quyền hạn và
chức năng của các bộ phận nhà nước ở hai nước Anh và Mĩ có những điểm
khác biệt nhất định.vậy thì sự khác biệt giữa chúng là như thế nào ?.
1) Cách thức thành lập nguyên thủ quốc gia:
Ở Anh, hình thức chính thể quân chủ đại nghị có ưu điểm là vừa phát huy
được dân chủ, vừa giữ gìn được sự ổn định cho tầng lớp quý tộc phong kiến
cũ mặc dù tầng lớp này đã trở nên lỗi thời, hết vai trò chính trị. Nguyên thủ
quốc gia được thành lập thông qua thế tập truyền ngôi.

2


Khác với Anh, ở Mỹ để tránh sự độc tài chuyên chế, nước Mỹ thành lập một
chế độ chính trị mà sau này gọi là chính thể tổng thống.Hình thức chính thể
cộng hoà tổng thống có đặc trưng là tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia
vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp do nhân dân gián tiếp bầu ra theo
quy định của Hiến pháp Mỹ.Công dân Mỹ bầu ra các đại cử tri ở các bang và
các đại cử tri sẽ bầu ra tổng thống.

2.

Vai trò, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước:

a. Tổng Thống (Mĩ) hay Hoàng đế (Anh ):
* Ở nghị viện Anh:
Hoàng đế là một chức danh rất quan trọng nhưng hoạt động lại rất hình
thức, Hoàng đế có chức năng tập trung cho sự thống nhất và vững bền của
dân tộc, tượng trưng cho quốc gia, đại diện cho xứ sở. Hoàng đế là nguyên
thủ quốc gia người thay mặt quốc gia và các đảng phái, là người lãnh đạo nhà
thờ Anh, là trung điểm của lòng ái quốc. Khi có chiến tranh xảy ra thì Hoàng
đế sẽ là người đứng lên để kêu gọi quần chúng đứng lên để bảo vệ dân tộc.
Trên thực tế thì Hoàng chỉ nặng về vai trò tượng trưng mà không hề có
quyền hạn gì. Ở Anh còn tồn tại nguyên tắc chữ kí thứ hai: các văn bản mà
HĐ ban hành nếu chỉ có chữ kí của HĐ thì không có hiệu lực được thi hành
mà phải có chữ kí kèm theo của thủ tướng hay bộ trưởng. Văn
kiện(1701,1711) của nghị viện Anh nghi nhận quyền vô trách nhiệm của nhà
vua và ghi nhận nguyên tắc "chữ kí thứ hai". Đảng chiếm đa số tại hạ nghị
viện có quyền ấn định chính sách và lập trường của nhà vua.Vì vậy các bộ
trưởng phải có trách nhiệm về những văn kiện do nhà vua kí. Tóm lại có thể
kết luận Hoàng Đế tồn tại chỉ trên danh nghĩa “nhà vua trị vì, nhưng không
cai trị.
* Ở Mỹ: Nguyên thủ quốc gia có thực quyền chứ không phải là hình thức như
ở Anh. Theo Điều 2 khoản 1 Hiến pháp Mỹ Tổng thống là người đứng đầu

3


hành pháp - chính phủ, được quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm các bộ trưởng để
thành lập chính phủ liên bang, tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang, trình dự

án luật và ngân sách lên nghị viện, kí các điều ước quốc tế và cử đại diện
ngoại giao, bổ nhiệm thẩm phán của pháp viện tối cao, ban bố hoặc phủ quyết
các đạo luật của nghị viện.Tổng thống do dân bầu ra nên phải chịu trách
nhiệm trực tiếp trước nhân dân.Tổng thống có quyền điều hành mọi hoạt động
của chính phủ.
b.Nghị viện:
“Nghị viện Anh có quyền làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành
đàn bà".Nghị viện có quyền cơ bản về lập pháp, quyền quyết định ngân sách
thuế,quyền giám sát hoạt động của nội các,bầu hoặc bãi miễn các thành viên
trong nội các.Nghị viện Anh được giao cho nhiệm vụ quan trọng là thành lập
chính phủ. Hạ nghị viện có quyền quyết định mọi vấn đề thuộc thẩm quyền
của nghị viện.Thượng nghị viện còn tồn tại đến ngày nay là do truyền thống
của người Anh bao giờ cũng muốn giữ những định chế cổ truyền.Từ sau năm
1911, Hạ nghị viện được trao cho các quyền rất lớn là: thông qua các dự luật
về tài chính- ngân sách sau đó gửi cho thượng viện; trừ luật tư ra còn tất cả
các dự luật đều được hạ nghị viện thông qua, mặc dù thượng viện có bác bỏ
nhưng nó vẫn trở thành luật và được ban hành;có quyền quyết định các chính
sách để trình lên quốc hội;phối hợp điều hành hoạt động của các bộ; trình bày
các dự luật cho quốc hội thảo luận.
Ở Mỹ, Điều 1 khoản 1 Hiến pháp năm 1787 quy định : mọi thẩm quyền lập
pháp thuộc về nghị viện của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bao gồm hai viện
thượng viện và hạ viện. Hiến pháp trao cho thượng viện những thẩm quyền
riêng độc lập là: kết tội quan chức chính quyền liên bang kể cả tổng thống và
nguyên tắc là phải được 2/3 thượng nghị sĩ đồng ý; nghị viện có quyền phê
chuẩn toàn bộ chính phủ liên bang do tổng thống bổ nhiệm; có quyền phê
chuẩn thành phần của pháp viện tối cao liên bang và bầu đại sứ ngoại giao, kí
4


hoà ước quốc tế.Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu,do dân chúng các tiểu bang

bầu lên.Hạ nghị viện có quyền luận tội các quan chức cao cấp chính phủ với
số phiếu 50%+1, có quyền phê chuẩn các dự án lợi tức của chính quyền
liên bang.Đây là thẩm quyền lớn nhất của hạ viện Mỹ. Thẩm quyền của nghị
viện Mỹ là được thông qua toàn bộ các dự án luật theo nguyên tắc quá bán, ở
Anh là do hạ viện thông qua.; có quyền được phê chuẩn các dự án ngân sách
toàn liên bang; xây dựng chính sách thuế, định mức thuế, định mức và giám
sát chính quyền liên bang.
c. Chính Phủ.
Ở Anh, chính phủ là cơ quan có quyền hành pháp. Hạ nghị viện cử ra thủ
tướng, vì vậy nên thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước hạ nghị viện. Sau đó
thủ tướng mới thành lập ra chính phủ. Đó là chính phủ của đảng chiếm đa số
trong hạ viện. Ở Anh lập pháp và hành pháp đều nằm trong tay một đảng, hạ
viện chỉ có thể bị giải tán nếu chính phủ thấy đảng của mình có đa số mỏng
manh trong hạ viện, thì yêu cầu giải tán nghị viện để bầu ra hạ viện mới,
nhằm kéo dài thời gian cầm quyền của mình. Chính phủ thực sự có quyền
kiểm tra điều hành cả nghị viện và HĐ, có thực quyền trong cả hai lĩnh vực
lập pháp và hành pháp. Chính phủ khởi thảo ra các chính sách đối nội và đối
ngoại của nhà nước, bổ nhiệm các quan chức cấp cao dân sự và quân sự, ban
hành các văn bản quy phạm dưới luật...Ngoài ra chính phủ còn có quyền trình
dự án luật, dự án ngân sách nhà nước. Chính phủ và thủ tướng có quyền đàm
phán, kí kết và tham gia tích cực vào quá trình phê chuẩn các hiệp ước quốc
tế.
Ở Mĩ thì tổng thống chọn ra những người trong đảng chiếm đa số để lập
ra chính phủ, vì thế nên chính phủ phải chịu trách nhiệm trước tổng thống.
Tổng thống có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các thành viên của chính phủ.

5


d. Hệ thống tòa án (Toà án tối cao hay Toà án Liên bang):

Ở Anh quyền tư pháp thuộc về hệ thống toà án và chỉ làm công tác xét xử
vì chức năng công tố và thi hành án tuộc về chính phủ. Ở Anh không thành
lập bộ tư pháp, hệ thống Toà án dặt dưới sự lãnh đạo của chủ tịch thượng
viện, hệ thống toà án có tính độc lập tương đối cao trong hoạt động vì Anh là
đất nước của tiền lệ pháp và nguyên tắc công bằng. Toà án Mỹ có quyền độc
lập riêng. Nhiệm kỳ thẩm phán là suốt đời và có thể tập trung vào vấn đề công
lý mà không bị các hoạt độngchính trị của hành pháp,lập pháp chi phối, có
quyền tuyên bố các đạo luật được nghị viện thông qua là vi hiến
3. Mối quan hệ giữa các cơ quan về quyền lực và mức độ áp dụng nguyên
tắc phân chia quyền lực vào bộ máy nhà nước:
Ở Anh, Hoàng đế chỉ bổ nhiệm những vị thủ tướng là thủ lĩnh của đảng
chiếm đa số ghế trong nghị viện đây là cơ chế kiềm chế đối trọng không triệt
để.Nếu là thành viên của chính phủ thì đồng thời là hạ nghị sĩ.Thượng nghị
viện không theo con đường bầu cử còn hạ nghị viện do dân bầu nên nó có
quyền hành rất lớn và phải chịu trách nhiệm trước cử tri còn nghị viện không
chịu trách nhiệm trước cử tri.Chính phủ được thành lập dựa trên cơ sở của hạ
nghị viện và chỉ chịu trách nhiệm trước hạ viện.Việc chính phủ phải chịu
trách nhiệm là đặc điểm quan trọng của hình thức này là biểu hiện của sự hạn
chế quyền lực nhà nước.Nghị viện có quyền lập pháp ưu thế hơn hẳn với
chính thể khác. Chính phủ chỉ được hoạt động khi vẫn còn sự tín nhiệm của
nghị viện.Còn với nghị viện trong trường hợp cơ quan này không thành lập
được chính phủ thì có thể bị giải tán tức là quyền hạn của nghị viện cũng
không phải không bị hạn chế.
Khác với nhà nước Anh thì chính phủ ở Mỹ không chịu trách nhiệm trước
nghị viện và cử tri.Nghị viện giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp thông
qua các uỷ ban còn các dự luật muốn được thông qua khi có phê chuẩn của
tổng thống.Ở đây có sự áp dụng học thuyết phân quyền.Hành pháp không
6



chịu trách nhiệm trước nghị viện, tổng thống không có quyền giải tán nghị
viện.Thượng nghị viện có quyền phê chuẩn danh sách thành viên chính phủ
để thực hiện cơ chế kiềm chế đối trọng. Nếu đã là thành viên của nghị viện thì
không thể là thành viên chính phủ.Tổng thống có các quyền cả về lập pháp và
tư pháp như phân tích ở trên.Hiến pháp quy định các nhánh quyền hành pháp,
tư pháp, lập pháp có nguồn gốc hình thành không giống nhau ,có nhiệm kì
khác nhau nên kiềm chế được sự lấn quyền, tiến quyền.
III- Đánh giá chung.
Tóm lại ở hai hình thức chính thể quân chủ nghị viện Anh và cộng hoà
tổng thống Mĩ, ngay từ tên gọi đã thể hiện ở Anh quyền lực tập trung trong
tay nghị viện còn ở Mĩ thì quyền lực tối cao nằm trong tay tổng thống. Mặt
khác ,Ở Anh nguyên thủ quốc gia chỉ mang nghĩa tượng trưng không có thực
quyền .Về việc phân quyền ở ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp thì ở hai
nước này cũng khác nhau, đối với Anh thì quyền lập pháp và hành pháp nằm
trong tay của nghị viện, thủ tướng, toà án tối cao nắm quyền tư pháp. Đặc
biệt Hạ nghị viện là nơi tập trung quyền lực tối cao là cơ quan đại diện cho
nhân dân còn ở Mĩ thì ba nhánh quyền này độc lập với nhau theo nguyên tắc
“kìm chế” và “đối trọng”.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích sự khác biệt giữa hai hình thức chính thể quân chủ
đại nghị của Anh và cộng hoà tổng thống ở Mỹ ta có thể thấy ứng với mỗi nhà
nước là một chính thể đại diện.Nó thể hiện sự áp dụng có triệt để hay không
của tư tưởng phân chia quyền lực- tư tưởng cơ bản của nhà nước tư sản. sự ra
đời của Hiến pháp năm 1787 đánh dấu cái mốc hoàn thành việc xây dựng nhà
nước lien bang Mỹ qui định quyền lực cho từng bộ phận .Ngược lại thì Anh
lại sử dụng Hiến pháp không thành văn nên không nói rõ ràng. Từ đó có thấy
điểm khác biệt cơ bản của hai hình thức chính thể này là cách phân quyền và
chức năng, quyền hạn của các cơ quan đứng đầu nhà nước.
7



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp
luật thế giới, nxb CAND, Hà Nội năm 2006.
2. Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại- lí luận
và thực tiễn, nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2008.
3. Nguyễn Thị Hồi, "Hình thức chính thể nhà nước Anh", Tạp chí luật
học số1/1998
4. Nguyễn Đăng Dung, Hình thức của nhà nước đương đại, , nxb Thế
giới, Hà Nội năm 2004.
5. TS.Nguyễn Thị Hồi ,Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với
việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, TS.Nguyễn Thị Hồi,
nxb tư pháp, Hà Nội năm 2005.

8



×