Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sự tham gia tố tụng dân sự của viện kiểm sát tại toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92 KB, 10 trang )

Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
A – LỜI MỞ ĐẦU:
Trong bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Viện Kiểm Sát Nhân dân (VKSND) là
một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành nên Bộ máy Nhà nước. Viện kiểm sát giữ vai trò
quan trọng trong hệ thống các cơ quan thực thi và bảo vệ tính ổn định, trật tự pháp luật của xã
hội, góp phần thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện các quy định của bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) về sự tham gia tố tụng của VKSND
trong thực tiễn đã bộc lộ nhưng thiếu sót, vướng mắc gây khó khăn trong hoạt động kiểm sát
của VKSND. Chính vì vậy, em xin chon đề bài số 6: “Sự tham gia tố tụng dân sự của Viện
kiểm sát tại toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị”.
B - NỘI DUNG:
I, Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự:
1. Khái niệm sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự:
Trong bộ máy Nhà nước CHXCN Việt Nam, quyền lực Nhà nước là thống nhất, tập
trung vào Quốc hội, có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện
kiểm sát. Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã tiếp tục khẳng
định vị trí của VKSND là một trong bốn cơ quan cấu thành nên bộ máy Nhà nước CHXHCN
Việt Nam. Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân thì VKSND có hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp.
Theo Khoản 1 Điều 21 Bộ luật TTDS 2004, trong tố tụng dân sự, VKSND chỉ có một
chức năng đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. VKS không có chức năng khởi tố trong một
số trường hợp. Tuy nhiên, theo Điều 39 Bộ luật TTDS, VKSND vẫn là cơ quan tiến hành tố
tụng dân sự, đại diện của VKS là người tiến hành tố tụng dân sự. Được coi là cơ quan tiến
hành tố tụng, song quyền và nghĩa vụ của VKS chủ yếu nhằm thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án, để đảm bảo tính
hợp pháp, có căn cứ trong hoạt động xét xử của Toà án. Mặc dù đều là cơ quan tiến hành tố
tụng, những khác với Toà án, VKS chỉ được phát biểu quan điểm về giải quyết nội dung vụ
việc dân sự, phát biểu này không có tính bắt buộc. Mục đích chủ yếu của VKS tham gia vào
quá trình giải quyết vụ việc dân sự để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.



1


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
Vậy có thể thấy sự tham gia tố tụng của VKS trong tố tụng dân sự: VKS tham gia với tư
cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật để đảm bảo
cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự tại Toà án.
2. Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự:
VKSND có vai trò to lớn trong việc bảo vệ, tôn trọng pháp luật trong tố tụng dân sự.
Bởi nhiệm vụ, chức năng chủ yếu của VKS là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tất cả
những chủ thể tham gia vào tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Chính vì vậy sẽ góp phần phát hiện, đẩy lùi những hạn chế, tiêu cực, thiếu xót trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự của Toà án và nâng cao tinh thần trách nhiệm của Toà án và của các
cơ quan tiến hành tố tụng khác. Đồng thời, VKSND tham gia vào hoạt động tố tụng sẽ đảm
bảo việc giải quyết nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời; bảo đảm mọi bản
án, quyết định của Toà án có căn cứ và đúng pháp luật.
Có thể thấy thẩm quyền tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là hai trong số
những thẩm quyền mà VKSND nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
II, Sự tham gia của VKSND tại tòa án cấp sơ thẩm:
Theo quy định trước đây thì VKS tham gia tất cả các phiên tòa. Bộ luật TTDS ra đời
thay đổi quy định về sự tham gia phiên tòa của VKSND, sự thay đổi đó thể hiện trong quy
định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2004: “VKSND tham gia phiên tòa đối với những vụ án do
Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án”.
Theo quy định trên thì, VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án thu
thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại.
Đối với những vụ án này, ngay sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải

gửi hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án,
VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án (Khoản 2 Điều 195 BLTTDS 2004). Bên
cạnh các trường hợp theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, tại Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLTTDS 2004 đã mở rộng phạm vi các trường hợp VKSND tham gia phiên
tòa sơ thẩm. Cụ thể VKS còn tham gia: “…các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa

2


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng,
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất, tâm thần” ( theo Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của BLTTDS 2004 quy định về sửa đổi, bổ sung Điều 21 BLTTDS)
Hoạt động của VKS tại phiên tòa sơ thẩm:
Trong thủ tục hỏi tại phiên tòa, sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, Chủ tọa
phiên tòa hỏi trước, rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, các đương sự và sau đó là VKS (Điều 222 BLTTDS). So với các quy định
trước đây thì quy định này cũng là một điểm mới về sự tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên.
Sau khi các đương sự tranh luận và đối đáp xong, Chủ tọa đề nghị Kiểm sát viên phát
biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 234 BLTTDS 2004. Theo đó, VKS
tham gia phiên tòa sơ thẩm với vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật nên đại diện VKS phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án sau khi
các bên đã tranh luận. Tuy nhiên, việc phát biểu ý kiến của VKS chỉ mang tính chất tham khảo
đối với Hội đồng xét xử (HĐXX), không có quy định nào ràng buộc HĐXX phải sử dụng ý
kiến hợp pháp của Kiểm sát viên làm căn cứ phán quyết cho vụ án.
VKS tham gia tố tụng là đại diện cho quyền lợi của Nhà nước và xã hội để thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của mình. Chính vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLTTDS 2004 Khoản 37 Điều 1 về sửa đổi, bổ sung Điều 234 BLTTDS đã quy
định “Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu ý kiến tranh luận và đối đáp xong,

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố
tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án”. Vấn đề
này cần có hướng dẫn cụ thể của VKSND Tối cao và TANDTC để việc phát biểu của Kiểm sát
viên đảm bảo tính khách quan và phù hợp với địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong quan hệ
pháp luật TTDS.
BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 đã chủ động đề cao nguyên tắc xét xử độc lập của
Toà án và chú trọng tập trung vào chức năng tham gia tố tụng dân sự của VKS ở đây là nhằm
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng dân
sự trong quá trình tố tụng.
III, Sự tham gia của VKSND tại phiên tòa phúc thẩm:

3


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
Tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2004 về sửa đổi, bổ sung Khoản 3
Điều 21 BLTTDS có quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà, phiên họp phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm” và Khoản 2 Điều 264 BLTTDS có quy định về những người
tham gia phiên toà phúc thẩm: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà
phúc thẩm”. Quy định này so với trước có thay đổi tại khoản 2 điều 264 BLTTDS năm 2004
cũ lại quy định: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa phúc thẩm
trong trường hợp VKS kháng nghị hoặc đã tham gia phiên tòa sơ thẩm”.
BLTTDS năm 2004 quy định có sự không rõ ràng và thống nhất về sự tham gia tố tụng
của VKS tại phiên tòa phúc thẩm các vụ án dân sự. VKSND phải tham gia phiên tòa đối với
những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại. Khiếu nại của
đương sự trong trường hợp này là khiếu nại về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong
giai đoạn phúc thẩm mà khiếu nại đó chưa được giải quyết hoặc giải quyết chưa thỏa đáng.
Tuy nhiên tại Khoản 2 điều 264 BLTTDS năm 2004 lại quy định: “Kiểm sát viên VKS cùng
cấp phải tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp VKS kháng nghị hoặc đã tham gia

phiên tòa sơ thẩm”. Theo quy định như vậy thì việc đương sự khiếu nại về hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án không phải là căn cứ bắt buộc VKS phải tham gia phiên tòa phúc thẩm.
Nên chăng kết hợp cách hiểu của Điều 21 và Điều 264 theo hướng: VKS tham gia phiên tòa
phúc thẩm trong trường hợp VKS cần kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
hoặc khi VKS đã tham gia phiên tòa sơ thẩm, hay khi ở giai đoạn phúc thẩm mà đương sự có
khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Tòa án. Về vấn đề này, Thông tư liên tịch số
03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC đã có hướng dẫn cụ thể:
“Theo quy định tại khoản 2 Điều 264 BLTTDS, thì VKS cùng cấp với Tòa án cấp phúc
thẩm phải tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp sau:
a, Khi VKS cùng cấp với tòa án cấp sơ thẩm đã tham gia phiên tòa sơ thẩm;
b, Khi VKS cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm không tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng
có kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp có kháng nghị bản án sơ thẩm”.
Ở giai đoạn phúc thẩm, đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Tòa án
cấp sơ thẩm hoặc của Tòa án cấp phúc thẩm thì tương tự như ở giai đoạn sơ thẩm.
Như vậy, so với quy định cũ thì quy định của BLTTDS 2004 sau khi sửa đổi, bổ sung
2011 đã khắc phục được phần không thống nhất, mở rộng phạm vi tham gia phiên toà phúc
thẩm của Viện kiểm sát.

4


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
Tại phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc
nghe lời trình bày của đương sự, Kiểm sát viên theo trình tự: Trường hợp chỉ có Viện kiểm sát
kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng
nghị. Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đượng sự trình bày về nội dung
kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung
kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị (Điểm a Khoản 1 Điều 271 BLTTDS 2004).
Trình tự này rất hợp lý, bởi trước hết phải nghe kháng cáo của đương sự trước bởi chính
đương sự là người tham gia tố tụng tại phiên toà sơ thẩm, có quyền và lợi ích ảnh hưởng trực

tiếp nên kháng cáo của đương sự sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong phiên toà phúc thẩm
đồng thời là căn cứ mở phiên toà phúc thẩm. Sau đó, nếu có kháng nghị Hội đồng xét xử sẽ
nghe kháng nghị của Viện kiểm sát, kháng nghị có thể trùng với kháng cáo của đương sự hoặc
bổ sung thêm cho kháng cáo.
Sau khi nhưng người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát
viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm (Điều 273a BLTTDS 2004). Đây là nhiệm vụ, chức năng
chính của Viện kiểm sát khi tham gia phiên toà vì thế nên việc Kiểm sát viên - đại diện cho
Viện kiểm sát phát biểu ý kiến tại phiên toà phúc thẩm là không thể thiếu. Trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án,
quyết định phúc thẩm cho Toà án đã xét xử sơ thẩm, Viên kiểm sát cùng cấp,…(Điều 281
BLTTDS 2004).
IV, Kiến nghị về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tại phiên toà sơ thẩm và
phúc thẩm:
Thứ nhất, tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 về
Khoản 2 Điều 21 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với
các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập
chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất,
tâm thần”.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà cụ thể là của Kiểm sát viên tại
phiên toà sơ thẩm được thể hiện tại bài phát biểu sau khi những người tham gia tố tụng phát
biểu tranh luận và đối đáp xong. Nội dung bài phát biểu của Kiểm sát viên phải tập trung vào

5


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án

cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án (Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự).
Như vậy, pháp luật đã xác định rất rõ ràng nội dung phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên
tại phiên toà sơ thẩm. Nếu như Kiểm sát viên tham gia phiên toà cho rằng Thẩm phán hoặc
Hội đồng xét xử vi phạm tố tụng, chẳng hạn còn thiếu người tham gia tố tụng, cần xác minh
thu thập thêm chứng cứ,v.v…thì có quyền đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà để khắc
phục những thiếu sót đó. Vấn đề đặt ra là ý kiến phát biểu trên của Kiểm sát viên có được ghi
nhận vào trong bản án hay không? Đối với vấn đề này trên hiện nay có hai luồng ý kiến khác
nhau và có cách làm chưa thống nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng do hiện nay Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án
nhân dân tối cao mà cụ thể là Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể về việc ghi nhận ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên trong bản án, do vậy
trong bản án không phải ghi ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Quan điểm thứ hai cho rằng
trong bản án phải ghi ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên toà trong phần xét thấy thì mới
phù hợp và đúng với quy định của pháp luật. Quan điểm này cho rằng, nếu không ghi ý kiến
phát biểu của Kiểm sát viên thì sẽ không xác định được Thẩm phán, Hội đồng xét xử, cũng
hay những người tham gia tố tụng có tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng hay không? Và
quan điểm nào của Kiểm sát viên được chấp nhận, quan điểm nào không được chấp nhận?
Trong hai quan điểm trên thì quan điểm thứ hai có lẽ phù hợp và có cơ sở hơn. Bởi lẽ,
khi Kiểm sát viên tham gia phiên toà mà ý kiến phát biểu không được ghi vào trong bản án thì
sẽ được thể hiện ở đâu? Mặt khác, nếu trong bản án không thể hiện Hội đồng xét xử chấp nhận
hay không chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát thì quyết định trong bản án chưa đảm
bảo được tính khách quan. Ngoài ra, nếu trong bản án không thể hiện ý kiến phát biểu của
Kiểm sát viên sẽ là một thiếu sót của bản án, bởi lẽ theo quy định thì trong phần xét thấy của
bản án Hội đồng xét xử phải xem xét toàn diện, đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố
tụng, chẳng hạn các đương sự trong vụ kiện và kể cả ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Như vậy, vấn đề đặt ra tại sao ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên
tham gia phiên toà lại không được đưa vào trong bản án?
Hơn nữa, theo quan điểm thứ nhất cho rằng hiện nay do chưa có hướng dẫn của Toà án
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên không đưa ý kiến của Kiểm sát viên


6


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
vào trong bản án. Việc lý giải này thật sự chưa ổn và chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã xác định rõ nội dung
phát biểu của Kiểm sát viên và giai đoạn phát biểu là sau khi những người tham gia tố tụng
phát biểu tranh luận và đối đáp xong. Như vậy, không thể cho rằng pháp luật chưa quy định
nên không thể đưa các ý kiến phát biểu của kiểm sát viên vào trong bản án như nhận định của
quan điểm thứ nhất. Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, ý kiến phát biểu của
Kiểm sát viên tại các phiên toà sơ thẩm phải được đưa vào trong bản án và Hội đồng xét xử
phải nhận định cụ thể ý kiến nào của Kiểm sát viên được chấp nhận, ý kiến nào không được
chấp nhận thì mới phù hợp.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền và phạm vi kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát
theo hướng: Nên quy định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo hướng nguyên tắc VKSND
chỉ tiến hành kháng nghị phúc thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc xâm phạm đến lợi ích công cộng hoặc trật tự công cộng. Đối
với những bản án dân sự mắc sai lầm trong việc áp dụng pháp luật nhưng không vi phạm tố
tụng, để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, viện kiểm sát không
kháng nghị, việc kháng cáo hay không kháng cáo hoàn toàn do đương sự tự quyết định. Trừ
trường hợp là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
Thứ ba, về tiếp tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ được quy định tại Điều 191
BLTTDS, cần bổ sung thêm Toà án có trách nhiệm phải thông báo VKSND cùng cấp biết việc
Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự đã ra quyết định tạm đình chỉ khi lí do đình chỉ không
còn. Nếu không VKSND không có căn cứ để kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử
của Toà án. Điều này hạn chế công tác kiểm sát trong hoạt động TTDS của VKSND trên thức
tế.
Thứ tư, về thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 252 BLTTDS của VKS nên tính
từ khi Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án chứ không phải tính từ khi nhận được bản án. Bởi
lẽ, trên thực tế qua công tác kiểm sát cho thấy việc gửi bản án, quyết định của Toà án cho

VKSND thường rất chậm, không đảm bảo được thời gian để VKS thực hiện kháng nghị nếu
phát hiện có vi phạm. Nhiều trường hợp khi VKSND nhận được bản án, quyết định do Toà án
gửi và phát hiện ra vi phạm, yêu cầu mượn hồ sơ thì Toà án lại cố tình trì hoãn việc gửi hồ sơ

7


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
cho VKSND. Điều này dẫn đến tình trạng hết thời hạn kháng nghị nên VKSND cùng cấp phải
đề nghị VKSND cấp trên trực tiếp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
C - KẾT LUẬN:
Sự tham gia của VKSND trong quá trình TTDS nói chung và sự tham gia phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm nói riêng đã có những sự tác động tích cự, góp phần hỗ trợ đáng kể cho
TAND giải quyết tốt các vụ việc dân sự. Điều này chứng tỏ sự có mặt của VKS trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự của TAND là hoàn toàn cần thiết, qua đó VKS thể hiện được vai trò
kiểm dát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTDS. Chính vì vậy, việc nâng cao chất
lượng và hiệu quả tham gia TTDS của VKSND là một vấn đề hết sức quan trọng và là nhu cầu
tất yêu khách quan của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, góp phần thực hiện
thành công chiến lược cải cách nền tư pháp quốc gia nói chung cũng như của ngành kiểm sát
nói riêng.

8


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.Tư
pháp, Hà Nội, 2005.
2. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004.

3. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam sửa đổi bổ sung một số điều năm 2011.
4. Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/09/2005 hướng
dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự và việc tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
5. Về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Ths. Nguyễn Thanh Hải, Tạp chí
Kiểm sát, số 4/2004, trang 41-44.
6. Nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thực hiện quyền kháng nghị phúc
thẩm theo quy định của BLTTDS, Đào Hữu Đang, Tạp chí Kiểm sát số 01/2005, tr. 30-3.
7. Các trang web:
/> />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=17003284&article_details=1

9


Bài tập lớn bộ môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam

MỤC LỤC
A – LỜI MỞ ĐẦU:………………………………………………………………1.
B - NỘI DUNG:
I, Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự:……………….1-2.
1. Khái niệm sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự:
2. Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự:
II, Sự tham gia của VKSND tại tòa án cấp sơ thẩm:…………………………..2-3.
III, Sự tham gia của VKSND tại phiên tòa phúc thẩm:…………………….….3-5.
IV, Kiến nghị về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tại phiên toà sơ thẩm và
phúc thẩm:………………………………………………………………………….…5-7.
C - KẾT LUẬN:……………………………………………………………...…..8.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:………………………………………..9.

10




×