Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

(8 điểm) k có hành vi cướp giật tài sản của người khác có giá trị 50 triệu đồng hành vi phạm tội của k được quy định tại khoản 2 điều 136 BLHS k bị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.14 KB, 9 trang )

Bài 4
K có hành vi cướp giật tài sản của người khác có giá trị 50 triệu đồng. Hành vi
phạm tội của K được quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS. K bị Tòa án xử phạt 3
năm tù.
Hỏi:
1. Trường hợp phạm tội của K là loại tội gì theo sự phân loại tội phạm (khoản 3 Điều 8
BLHS). (1 điểm)
2. Hành vi phạm tội của K thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay CTTP
giảm nhẹ? Tại sao? (1 điểm)
3. Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không?
Tại sao? (2 điểm)
4. Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao? (2 điểm)
5. Có thể cho K hưởng án treo không? Tại sao? (1 điểm)


BÀI LÀM
1. Trường hợp phạm tội của K là Tội phạm rất nghiêm trọng
Tội cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công
khai.
- Khách thể của tội cướp giật tài sản là quyền sở hữu đối với tài sản, cụ thể ở
đây là tài sản có giá trị 50 triệu đồng.
- Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện bằng hành vi công khai
chiếm đoạt tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát.
Sự công khai của hành vi cướp giật tài sản thể hiện người phạm tội không có ý thức
che giấu hành vi của mình trước người khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người
phạm tội thường lợi dụng sơ hở của người có tài sản, nhanh chóng giằng giật tài sản và
tẩu thoát.
- Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản là hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người
phạm tội cố trực tiếp. Người phạm tội thấy trước hành vi của mình là công khai giằng
giật tài sản của người khác là nguy hiểm cho xã hội, bị coi là tội phạm, người phạm tội


mong muốn thực hiện được hành vi đó nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kì người nào có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật, cụ thể ở đây K là chủ thể của
tội cướp giật tài sản.
Theo đề bài “K có hành vi cướp giật tài sản của người khác có giá trị 50 triệu
đồng. Hành vi phạm tội của K được quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS”.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 BLHS, Phạm tội một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;


e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy hành vi phạm tội của K được quy định theo điểm g) khoản 2 Điều 136
BLHS nêu trên có khung hình phạt cao nhất là mười năm tù.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS quy định về phân loại tội phạm thì :‘Tội
phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung

thân hoặc tử hình”. Vậy tội phạm rất nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù.
Dựa vào hai căn cứ nêu trên ta có thể khẳng định K phạm tội rất nghiêm
trọng.
2. Hành vi phạm tội của K thuộc trường hợp CTTP tăng nặng.
CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ
thể được quy định trong luật hình sự.
Để phân loại CTTP, có thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau, trong trường hợp này
để xác định hành vi vi phạm của K thuộc trường hợp CTTP cơ bản, tăng nặng hay
giảm nhẹ ta dựa vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản ánh.
Theo đó có 3 loại CTTP :
- CTTP cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội, dấu hiệu mô tả tội
phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.


- CTTP tăng nặng là cấu thành tội phạm ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu
hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách
đáng kể so với trường hợp bình thường.
- CTTP giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm
dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một
các đáng kể so với trường hợp bình thường.
Những dấu hiệu có thêm trong CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ trong luật hình sự
được gọi là những dấu hiệu định khung, vì khi thỏa mãn những điều kiện đó sẽ cho
phép chuyển khung hình phạt được áp dụng từ khung bình thường lên khung tăng
nặng hoặc xuống khung giảm nhẹ.
Khác với tội cướp và tội cưỡng đoạt tài sản, CTTP tội cướp giật tài sản đòi hỏi
người phạm tội phải có hành vi chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt tài sản không còn là
mục đích hành động mà phải được thực hiện trong thực tế. Hành vi chiếm đoạt tài sản
ở tội cướp giật tài sản có hai dấu hiệu để phân biệt với những hành vi chiếm đoạt ở các
tội phạm khác đó là dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.

“K có hành vi cướp giật tài sản của người khác có giá trị 50 triệu đồng. Hành vi
phạm tội của K được quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS. K bị Tòa án xử phạt 3 năm
tù.”
Theo tình tiết của vụ án, K có hành vi cướp giật tài sản được quy định tại khoản 2
Điều 136 BLHS, tài sản ở đây có giá trị 50 triệu đồng, việc xác định tài sản là căn cứ
vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội. Xét vào điều 136 BLHS ta có:
Điều 136. Tội cướp giật tài sản
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm
năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;


đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương
tật từ 11% đến 30%;
g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

Như vậy Điều 136 BLHS quy định tội cướp giật tài sản nhưng không mô tả cụ thể
những dấu hiệu của tội phạm này mà chỉ nêu tội danh, ở khoản 1 quy định khung hình
phạt từ 1 đến 5 năm tù đối với hành vi cướp giật tài sản, đây là CTTP cơ bản ứng với
khung hình phạt cơ bản.
Ở khoản 2 Điều 136 tại điểm g) có dấu hiệu phản ánh mức độ phạm tội của K đó
là Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

Do vậy mà hành vi phạm tội của K được áp dụng với khung tăng nặng. Tức là khung
từ 3 đến 10 năm tù.
Như vậy ta có thể khẳng định hành vi phạm tội của K thuộc CTTP tăng nặng.
Ngoài ra tội cướp giật tài sản còn là tội phạm CTTP hình thức.
3. Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không?
Tại sao?
Theo Điều 12 BLHS quy định về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì có nghĩa là K thuộc trường hợp của khoản 2
Điều 12 BLHS tức là từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi, như vậy K phải chịu TNHS
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như đã định tội ở trên thì tội của K là tội phạm rất nghiêm trọng. Xét về mặt lỗi
của K thì đây là lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi khi người phạm tội nhận thức


rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xẩy ra ( Điều 9 BLHS).
Về lí trí : K nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình có tính chất nguy hiểm cho
xã hội ( chủ sở hữu tài sản) và thấy trước hậu quả đó xảy ra.
Về ý chí: K mong muốn cho hậu quả xảy ra, có nghĩa là K mong muốn cho hành
vi cướp tài sản của mình thành công, cái mà K hướng tới đó chính là khối tài sản cướp
được.
Như vậy nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K phải chịu TNHS về hành vi phạm tội
rất nghiêm trọng của mình.
Tuy nhiên nếu K lại là trường hợp thuộc Điều 13 BLHS thì theo đó:
Điều 13. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành

vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm
vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Nếu K là người thực hiện hành vi cướp giật tài sản đang trong tình trạng được
quy định tại khoản 1 Điều 13 thì K không phải chịu TNHS.
Nếu K là người thực hiện hành vi cướp giật tài sản có các dấu hiệu về tình trạng
được quy định tại khoản 2 Điều 13 thì K sẽ được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh. Sau khi khỏi bệnh K có thể phải tiếp tục chịu TNHS về hành vi phạm tội của
mình.
4. Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao?
Tình trạng mắc bệnh tâm thần là tình trạng không có năng lực TNHS. Có hai
dấu hiệu để xác định không có năng lực TNHS đó là : dấu hiệu y học ( mắc bệnh) và


dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển hành vi). Chỉ
được coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS khi đồng thời cả hai dấu hiệu y
học và tâm lý đều thỏa mãn.
Về dấu hiệu y học: người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người
mắc bệnh tâm thần hoặc là bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Ở đây theo dữ
kiện đã cho thì K đang mắc bệnh tâm thần. Vậy K thỏa mãn về dấu hiệu y học.
Về dấu hiệu tâm lý: người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người
đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội có liên quan đến hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực
hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm, do đó không có năng lực kiềm chế
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội.

Hai dấu hiệu này có quan hệ với nhau, trong đó dấu hiệu y học có vai trò là
nguyên nhân, dấu hiệu tâm lý là kết quả nhưng không có nghĩa là đã mắc bệnh tâm
thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển. Năng
lực này có mất hay không phụ thuộc vào loại bệnh, mức độ bệnh và tính chất hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện. Có loại bệnh tâm thần luôn làm mất TNHS, có loại
bệnh chỉ làm mất năng lực này khi bệnh ở mức độ nhất định và có loại bệnh hoàn toàn
không làm mất năng lực TNHS. Như vậy K mắc bệnh tâm thần là đã thỏa mãn dấu
hiệu về y học, còn về dấu hiệu tâm lý có thỏa mãn hay không lại phụ thuộc vào kết
quả của giám định tâm thần tư pháp. Kết luận giám định tâm thần tư pháp vừa xác
định K có mắc bệnh tâm thần hay không và xác định K có trong trạng thái bệnh khi
thực hiện hành vi đó hay không, bên cạnh đó họ sẽ xác định ảnh hưởng của việc đã
mắc đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của K.
Do đó, nếu K được giám định tâm thần tư pháp thỏa mãn cả dấu hiệu y học và
dấu hiệu tâm lý, được Tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi thì :
- Nếu K thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS thì K
không phải chịu TNHS về hành vi của mình.


- Nếu K thuộc trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 13 BLHS thì K được
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, sau khi khỏi bệnh K có thể phải tiếp tục chịu
TNHS của mình.
- Nếu K được giám định tâm thần tư pháp xác định chỉ thỏa mãn dấu hiệu y học
còn chưa thỏa mãn dấu hiệu tâm lý thì việc xác định K có chịu TNHS hay không phụ
thuộc vào mức độ bệnh hay ảnh hưởng của bệnh tới hành vi cướp giật tài sản của K.
5. Có thể cho K hưởng án treo không? Tại sao?
Điều 60 BLHS quy định về án treo : khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ
vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm.
Theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số quy

định của Bộ Luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt,
giảm thời hạn chấp hành hình phạt do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ban hành tại khoản 6 có quy định :
6. Về Điều 60 của BLHS
6.1. Chỉ cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì;
Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình
phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo.
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành
đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền
án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng;
c) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít
nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp
vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều
hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;
d) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội
hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.


Kết hợp với tình tiết của đề bài ta xét thấy :
Về điều kiện thứ nhất Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì,
về điều kiện này K hoàn toàn thỏa mãn.
Điều kiện thứ hai và điều kiện thứ ba là có nhân thân tốt và có tình tiết giảm nhẹ ,
điều này trong tình huống không đề cập đến. Người phạm tội có nhân thân được coi là
tương đối tốt phải là người chấp hành đúng chính sách, pháp luật của nhà nước, thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của bản thân với tư cách là thành viên trong xã hội, chưa có
tiền án tiền sự. Điều kiện về nhân thân này còn cho thấy việc ảnh hưởng của nhân thân
tới đối tượng phạm tội trong việc giáo dục, nuôi dưỡng. Nhân thân có tốt thì mới đảm
bảo được việc tự giáo dục, cải tạo của người phạm tội mới tốt. Các tình tiết giảm nhẹ
cho hưởng án treo được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS cũng như các tình tiết

giảm nhẹ được tòa xác định trong từng vụ án cụ thể. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ có
nghĩa là có hai tình tiết trở lên trong đó nhất thiết phải có một tình tiết được quy định
tai khoản 1 Điều 46, trong trường hợp có cả tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng,
thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng hai tình tiết trở lên. Như vậy,
nếu K có đầy đủ các điều kiện này thì K sẽ được xem xét cho hưởng án treo hay
không.
Về điều kiện thứ tư, tòa án dựa vào ba căn cứ trên đây để kết luận khả năng tự
giáo dục, cải tạo của người bị kết án tù với sự giúp đỡ của xã hội, gia đình. Mặt khác
tòa phải đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa và phòng chống tội phạm ở từng loại tội
trong môi trường xã hội cụ thể của từng thời kì. Ví dụ : nếu K phạm tội trong khoảng
thời gian mà xã hội đang đấu tranh phòng ngừa tội trộm cắp, cướp giật tài sản thì dù
có đủ ba căn cứ trên thỏa mãn thì cũng rất khó để cho K được hưởng án treo.
Để được hưởng án treo, K phải thực sự có khả năng hoàn lương trong môi trường
xã hội cụ thể, không có nguy cơ tái phạm bởi tính chất tội cướp giật tài sản mà K đã
thực hiện cũng như do ảnh hưởng xấu của các đối tượng xung quanh.
Như vậy K chỉ được hưởng án treo nếu có đầy đủ bốn căn cứ trên.



×