Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hợp đồng dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.29 KB, 19 trang )

BÀI LÀM
Tính cấp thiết của đề tài:
Hợp đồng dân sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự
và là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong xã hội. Một xã hội muốn tồn tại và phát triển, nhu cầu con người
muốn được thỏa mãn thì buộc các chủ thể phải tìm đến nhau thông qua quan hệ
hợp đồng và trong quan hệ hợp đồng đó phải có sự tự do ý chí của chủ thể. Với ý
nghĩa như trên, không phải đến tận khi Bộ luật dân sự ra đời, con người ta mới biết
đến các chế định về hợp đồng dân sự mà nó đã xuất hiện từ rất xa xưa. Từ những
năm đầu của thời kì đổi mới một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp
đồng đã ra đời như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự
(1991) và trong 2 pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có
phần quy định về vấn đề hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời và được
sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét, quy
định một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông
qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 tạo ra một hành lang pháp lí
quan trọng cho giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập
pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật.
Trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xu hướng toàn
cầu hóa đang được thể hiện rõ rệt bằng việc Việt Nam ra nhập các tổ chức thương
mại lớn của thế giới. Trong một cuộc chơi mà tiếng nói của các dân tộc là khác
nhau, nhưng vẫn phải tìm đến nhau để các bên thỏa mãn được những nhu cầu của
riêng mình, thì thứ ngôn ngữ và luật lệ chung, không có gì hơn ngoài pháp luật.
Khi giao dịch và hợp đồng dân sự ngày càng phong phú, gia tăng về số lượng,
phức tạp về nội dung và tính chất, những tranh chấp hợp đồng xảy ra cũng là điều
dễ hiểu, thì câu hỏi được đặt ngay ra từ lúc đầu nảy sinh vấn đề là các bên có thực
sự ký kết với nhau những văn bản được coi là hợp đồng, và hợp đồng ấy có bị vô
hiệu hay không, từ đó xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên. Các điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham gia vào
quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình
giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia


vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao lưu dân sự.

I.

1


Nghiên cứu, tìm hiểu thế nào là hợp đồng dân sự vô hiệu, điều kiện để tuyên bố
một hợp đồng là vô hiệu, thời hiệu tuyên bố, hậu quả pháp lý cũng như những bất
cập còn tồn tại trong các quy định về hợp đồng vô hiệu, từ đó tìm ra hướng hoàn
thiện những chế định này là công việc cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung:
1. Về hợp đồng dân sự và những đặc điểm của hợp đồng dân sự:
Khái niệm hợp đồng dân sự theo Điều 388 BLDS : “Hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.”
Qua khái niệm về hợp đồng dân sự, có thể thấy để hình thành hợp đổng dân sự
phải có các yếu tố cơ bản sau:
- Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên.
- Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý
chí giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó.
- Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là
nhằm làm xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự.
- Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo,
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa.

II.

Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu:
Theo điều 410 BLDS thì các quy định về giao dịch dân sự cũng được áp dụng

đối với hợp đồng vô hiệu ( các quy định từ điều 127 đến 138 BLDS).
Như vậy khi xét hợp đồng dân sự có vô hiệu hay không thì cũng đồng nghĩa
với việc ta xem xét điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cũng như thế nào là
giao dịch dân sự vô hiệu.
Điều 122 BLDS quy định: . Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.
Như vậy, một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu trong các trường hợp: do vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; do giả tạo; do người chưa thành
2.

2


niên, ngưởi mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
xác lập thực hiện; do bị nhầm lẫn; do bị lừa dối đe dọa; do người xác lập không
nhận thức làm chủ được hành vi của mình; do không tuân thủ các quy định về hình
thức.
Lịch sử hình thành và phát triển chế định về hợp đồng dân sự và hợp đồng
dân sự vô hiệu ở Việt Nam:
Trong lịch sử thế giới, chế định hợp đồng đã có từ lâu, như ở châu Âu, chế định
hợp đồng đã có từ thời Cổ đại La mã vào những thế kỷ IV– V trước Công nguyên,
người La mã đã xây dựng được hệ thống thuật ngữ về phạm trù pháp lý về bản chất
của hợp đồng như là hợp đồng miệng, hợp đồng viết, sự thể hiện ý chí trong giao
dịch dân sự, giao dịch theo lương tâm, giao dịch theo pháp luật, tuy nhiên ở Việt

Nam, cho đến thế kỷ XIX pháp luật dân sự vẫn chưa nhận được sự quan tâm của
triều đại phong kiến lúc bấy giờ; ngay như Bộ Luật Hồng Đức cũng chỉ quy định
rất giản đơn về 3 loại hợp đồng ruộng đất.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dưới sự bảo hộ của Pháp chế định khế ước
hay hợp đồng mới được ghi nhận trong các văn bản pháp luật chính thức như ở
Nam kỳ có Bộ Dân luật giản yếu năm 1883; Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ
Luật Trung Kỳ năm 1936 do người Pháp khai thác thuộc địa và ban hành những
đạo luật phần lớn có lợi phục vụ cho nước Pháp.
Như vậy từ đầu thế kỷ XX chế định hợp đồng hay khế ước được xuất hiện ở
Việt Nam do 3 Bộ Luật Dân sự điều chỉnh gồm có :
Bộ Dân luật giản yếu áp dụng tại xứ Nam kỳ, nhưng trong bộ luật này chỉ nói
về nhân thân (nói về người) không có điều khoản nào qui định về chế định hợp
đồng hay khế ước, khi giải quyết các vụ án liên quan đến hợp đồng hay khế ước,
các Toà Nam án thường áp dụng các điều khoản của Dân luật của Pháp như lý trí
thành văn (raison écrite) liên quan đến hợp đồng nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự;
các Toà án Pháp ở Nam Việt còn áp dụng các điều khoản Dân luật Bắc kỳ, Dân luật
Trung kỳ, có khi còn áp dụng cả Luật Hồng Đức và Luật Gia Long, nếu liên quan
đến thừa kế và tập tục cổ truyền của Việt Nam...
Bộ Dân Luật Bắc kỳ gồm có 1.455 điều, chia làm một thiên sơ bộ và 4 quyển,
quyển thứ ba nói về khế ước và nghĩa vụ; và phạm vi áp dụng ớ các Toà án Bắc
phần mà thôi.
Bộ Dân Luật Trung kỳ còn được gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật được
ban hành ngày 13/07/1936 gồm có 1.709 điều, thì có 57 điều nói về khế ước – hợp
3.

3


đồng (từ điều 1216 – 1273); sở dĩ Dân luật Trung kỳ hơn Dân luật Bắc kỳ 254
điều, vì vấn đề khế ước – hợp đồng theo Dân luật của Pháp qui định kỹ hơn Dân

luật Bắc.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hoà được thành lập, ngày
10/10/1945 Chủ Tịch Chính Phủ lâm thời Hồ Chí Minh ban hành sắc luật số 47
cho phép áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam,
nếu những luật lệ ấy không trái với nền độc lập của Việt Nam và chính thể dân chủ
cộng hoà, thì các quan hệ hợp đồng vẫn được điều chỉnh căn cứ vào các Bộ Dân
luật giản yếu Nam kỳ, Bộ dân Luật Trung Kỳ; và đến ngày 10/07/1959 theo chỉ thị
số 172-CT/TATC của Toà án nhân dân tối cáo đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc
và phong kiến, chế định hợp đồng trong Bộ Dân luật bắc kỳ được chấm dứt vào
trung tuần tháng 7 năm 1959; năm 1960 ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng
kinh tế; và Nghị định số 54/CP ngày 10/03/1975 của Chính phủ ban hành điều lệ
về chế độ hợp đồng.
Đến năm 1986 do điều kiện đổi mới kinh tế đất nước, và điều chỉnh nền kinh tế
thị trường có điều tiết; các văn bản pháp luật được ra đời để điều chỉnh các quan hệ
hợp đồng kinh tế và quan hệ hợp đồng dân sự, trong đó có Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế năm 1989, và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 để điều chỉnh các quan
hệ kinh tế, dân sự trong đời sống xã hội ngày càng phát triển. Bộ luật Dân sự đầu
tiên của nước ta đã được Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 8 thông qua ngày
28/10/1995, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1996, và các chế định hợp đồng cũng
được Bộ luật này công nhận.
Tuy vậy, mặc dù chế định hợp đồng được Bộ luật dân sự 1995 qui định, vẫn
chưa chấm dứt Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, nên vẫn còn hai chế định
hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại vẫn tồn tại, khiến cho các qui định hợp
đồng của Bộ luật Dân sự 1995 chưa được phát huy đúng mức của Bộ luật Dân sự;
Bộ luật Dân sự 2005 mới thể hiện được toàn diện về xã hội và địa vị pháp lý
được bình đẳng, chế định hợp đồng được thống nhất trên mọi lãnh vực kinh tế và
thương mại .
Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu:
Căn cứ vào tính chất của hợp đồng dân sự, ta chia hợp đồng vô hiệu thành vô hiệu
tuyệt đối và vô hiệu tương đối:

+ Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là mặc nhiên bị vô hiệu, thời hạn yêu cầu tòa
tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không hạn chế, nguyên nhân bị vô hiệu là do vi
4.

-

4


-

-

phạm các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội, giả tạo nhằm che dấu
một hợp đồng khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba, vi phạm quy định
bắt buộc của pháp luật về hình thức của hợp đồng
+ Hợp đồng vô hiệu tương đối chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan và bị tòa án tuyên bố vô hiệu, thời hiệu yêu
cầu tòa án tuyên bố vô hiệu là 2 năm kể từ ngày xác lập hợp đồng, nguyên nhân
vô hiệu là do hợp đồng được xác lập bởi người chưa thành niên, mất năng lực
hành vi, hạn chế năng lực hành vi dân sự; do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa; tại
thời điểm không nhận thức được hành vi của mình.
Căn cứ hiệu lực của hợp đồng ta chia làm hợp đồng vô hiệu toàn bộ (toàn bộ nội
dung của hợp đồng đều vô hiệu, phần vô hiệu ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ
hợp đồng) và hợp đồng vô hiệu một phần (chỉ có một phần vô hiệu, chỉ có phần vô
hiệu không có hiệu lực còn các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành).
Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực ta chia làm hợp đồng vô hiệu do chủ thể không
có năng lực hành vi dân sự; vô hiệu do vi phạm nội dung và mục đích của hợp
đồng; vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí tự nguyện; vô hiệu do vi phạm về hình
thức.

Điều kiện để một hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu:
Hợp đồng dân sự vô hiệu khi không tuân thủ một trong các điều kiện sau:
- người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
- mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạo đức xã hội
- người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện
- hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật
a. Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự:
 Chủ thể là cá nhân:
Người đủ 18 tuổi, không bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực
hành vi dân sự được coi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường
hợp bị tòa tuyên bố mất năng lực hành vi hay hạn chế năng lực hành vi, có toàn
quyền tham gia mọi giao dịch dân sự để xác lập cho mình hoặc cho người mà
họ đại diện các quyền và nghĩa vụ dân sự và cũng đồng thời phải gánh chịu
mọi trách nhiệm và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lý mà họ thực hiện. Tuy
nhiên để bảo vệ quyền lợi của người được đại diện thì pháp luật cũng quy định
một số biện pháp hạn chế quyền tham gia hợp đồng dân sự của người đại diện
Những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không mắc bệnh tâm thần
hoặc mắc các bệnh khác khiến họ không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
5.

5


của mình có quyền giao kết hợp đồng với tư cách người có năng lực hành vi
dân sự không đầy đủ.Tính không đầy đủ về năng lực hành vi dân sự được thể
hiện ở 2 phương diện: Những người này chỉ được phép xác lập, thực hiện
những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu, sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa
tuổi hoặc những giao dịch mà pháp luật quy định; Chỉ được phép xác lập, thực
hiện những giao dịch dân sự nhất định nếu được người đại diện theo pháp luật
đồng ý. Nhưng cũng có một ngoại lệ cho phép người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi

có thể tự mình trực tiếp tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự để thỏa
mãn nhu cầu về mọi mặt của họ. Đó là trường hợp từ 15 đến 18 tuổi không mắc
bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác khiến họ không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình mà có tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ dân sự mà họ
xác lập, thực hiện. Tuy nhiên đối với trường hợp lập di chúc vẫn cần phải có sự
đồng ý cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc chứ không phải về nội
dung di chúc.
Quyền giao dịch đối với cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
(được quyết định bởi Tòa án): Những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
cũng có quyền tham gia xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự có giá trị
nhỏ phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Với những giao dịch liên quan tới tài
sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật.. (Điều 23 - Khoản 2 - BLDS 2005). Như vậy có
thể nói khả năng tham gia giao dịch dân sự của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự tương đương với khả năng tham gia giao dịch dân sự của người có
năng lực hành vi dân sự một phần.
Quyền tham gia giao dịch đối với cá nhân dưới 6 tuổi và mất năng lực hành
vi dân sự: Pháp luật có quy định họ không được quyền tham gia xác lập và
thực hiện mọi giao dịch dân sự. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi chính đáng
của họ, những người đại diện theo pháp luật của họ có quyền xác lập và thực
hiện các giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần
của những người này. (Điều 21, 22 - BLDS 2005)
 Chủ thể là tổ chức:
Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia giao dịch phải có đại
diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền thực hiện. Những người đại diện
này cũng phải thỏa mãn các qui định đối với cá nhân nêu trên.

6



b.

Mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạo đức xã
hội:

Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch đó. Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều
khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận. Để hợp đồng có hiệu lực pháp luật
thì mục đích và nội dung của hợp đồng phải không trái với pháp luật và đạo
đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định, đạo đức xã hội là những
chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đông thừa nhận và tôn trọng.Ví dụ về một số hợp đồng vô hiệu như sau:
Vi phạm các nguyên tắc công bằng xã hội như hợp đồng nhằm xóa bỏ nghĩa vụ
của cha mẹ đối với con cái và ngược lại, các hợp đồng nhằm thực hiện hành vi
phạm tội như cướp của, giết người...;Lợi dụng sơ suất hoặc hoàn cảnh khó
khăn của người khác nhằm tu lợi bất chính ví dụ hợp đồng cho vay tiền với lãi
suất vượt quá mức quy định ; Hạn chế quyền tự do của người khác như hợp
đồng nhằm thực hiện hành vi phạm tội như bắt cóc, giam giữ người trái pháp
luật…
c. Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện:
Tự nguyện là : tự mình muốn làm, không bị bắt buộc. Tính tự nguyện trong
hợp đồng dân sự là khả năng về ý chí và biểu lộ ý chí ra bên ngoài của các chủ
thể tham gia. Trong hợp đồng dân sự yếu tố tự nguyện đóng vai trò rất quan
trọng , là đặc trưng của pháp luật dân sự nước ta và là căn cứ để các chủ thể
giao kết hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền nghĩa vụ giữa các bên.
Điều kiện cần để một người tham gia vào hợp đồng dân sự một cách tự
nguyện là người đó phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Điều kiện đủ để xác định người đó tham gia hợp đồng có hoàn toàn tự nguyện
hay không là hành vi tham gia hợp đồng của chủ thể phải là thể hiện ý chí đích

thực của chủ thể đó.
d. Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật:
Hình thức của giao dịch là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch.
Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được
nội dung của giao dịch đã xác lập. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã ,
đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi
7


phạm hợp đồng xảy ra. Người giao kết hợp đồng có quyền lựa chọn hình thức
của hợp đồng đó , trừ trường hợp pháp luật có qui định .
Hợp đồng dân sự có thể được thể hiện bằng miệng, văn bản, hoặc bằng hành
vi cụ thể. Trong một số trường hợp pháp luật có qui định hợp đồng dân sự phải
được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được
chứng thực, đăng kí thì phải tuân theo các qui định đó.
6. Hậu quả pháp lý
a. Cơ sở pháp lý:

của hợp đồng dân sự vô hiệu:

Theo điều 137: “ Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu :1. Giao dịch
dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
của các bên kể từ thời điểm xác lập giao dịch; 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu
thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả nhau những gì đã nhận,
nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường
hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của
pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Theo quy định tại điều 410 BLDS thì điều luật trên cũng được áp dụng để
xác định hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
b. Việc áp dụng và những điểm còn bất cập:

Như vậy hợp đồng dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Sự vô hiệu của
hợp đồng chính cũng làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên thỏa
thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính.Tuy nhiên, nếu chỉ có hợp
đồng phụ vô hiệu, hợp đồng chính vẫn có hiệu lực pháp luật và không bị chấ,
dứt thực hiện, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần
không thể tách rời của hợp đồng chính.
Về quy định “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận, trước tiên hoàn trả bằng hiện vật, nếu không hoàn trả được
bằng hiện vật thì tính thành tiền để trả.”Thực tế ở nước ta cho thấy, việc hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự đảm bảo được lợi ích của các chủ
thể. Điển hình đối với những giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất,
bởi đất – tiền mỗi thời điểm sự chênh lệch về giá trị rất khác biệt, thường thì
chỉ bên được nhận lại đất của mình là có lợi, còn bên nhận lại tiền chịu rất
nhiều thiệt hại.
8


Chưa có quy định nào của pháp luật đề cập đến vấn đề khi bên nhận tài sản
đã cải tạo sửa chữa nhằm làm tăng giá trị tài sản thì khi giao dịch vô hiệu, hậu
quả pháp lý có gì khác biệt không.Ở đây có thể chia làm hai trường hợp: Nếu
bên chuyển giao tài sản phản đối hoặc cơ quan có thẩm quyền không cho phép
nhưng bên nhận tài sản vẫn làm tăng giá trị tài sản, bên nhận tài sản phải chịu
phần tăng giá trị này khi hoàn trả tài sản thì không có gì đáng bàn. Trường hợp
hai là nếu bên nhận tài sản không có lỗi thì giải quyết thế nào nếu bên đã giao
tài sản không chịu nhận tài sản mới hoặc có nhận nhưng không thanh toán phần
giá trị tăng thêm.
Về quy định tính thành tiền để hoàn trả trong trường hợp không thể hoàn trả
hiện vật thực sự cần thiết: luật vẫn chưa có quy định về việc tính giá hiện vật
thành tiền tại thời điểm nào: thời điểm xác lập giao dịch hay thời điểm hoàn trả

tài sản, trong khi đó với những tài sản có sự biến động về giá thì việc xác định
giá tài sản để tính thành tiền là mấu chốt vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các
bên. Thông thường, nếu giá tài sản tăng thì thiệt hại thuộc về bên mua, còn nếu
giá tài sản giảm thì thiệt hại thuộc về bên bán.
Khi hợp đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu, bên có lỗi trong việc hợp đồng vô
hiệu phải chịu thiệt hại và bồi thường cho bên chủ thể kia. Mức độ bồi thường
thiệt hại căn cứ vào mức độ lỗi. Bên bồi thường chỉ phải bồi thường thiệt hại
do phần lỗi của mình gây ra.
Các trường hợp pháp luật quy định là hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp
lý cho từng trường hợp”
a. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội:
Theo Điều 128 BLDS, vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
bao gồm nội dung, mục đích của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Hậu quả pháp lý: giao dịch đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc
vào ý chí của người tham gia hợp đồng. Tài sản trong hợp đồng và lợi tức thu
được từ hợp đồng có thể bị tịch thu và xung quỹ nhà nước. Trong trường hợp
thiệt hại mà các bên đều có lỗi thì họ phải chịu phần thiệt hại tương ứng với
mức độ lỗi của mình.
b. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức giao dịch:
Theo Điều 134 BLDS : “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân

7.

9


theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao

dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô
hiệu.”
Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được phép tự do lựa chọn hình thức của
hợp đồng. Chỉ những hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng
văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận,... mà các bên không tuân thủ mới bị
vô hiệu. Khi các bên có yêu cầu thì tòa án xem xét và “ buộc các bên thực hiện
các quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn nhất định”.
Hậu quả pháp lý : chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định
về hình thức của hợp đồng trong thời hạn do tòa án quyết định thì hợp đồng
mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
c. Hợp đồng vô hiệu do giả tạo:
Theo điều 129 BLDS 2005:"Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách
giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn
giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô
hiệu theo quy định của Bộ luật này.Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo
nhằm trốn tránh trách nhiệm với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu".
Như vậy, hợp đồng dân sự giả tạo được hiểu là hợp đồng được xác lập nhằm
che giấu một giao dịch khác thể hiện ý chí đích thực của chính các bên, được
xác lập trên cơ sở hành vi gian dối, hợp đồng mà các bên "tự nguyện" tham gia
nhưng mục đích giao dịch được thể hiện không phù hợp với mục đích các bên
thật sự quan tâm, hướng tới, mong muốn đạt được. (yếu tố giả tạo được biểu
hiện thông qua dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để tạo nên sự thiếu thống
nhât giữa ý chí và tuyên bố ý chí của các bên khi giao kết hợp đồng ).
Hai trường hợp được coi là hợp đồng giả tạo là: giả tạo nhằm che giấu một
giao dịch khác và giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Hậu quả pháp lý: với trường hợp 1 thì hợp đồng giả tạo vô hiệu, hợp đồng bị
che giấu vẫn có hiệu lực nếu như hợp đồng đó đáp ứng được đầy đủ các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng; với trường hợp 2 thì hợp đồng giả tạo sẽ vô
hiệu.
d. Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi

dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập:
Theo điều 130 BLDS : “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi
10


dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó,
Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao
dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.”
Đây chính là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về chủ thể, bởi những
người tham gia giao kết hợp đồng ở đây không thể có đủ điều kiện để tự do thể
hiện ý chí. Tuy vậy, hợp đồng này không bị mặc nhiên vô hiệu mà chỉ khi có sự
yêu cầu của những người đại diện cho họ.
Hậu quả pháp lý: nếu không bị người đại diện khởi kiện yêu cầu tòa tuyên
bố hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng này vẫn có hiệu lực pháp luật như thường,
nếu bị người đại diện khởi kiện thì hợp đồng không có hiệu lực.
e. Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn:
Điều 131 BLDS 2005 quy định : "Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch vô hiệu".
Nhầm lẫn là việc các bên hiểu sai về nội dung của hợp đồng mà các bên
tham gia gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Tuy vậy, không phải bất cứ
sự tin nhầm nào của người xác lập hợp đồng dân sự cũng được coi là điều kiện
để xem xét hiệu lực của hợp đồng . Muốn xem xét, người ta phải đặt một người
bình thường vào vị trí của người tin nhầm để xác định trong hoàn cảnh tương
tự người đó có nhận thức, đánh giá như thế nào về nội dung của hợp đồng. Từ
đó, đánh giá xem sự tin nhầm liệu có phải là vô lý hay khó chấp nhận không;
sau đó xét đến mối quan hệ giữa sự nhầm lẫn của người đó trong mối tương

quan với khả năng nhận thức, năng lực chuyên môn của ngưới đó. Từ đó, đánh
giá xem sự tin nhầm của người đó có phải là từ sự cẩu thả, sơ suất hay không.
Để có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn,
người yêu cầu phải chứng minh được tình trạng nhầm lẫn của mình khi xác lập
giao dịch dân sự, tức là phải chỉ ra hai điều kiện:
- Sự nhầm lẫn đó ảnh hưởng mang tính quyết định đến việc xác lập hợp
đồng của người bị nhầm lẫn.
- Gây nên sự nhầm lẫn là do lỗi vô ý của một bên. Bởi nếu là lỗi cố ý thì hợp
đồng được thiết lập trên cơ sở sự lừa dối chứ không phải là trên cơ sở sự nhầm
lẫn, và bởi chỉ có bên bị nhầm lẫn do lỗi vô ý của bên kia mới có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu. Nếu bên bị nhầm lẫn mà sự nhầm
11


lẫn do chính lỗi của mình mà xác lập hợp đồng dân sự thì không thể yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu.
Hậu quả pháp lý: hợp đồng chỉ bị tuyên bố là vô hiệu khi sự nhầm lẫn xảy ta
do lỗi vô ý của bên đối tác.
f. Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa:
Lừa dối trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của hợp đồng dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. VD: Anh A bán cho anh
C chiếc xe máy cũ cam kết là chất lượng rất tốt, đi 10 năm nữa vấn tốt, tuy
nhiên sau 3 tháng anh A biết mình đã bị lừa bởi chiếc xe máy ì ì, hỏng hóc liên
tục.
Ðe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm
cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ,
chồng, con của mình. VD: muốn A bán chiếc oto cho mình với giá rẻ mạt, B đã
dọa A sẽ phát tán những tấm hình không lành mạnh của A, làm uy tín của A ở

cơ quan giảm sút.
Hậu quả pháp lý: Những giao dịch được xác lập do bị lừa dối, đe dọa chỉ bị
vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa và tòa án chấp nhận yêu
cầu đó. Như vậy, những giao dịch được xác lập do tác động này vẫn có hiệu lực
nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối đe dọa.
g. Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình:
Điều 133 - BLDS 2005 quy định: "Người có năng lực hành vi dân sự nhưng
đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là
vô hiệu".
Việc không nhận thức và điều khiển được hành vi của mình được hiểu là
người thực hiện hành vi có những biểu hiện bất hợp lí mà bất cứ một người có
khả năng nhận thức bình thường nào trong một hoàn cảnh bình thường sẽ
không hành động như vậy. Do vậy việc xác lập hợp đồng dân sự của người đó
ở thời điểm này được coi là không dựa trên cơ sở của sự tự nguyện và vì vậy
hợp đồng được xác lập cũng không có hiệu lực pháp luật.

12


-

Hậu quả pháp lý: Chính chủ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu, việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các
bên tham gia giao dịch.
h. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được:
Điều 411 BLDS quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được, nghĩa là:
Trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không

thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo
cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại
cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối
tượng không thể thực hiện được
Quy định này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc
nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp
đồng vẫn có giá trị pháp lý.
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu:
Thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là hai năm kể từ ngày
xác lập hợp đồng với các hợp đồng do người không đủ năng lực hành vi, do
nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối, do không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình
thức.
Thời hạn tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không hạn chế với những hợp đồng
vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

8.

Về quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu:
a. Cơ sở pháp lý:
Điều 138 BLDS: “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vô hiệu: 1. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài
sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển
giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với
người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 của Bộ
luật này. 2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động
sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác
cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ


9.

13


-

-

trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu
giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải
là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.”
Theo điều 410 BLDS thì điều luật trên cũng được áp dụng khi hợp đồng bị
tuyên vô hiệu.
b. Việc xác định người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu:
Điều kiện tiên quyết là mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với
quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, người thứ ba phải là người có đầy đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự hoặc có người giám hộ, đại diện
hợp pháp và được sự đồng ý của người này. Trước khi người thứ ba tham gia
vào hợp đồng đối tượng của hợp đồng này được xác lập bởi một hợp đồng vô
hiệu.
Việc xem xét đến vấn đề ý chí của người tham gia hợp đồng là rất quan
trọng. Nếu trong điều kiện thông thường họ có thể biết được tài sản đưa vào
hợp đồng được xác lập bởi một hợp đồng vô hiệu trước đó và pháp luật quy
định họ buộc phải biết khi tham gia hợp đồng thì họ không phải người ngay
tình. Nếu họ không biết và pháp luật quy định họ không buộc phải biết và khi
tham gia hợp đồng họ chiếm giữ tài sản một cách công khai, minh bạch thì họ
mới là người thứ ba ngay tình.
Cuối cùng khi họ đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và được hưởng những quyền

dân sự trong hợp đồng họ xác lập ( đã nhận được tài sản và mục đích của hợp
đồng đã được thực hiện) thì quyền lợi được xác định như trong điều luật quy
định.
c. Hậu quả pháp lý:
Theo luật định, ta chia làm 2 trường hợp:
Nếu tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được
chuyển giao bằng một giao dịch khác có đền bù thì hợp đồng vẫn có hiệu lực.
Quy định này cũng có ngoại lệ là trường hợp hợp đồng vô hiệu có đền bù là
động sản không đăng ký quyền sở hữu bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở
hữu như: do bị lừa dối, nhầm lẫn hay đe dọa. Trong trường hợp này, chủ sở hữu
có quyền đòi lại tài sản khi chứng minh được đó là tài sản của mình.
Nếu tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được
chuyển giao cho người thứ ba ngay tình bằng một giao dịch không có đền bù,
động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản đã được chuyển giao
14


cho người thứ ba ngay tình, trường hợp này hợp đồngvới người thứ ba sẽ bị vô
hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua
bán đấu giá hoặc giao dịch với người bán mà theo bản án, quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền là chủ tài sản nhưng sau đó người này lại không
phải là chủ sở hữu tài sản do bản án bị hủy, sửa.
Chế định hợp đồng vô hiệu – những điểm tồn tại và phương hướng giải
quyết
- Về điều kiện chủ thể : Việc Điều 122 khoản 1 chỉ đề cập đến điều kiện về
năng lực hành vi mà không đề cập đến điều kiện về năng lực pháp luật dân sự của
chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng dường như mâu thuẫn với các qui định được
ghi nhận tại chế định đại diện nói chung và chế định giám hộ nói riêng. Bởi với
điều kiện “người tham gia giao dịch là người có năng lực hành vi” thì rõ ràng
người đại diện, và người giám hộ trong hầu hết mọi trường hợp đều đáp ứng được

điều kiện này và vì thế hợp đồng mà người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá
thẩm quyền đại diện hoặc hợp đồng mà người giám hộ xác lập, thực hiện có đối
tượng là tài sản của người được giám hộ phải được xem là có hiệu lực. Tuy nhiên,
Điều 146 BLDS lại qui định: “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực
hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người
được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện”.
Như vậy, điều rõ ràng là hợp đồng do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá
phạm vi đại diện sẽ vô hiệu nhưng không phải vô hiệu do người đó không có năng
lực hành vi mà do người này không có năng lực pháp luật đối với tài sản hoặc công
việc là đối tượng của hợp. Điều 69 khoản 5 BLDS cũng chỉ rõ: “Các giao dịch dân
sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người
được giám hộ đều vô hiệu”. Đây cũng chính là trường hợp người xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự không có năng lực pháp luật. Cũng tương tự như vậy, đối với
trường hợp hợp đồng được xác lập bởi những người có năng lực hành vi đầy đủ
nhưng nếu họ không phải là người có quyền đối với tài sản là đối tượng của hợp
đồng thì đương nhiên hợp đồng đó sẽ có hiệu lực pháp luật (nếu chỉ xét trên
phương diện năng lực hành vi của người giao kết). Tuy nhiên, nếu coi đây là hợp
đồng có hiệu lực thì rõ ràng lại trái với nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Điều 9
khỏan 1 BLDS.

III.

15


-

Để khắc phục điều này, Điều 122 khỏan 1 BLDS cần phải được sửa lại theo
hướng “Người tham gia giao dịch dân sự phải là người có năng lực giao kết giao
dịch dân sự” bởi có như vậy thì người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự

phải đáp ứng được không chỉ điều kiện về năng lực hành vi mà còn phải đáp ứng
được cả điều kiện về năng lực pháp luật.
Về điều kiện tự nguyện xác lập hợp đồng:Theo BLDS 2005 hợp đồng dân sự
vô hiệu do không đảm bảo sự tự nguyện bao gồm các trường hợp hợp đồng giả tạo,
hợp đồng xác lập trên cơ sở nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa và hợp đồng vô hiệu do
người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn BLDS Việt Nam chưa nhấn mạnh vào mức
độ nghiêm trọng của nhầm lẫn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng (sự nhầm lẫn quan
trọng tới mức một người bình thường trong cùng hoàn cảnh sẽ chỉ giao kết hợp
đồng với những điều khoản khác hoặc không khi nào giao kết hợp đồng đó nếu biết
được sự thực) nhằm tránh các trường hợp người bị nhầm lẫn cẩu thả nghiêm trọng
trong xác lập hợp đồng. Nói cách khác qui định về nhầm lẫn trong Điều 131 BLDS
2005 chưa có cái nhìn mang tính chất khách quan về việc xem xét lỗi đối với các
bên xác lập hợp đồng dẫn tới hậu quả pháp lý có thể không công bằng đối với các
bên. Mặt khác, theo Điều 131 BLDS qui định thì chỉ cần “một bên có lỗi vô ý làm
cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch” thì
giao dịch đó đã có thể bị xem xét tính có hiệu lực. Tuy nhiên, nội dung của hợp
đồng dân sự gồm rất nhiều các điều khỏan khác nhau trong đó có những điều
khỏan không mang tính chất quyết định đến việc các bên xác lập, thực hiện giao
dịch vì thế nếu chỉ qui định chung chung như vậy thì điều luật này có thể được
hiểu là nếu nhầm lẫn về bất cứ nội dung nào cũng có thể dẫn đến hợp đồng vô
hiệu. Điều này đương nhiên là không bảo đảm cho các bên sự an toàn khi tham gia
xác lập, thực hiện hợp đồng cũng như thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.Vì các lý
do kể trên Điều 131 BLDS đoạn 1 nên được sửa là “Khi một bên có lỗi vô ý làm
cho bên kia nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch dân sự mà xác lập giao
dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch
đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch vô hiệu trừ trường hợp bên bị nhầm lẫn cẩu thả nghiêm trọng”.
Về hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa Điều 132 BLDS qui định: “Đe dọa trong
giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải

thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín,
16


-

nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. So với
Điều 142 BLDS 1995, Điều 132 BLDS 2005 đã cụ thể hóa “người thân thích”
thành: “cha, mẹ, vợ, chồng, con” của người bị đe dọa. Việc sửa đổi này đã thu hẹp
phạm vi người được bảo vệ do bị đe dọa. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp
người bị đe dọa mặc dù không thuộc nhóm đối tượng trên, nhưng lại là người có vị
trí đặc biệt quan trọng với người xác lập hợp đồng và vì vậy người xác lập hợp
đồng đã buộc phải xác lập trái với mong muốn của mình. Hoặc người tham gia xác
lập, thực hiện hợp đồng mặc dù không có quan hệ gì với một người nhưng do lo sợ
thiệt hại có thể xảy ra ngay lập tức cho người đó mà đã xác lập hợp đồng trái với
mong muốn của mình. Nếu căn cứ vào ngôn từ của Điều 132 BLDS, trong cả hai
trường hợp trên người đã xác lập hợp đồng trái với mong muốn của mình sẽ không
có quyền yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu. Điều này dường như đi ngược lại với
qui định của Điều 122 khỏan 1 điểm c BLDS 2005 “Người tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện” và hơn nữa với qui định này dường như đi ngược lại với
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và nếu hành vi đe dọa này nghiêm
trọng đến mức người bị đe dọa đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
thì việc người từ chối không xác lập hợp đồng dân sự liệu có bị xem là coi thường
sinh mệnh của người khác và phải chịu trách nhiệm hình sự hay không . Vì vậy,
pháp luật chỉ nên qui định: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của
người khác”.
Về hình thức của hợp đồng: Hình thức của hợp đồng dân sự được ghi nhận
tại Điều 401 BLDS 2005 thực chất chỉ là sự sao chép lại Điều 124 BLDS, Điều

122, Điều 127 của Bộ luật này do vậy sự có mặt của điều khỏan này là không cần
thiết. Hơn nữa, Điều 401 khoản 2 đoạn 2 còn qui định: “Hợp đồng không bị vô
hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”. Qui định này có thể dẫn đến hiểu lầm là trừ trường hợp pháp luật có
quy định một cách minh thị một hợp đồng cụ thể nào đó vi phạm về hình thức sẽ
dẫn tới giao dịch dân sự đó là vô hiệu còn các hợp đồng khác nếu vi phạm điều
kiện về hình thức cũng sẽ không thể bị xem xét vô hiệu. Tuy nhiên các qui định
của BLDS về hình thức của các hợp đồng dân sự thông dụng, các biện pháp bảo
đảm, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất chỉ qui định các loại hợp đồng này phải
17


-

tuân theo hình thức nào chứ không qui định cụ thể các hợp đồng này nếu không
tuân theo hình thức bắt buộc thì sẽ vô hiệu. Do vậy có thể hiểu các loại hợp đồng
nói trên nếu không tuân theo hình thức luật định thì cũng sẽ không vô hiệu do pháp
luật không có qui định cụ thể. Tuy nhiên, cách hiểu này lại mâu thuẫn với chính
Điều 122 khỏan 2 BLDS: Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Bởi với ngôn từ của điều luật
này thì chỉ cần trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự (hợp đồng)
phải tuân theo hình thức thể hiện nào thì hợp đồng phải tuân theo hình thức đó và
nếu không tuân theo (vi phạm) thì hợp đồng đó sẽ có thể bị xem xét hiệu lực của
nó.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu: Theo Điều 137 Khoản 2
BLDS sự vô hiệu của hợp đồng dẫn đến hậu quả là không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Hậu quả
pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 137 BLDS 2005 bao
gồm: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô

hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường
hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp
luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường” Quy định mang tính nguyên tắc của
Điều 137 BLDS về mặt ngôn từ là rõ ràng nhưng việc Các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu” không phải trong trường hợp nào cũng có thể thực hiện được bởi
đối tượng của hợp đồng là tài sản không còn giữ được tình trạng như ban đầu hay
đối tượng của hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện…nên việc qui
định “các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” không phải là đơn giản. Trong
trường hợp này nếu áp dụng “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn
trả bằng tiền” thì quả thật qui định về việc không công nhận quyền và nghĩa vụ của
các bên không có ý nghĩa. Điều 132 BLDS qui định: “Lừa dối trong giao dịch là
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai
lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã
xác lập giao dịch đó. Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc
người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha,
18


mẹ, vợ, chồng, con của mình…”. So với Điều 142 BLDS 1995, Điều 132 BLDS
2005 đã bổ sung thêm trường hợp hành vi lừa dối đe dọa có thể do người thứ ba
thực hiện. Đây là điểm tiến bộ đáng ghi nhận vì nó bảo vệ hiệu quả hơn chủ thể
của hợp đồng trước hành vi cố ý dẫn dắt họ xác lập hợp đồng trái với ý muốn đích
thực của mình. Tuy nhiên, BLDS chưa có điều khoản nào bảo vệ quyền và lợi ích
của người đã tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với người bị đe dọa hoặc
bị lừa dối nhưng không biết và không buộc phải biết người tham gia xác lập, thực
hiện giao dịch với mình là bị đe dọa, lừa dối. Quyền lợi của người này có thể được
bảo vệ bởi qui định tại Điều 137 BLDS: “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”
nhưng cụm từ “Bên có lỗi” có thể gây ra sự hiểu nhầm là việc bồi thường thiệt hại

chỉ do một trong các bên xác lập, thực hiện hợp đồng phải gánh chịu bởi người thứ
ba không phải là một bên trong hợp đồng. Vì vậy, Điều 137 khoản 2 BLDS đoạn
cuối nên được sửa là: “Người có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.

19



×