Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu giáo a2 (5 6 tuổi) trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.96 KB, 23 trang )

0


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO TRẺ
DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI LỚP MẪU GIÁO
A2 (5-6 TUỔI), TRƯỜNG MẦM NON KỲ TÂN, BÁ THƯỚC
THANH HÓA

Người thực hiện: Lê Thị Quyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Kỳ Tân
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2018

1


Mục lục
STT
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.


2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5

2.3.6
2.4
3.

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề
Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Biện pháp xây dựng môi trường tiếng việt
phong phú giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt.
Biện pháp 2: Rèn kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng
việt cho trẻ ở mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 3: Dùng phương pháp sử dụng tiếng mẹ đẻ (tiếng
thái ) để dạy tiếng việt cho trẻ giúp trẻ giao
tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt tốt hơn

Biện pháp 4: Sử dụng các trò chơi để giúp trẻ hứng thú giao
tiếp bằng tiếng việt phổ thông
Biện pháp 5: Sử dụng biện pháp luyện tập theo mẫu và
luyện từ khó giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt phổ thông.
Biện Pháp 6: Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình
và xã hội để giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt phổ thông.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận, kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
6
6
8
11
12
14

14
16
17


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
2


Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài
người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, và là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi
văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi
dân tộc. Các dân tộc thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc
mình trong sinh hoạt cộng đồng của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt
để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp
giáo dục, y tế, giải trí, thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa văn hoá ngôn ngữ làm phong phú thêm cho
nền văn hoá của người thiểu số, đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế
và vị thế của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt
anh em. Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là
một cộng đồng song ngữ”, tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc và tiếng Việt của
người Kinh.
Tiếng Việt còn gọi là tiếng phổ thông với tư cách là ngôn ngữ Quốc gia, là
ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non
đến đại học. Thực tế cho thấy chất lượng học tập của học sinh dân tộc thiểu số
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếng Việt của học sinh. Phần lớn trẻ dân tộc
thiểu số khi tới trường, lớp mầm non đều chưa được sống trong môi trường tiếng
Việt.
Việc quan trọng trong trường mầm non cần làm là giúp trẻ trước độ tuổi đi
học phát triển tốt ngôn ngữ, phù hợp với từng lứa tuổi và sự phát triển chung
của trẻ. V.I Lênin cho rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của loài người. Do đó, ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong đời

sống hàng ngày, không có ngôn ngữ đứa trẻ không thể phát triển thành người
một cách thực thụ. Muốn nói được, muốn giao tiếp được với mọi người xung
quanh thì đứa trẻ phải được trải qua quá trình hình thành và phát triển ngôn
ngữ trong môi trường nhất định
Việc chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ khi bắt đầu tới trường, lớp là vô cùng
quan trọng bởi ngôn ngữ có chức năng làm công cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư
tưởng, tình cảm ; công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong xã hội.
Thực tế cho thấy đối với những trẻ thành thạo tiếng phổ thông việc giao
tiếp và thu nhận tri thức và thực hiện những yêu cầu của giáo viên một cách rất
dễ dàng song đối với trẻ dân tộc thiểu số đây là cả một vấn đề khó khăn và đòi
hỏi nhà giáo dục cần phải có những biện pháp phù hợp.[1]
Đặc biệt ở trường mầm non Kỳ Tân chúng tôi các cháu 100% là dân tộc
Thái nghe và nói tiếng Việt rất kém mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình đến
mức nào chăng nữa thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng, mà chủ yếu là tiếng mẹ
đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là
3


một phương tiện sử dụng thường xuyên đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở đây
học sinh chỉ dùng tiếng Việt giao tiếp với giáo viên khi cần thiết, còn ngoài ra trẻ
vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Chính vì vậy dẫn
đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong
muốn.
Bởi trong quá trình học ở các lớp dưới trẻ chưa thành thạo tiếng việt nên
việc nắm bắt kiến thức còn hạn chế, trẻ chưa hiểu hết những yêu cầu hay những
cuộc trò chuyện của cô nên chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động của trẻ.
Trẻ nói không rõ ràng về ngôn ngữ và kĩ năng diễn đạt ngôn ngữ tiếng Việt của
trẻ còn khó khăn.
Với tình hình thực tế của trẻ lớp tôi như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy
nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào? bằng

phương pháp gì? để giúp trẻ hiểu và nói được Tiếng việt một cách trôi chảy,
chính vì điều băn khoăn trăn trở ấy bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài
“Một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu giáo
A2 (5-6 tuổi) Trường mầm non Kỳ Tân, Huyện Bá Thước” để làm đề tài
nghiên cứu. Nhằm giúp trẻ dân tộc thích được đến lớp và giao tiếp bằng tiếng
Việt rõ ràng mạch lạc, để trẻ tự tin trong cuộc sống và hứng thú học tập, tham
gia vào các hoạt động trong trường mầm non đạt kết quả tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để tìm ra một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ dân
tộc thiểu số lớp mẫu giáo A2 (trẻ 5-6 tuổi) Trường mầm non Kỳ Tân.
Từ đó giúp trẻ tiếp nhận tri thức một cách dễ ràng và đầy đủ nhất và đó sẽ
là một lý do để nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục đây cũng là một nền
móng tốt cho trẻ phát triển một cách toàn diện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu
giáo A2( 5-6 tuổi) Trường mầm non Kỳ Tân, Huyện Bá Thước, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp thu thập thông tin: trò chuyện với đồng nghiệp, nghiên cứu
sử dụng tài liệu, tham khảo sách báo, tạp chí, tập san, mạng internet.
-Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Khảo sát trên trẻ quan sát thái độ,
khả năng nhận biết của trẻ.
-Phương pháp phân tích giảng giải dạy trẻ cung cấp kiến thức,kỹ năng cho
trẻ…
Phương pháp thực hành trải nghiệm.
-Phương pháp thống kế, xử lý số liệu.
4



- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm .
- Phương pháp tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Đối với sự phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người
và xã hội nói chung thì ngôn ngữ và giao tiếp có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Ngôn ngữ chỉ có ở con người và cũng chính từ lao động con người tiến
hóa từ vượn thành người và phát triển. V.I.Lênin nói: “Ngôn ngữ là phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất của con người”. [ 2 ]
Ở lứa tuổi mầm non là thời kì phát cảm ngôn ngữ và giao tiếp, đây là giai
đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ và các kĩ năng
đọc viết ban đầu của trẻ. Ở lĩnh vực này trẻ đạt được những thành tích vĩ đại mà
ở các giai đoạn sớm hay muộn hơn không thể có được, Trẻ học nghĩa và cấu trúc
của từ, cách sử dụng từ ngữ để chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc của bản thân,
hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết. Cùng với quá trình lĩnh
hội ngôn ngữ, trẻ còn lĩnh hội và phát triển các năng lực tư duy như xây dựng và
biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin với người khác và tiếp nhận, đáplại ý tưởng,
thông tin của người khác.
Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát
triển khác của trẻ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển nhận thức, giải quyết vấn đề và chức năng tu
duy kí hiệu tượng trưng ở trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện của giao tiếp vì thế ngôn
ngữ cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển các năng lực và kĩ năng xã
hội của trẻ. Trẻ không chỉ sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ thái độ, suy nghĩ, tình
cảm của bản thân đối với mọi người xung quanh mà còn để tiếp nhận, hiểu thái
độ, suy nghĩ, tình cảm và giao tiếp của người khác. Trình độ phát triển ngôn ngữ
và làm quen với đọc viết ban đầu còn góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị
cho trẻ học tập ở trường phổ thông cũng như sự thành đạt trong cuộc sống sau
này của trẻ.
Việc phát triển ngôn ngữ và giao tiếp phải được tiến hành một cách tích

hợp và tự nhiên bắt đầu từ những ý tưởng, kinh nghiệm gần gũi và có ý nghĩa
đối với trẻ. Những kinh nghiệm của trẻ được biểu đạt trong một ngữ cảnh có nội
dung. Trẻ cần được làm quen với ngôn ngữ nói chữ viết trong ngữ cảnh cụ thể
và thông qua các loại hình hoạt động phong phú như nghe, đọc, kể chuyện, đọc
thơ, tham quan, dạo chơi, quan sát các kí hiệu chữ viết, bảng biểu trong phòng
nhóm, vui chơi, giao tiếp và các hoạt động khác trong học tập và sinh hoạt hàng
ngày. Cha mẹ, giáo viên mầm non và người lớn xung quanh trẻ đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo dựng môi trường ngôn ngữ phong phú, tương tác va
giao tiếp cũng như các cơ hội cho sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ.
5


Đối với trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số thì về căn bản, học tiếng việt
đối với các cháu là học ngôn ngữ thứ hai (tiếng việt phổ thông). Khi đi học mẫu
giáo, trẻ em nói chung đã có vốn hiểu biết và kĩ năng ban đầu về hoạt động ngôn
ngữ nói, biết sử dụng tiếng mẹ đẻ (tiếng Thái) để giao tiếp hàng ngày. Kinh
nghiệm tiếng Thái (ngôn ngữ thứ nhất) có thể coi là nhân tố thuận lợi giúp trẻ
học tiếng việt (ngôn ngữ thứ hai) nếu có điều kiện thích hợp. Trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số khi học tiếng việt có những khó khăn như: Trẻ em bắt đầu học tiếng
việt trên cơ sở kinh nghiệm Thái. Môi trường giao tiếp tiếng việt của trẻ em thu
hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Trẻ
học tiếng việt chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ tiếng Thái và sự giao thoa ngôn ngữ
giữa tiếng mường và tiếng việt. Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc và sự
khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định
đối với việc học tiếng việt của trẻ em mẫu giáo vùng dân tộc thiếu số.
Vì thế việc giúp trẻ vùng dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ tiếng việt
trong giao tiếp là hết sức quan trọng và chúng ta là những người giáo viên mầm
non hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục các cháu phải làm tốt việc cho trẻ
được giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông nhằm giúp trẻ không ngừng
phát triển tư duy, trí tuệ, thể chất lẫn tinh thần hay nói một cách chung nhất đó

chính là phát triển một cách toàn diện. Như vậy giáo dục trẻ sẽ đạt được kết quả
như mong muốn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thuận lợi:
Lớp mẫu giáo A2 (5- 6 tuổi) bản thân phụ trách được đặt ở khu trung tâm
nên phạm vi giao tiếp của trẻ được mở rộng có nhiều thuận lợi trong việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường, nhiệt tình tâm
huyết bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên để từng bước nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên trong toàn trường.
Bản thân tôi là người dân tộc Thái nên khi giao tiếp với trẻ rất thuận lợi,
dễ gần gũi và trao đổi với phụ huynh người dân tộc.
Tổng số cháu là 26 cháu, phần lớn các cháu ở khu dân cư, thôn bản lân
cận.
Bản thân đã được tiếp thu chuyên đề tăng cường tiếng việt cho trẻ em vùng
dân tộc thiểu số từ năm 2012 và đến năm 2017 được tập huấn lại một lần nữa.[4]
Một số trẻ đã được đi học từ nhà trẻ nên cũng đã có một số vốn từ.
Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, thích tham gia hoạt động.
2.2.2. Khó khăn:

6


Bên cạnh những thuận lợi trên thì bản thân còn gặp không ít những khó
khăn trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ nói chung và hoạt động phát triển
giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt của trẻ nói riêng cụ thể như:
- Lớp có 26/26 cháu là người dân tộc, ngôn ngữ giao tiếp của trẻ chủ yếu
là tiếng thái, kể cả khi ở trường.
- Giáo viên dạy ở các độ tuổi bé chưa tâm huyết với việc tăng cường tiếng
việt cho trẻ .

- Giáo viên chưa biết cách xây dựng kế hoạch tăng cường tiếng việt cho trẻ
vùng dân tộc thiểu số.
- Giáo viên còn lúng túng trong việc lựa chọn các biện pháp, hình thức tổ
chức các hoạt động giáo dục tăng cường tiếng việt cho trẻ.
- Đối với trẻ mới ra lớp ngôn ngữ nói tiếng việt của trẻ còn hạn chế trẻ
chậm chạp, nhút nhát, chưa tự tin, không thích giao tiếp với mọi người xung
quanh.
- Trình độ văn hóa của các bậc cha mẹ thấp, một bộ phận không biết đọc,
biết viết nên khi ở nhà các cháu ít có cơ hội để giao tiếp với những người trong
gia đình và cộng đồng bằng tiếng việt. Nên công tác tuyên truyền cho các bậc
phụ huynh về tăng cường tiếng việt cho trẻ còn chưa đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện tốt việc giúp trẻ mẫu giáo A2 (5-6 tuổi) người dân tộc thiểu
số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt,
sáng tạo trong hoạt động chăm sóc giáo dục, tổ chức đa dạng các hình thức giúp
trẻ tích cực chủ động hoạt động khám phá lĩnh hội tri thức về phát triển ngôn
ngữ tiếng việt phổ thông một cách hệ thống phù hợp với khả năng của trẻ ở lớp.
Qua quá trình điều tra, Khảo sát thực trạng về khả năng của trẻ mẫu giáo
A2 (5-6 tuổi) người dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ
thông bằng cách trò chuyện, tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Bản
thân nhận thấy được kết quả thực trạng về khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt phổ thông của trẻ ở lớp tôi phụ trách cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát thực trạng ban đầu.
Kết quả
T.Số
Đạt
Chưa đạt
TT
Nội dung
Tổng
trẻ Tổng

%
%
số
số
1
Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc.
26 9/26
35
17/26 65
2
Nghe hiểu và làm theo 2-3 yêu 26
8/26
30
18/26
70
cầu liên tiếp bằng tiếng việt
3
Trẻ mạnh dạn tự tin diễn đạt suy 26 7/26
27
19/26
73
7


4
5

nghĩ, bằng ngôn ngữ của mình.
Trẻ hứng thú tham gia hoạt
động.

Trả lời và đặt các câu hỏi : Tại
sao? Như thế nào? Để làm gì?
Làm bằng gì? Có gì khác nhau?
Bằng ngôn ngữ tiếng việt.

26

9/26

35

17/26

65

26

6/26

23

20/26

77

Từ những kết quả khảo sát, thống kê trên đây ta có thể nhìn thấy rất rõ về
việc phát tiển ngôn ngữ tiếng việt của trẻ chưa đáp ứng được với yêu cầu giáo
dục mầm non hiện nay. Bản thân tôi đã nhận thấy việc giúp trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi người dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt là một việc làm
hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy mà tôi đã nghiên cứu và đưa ra một

số biện pháp của mình, hy vọng rằng qua những biện pháp đó giúp trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi vùng dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt tốt để trẻ có thể
được phát triển một cách toàn diện, đặc biệt tạo cơ sở vững chắc để trẻ bước vào
bậc học tiếp theo.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề:
2.3.1.Biện pháp 1: Biện pháp xây dựng môi trường tiếng việt phong phú
giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt.
- Đây là biện pháp hữu hiệu và cũng khá quan trọng trong việc giúp trẻ
vùng dân tộc thiểu số giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt, bởi vì trong biện pháp
này giáo viên muốn làm tốt công tác xây dựng môi trường tiếng việt thì phải:
Tạo được môi trường giao tiếp bằng tiếng việt và tạo được môi trường chữ viết
trong lớp học. Đây là hai môi trường rất tốt giúp trẻ lĩnh hội được vốn từ vựng
tiếng việt, từ đó giúp trẻ biết giao tiếp bằng tiếng việt phổ thông một cách tốt
nhất. Cụ thể tôi đã sử dụng biện pháp này như sau;
* Tạo môi trường giao tiếp bằng tiếng việt:
- Tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ thông qua các hoạt động ở mọi lúc
mọi nơi về những chủ đề gần gũi trong cuộc sống. Khuyến khích trẻ tham gia trò
chuyện với cô và các bạn.
Ví dụ: Trong giờ điểm danh, ngoài thời gian điểm danh gọi tên trẻ tôi sẽ dành
thêm thời gian để trò chuyện với trẻ về các lĩnh vực trong cuộc sống như: Hôm
nay các con được ai đưa đi học? (mỗi trẻ trả lời bằng câu trả lời riêng: Bố, mẹ,
ông, bà…..), Bố, mẹ các con ở nhà làm gì? ( Làm ruộng, bán hàng,…). Hoặc
trong giờ hoạt động chơi ở các góc, khi phân vai cho trẻ thì tôi cũng đóng vai
chơi cùng với trẻ, tôi đến từng góc chơi và chơi cùng trẻ, giao tiếp với trẻ: Bác
mua cái gì? Cái này bao nhiêu tiền? Hôm nay bác nấu món gì?... giúp trẻ giao
8


tiếp với cô và các bạn bằng ngôn ngữ tiếng việt thường xuyên trong mọi hoạt

động. Trong từng trường hợp tôi luôn chú ý sửa sai cho trẻ.
- Tôi luôn mở rộng và tích cực hóa các thành phần giao tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng việt với trẻ, như mời các cô giáo, các bậc phụ huynh (những người
biết tiếng việt) đến trò chuyện, giao tiếp với trẻ để tạo cơ hội cho trẻ được nghe
và nói.
Ví dụ: Trong giờ sinh hoạt nhận xét bé ngoan cuối tuần, tôi mời cô Hiệu trưởng
đến trò chuyện với trẻ. Cô Hiệu trưởng sẽ đến và hỏi thăm trẻ, trò chuyện với trẻ
một cách cởi mở, trẻ sẽ được giao tiếp trong môi trường tiếng việt, được nghe và
được nói sẽ mở rộng thêm được môi trường giao tiếp đối với trẻ.
- Tôi đã tăng cường sử dụng các phương tiện hỗ trợ như: băng đĩa, máy
tính,… để trẻ được nghe và phân biệt âm thanh từ các giọng khác nhau.
Ví dụ: Cho trẻ nghe kể chuyện trên băng đĩa, cho trẻ nghe các bài hát trên loa
đài, cho trẻ xem phim hoạt hình trên máy tính, …
- Tôi cũng đã tăng cường các hình thức mang tính chất cộng đồng, tập thể
như: chơi trò chơi, văn nghệ, tập làm lớp trưởng, … để trẻ có cơ hội để thể hiện
mình.
Ví dụ: Cho trẻ tập làm lớp trưởng, khi lên làm lớp trưởng thì trẻ phải nói to, rõ
ràng và điều hành được cả lớp trong một số hoạt động như: hô cả lớp đứng
nghiêm, cho cả lớp chơi trò chơi. Gọi 1-2 trẻ mạnh dạn lên trước sau đó khuyến
khích những trẻ khác lên để được thể hiện mình giống bạn.
* Tạo môi trường chữ viết trong lớp học: Đây là biện pháp giúp trẻ làm
quen với chữ viết tiếng việt, làm tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ tiếng việt
phổ thông sau này.[5]
- Ở trong lớp tôi đã tăng cường các phương tiện, đồ vật xuất hiện chữ
như: Các góc chơi, các đồ dùng dạy học, các danh sách biểu bảng,… đều có chữ
để trẻ được làm quen.
Ví dụ: Ở các góc lớp tôi đã sắp xếp các góc chơi và mỗi góc chơi đều có tên gọi
như góc văn học thì tôi đặt tên là: Bé kể chuyện sáng tạo.
Góc âm nhạc tôi đặt tên là: Ca sĩ tí hon.
Góc xây dựng tôi đặt tên là: Bé yêu xây dựng,

Góc học tập thì có tên là: Ai thông minh nhanh trí.
Góc nấu ăn tôi đặt tên là: Đầu bếp nhí.,…
Tất cả những tên của các góc đó tôi đều viết bằng chữ cái in thường để
cho các cháu dễ nhận biết chữ và đễ tiếp xúc hơn trong quá trình học tập.
- Tăng cường cho trẻ được tiếp xúc với chữ như “đọc” sách truyện tranh,
“đọc” họa báo, làm quen với các hoạt động “viết” như viết tên mình khi tập tô,

9


- Khi sử dụng biện pháp này tôi nhận thấy trẻ rất tiến bộ và thích giao tiếp
bằng ngôn ngữ tiếng việt hơn.
2.3.2.Biện pháp 2: Rèn kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt cho
trẻ ở mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi.[6]
Đây là biện pháp rất tốt để trẻ học được các từ tiếng việt. Trong chương
trình hoạt động một ngày trên lớp của trẻ thì đối với nơi có nhiều người dân tộc
thiểu số sinh sống thì chương trình hoạt động một ngày của trẻ ngoài các hoạt
động chính khác như: Đón trẻ, chơi tự chọn, thể dục sáng, hoạt động học, hoạt
động ở các góc chơi, …. Thì còn có một hoạt động nữa khá quan trong trong
việc cung cấp tiếng việt cho trẻ giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt tốt
hơn đó chính là hoạt động “làm quen tiếng việt” sau hoạt động chơi ngoài trời.
Đó là sự nghiên cứu rất sát thực với thực tế địa phương nên sở GD&ĐT đã đưa
vào chương trình hoạt động một ngày của trẻ nhằm mục đích giúp giáo viên
mầm non sẽ cung cấp cho học sinh vùng dân tộc thiểu số những từ vựng tiếng
việt cơ bản để giúp cho quá trình giao tiếp của trẻ vùng dân tộc thiểu số nhanh
chóng hòa nhập với ngôn ngữ tiếng việt phổ thông.
Dựa trên cơ sở đó và đây cũng là một cơ hội để tôi đưa ra biện pháp dạy
trẻ học từ vựng tiếng việt giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt tốt hơn.
Trong hoạt động chung:
Ví dụ:

- Trong chủ đề “Trường mầm non”, đầu tuần thứ hai tôi sẽ chọn các từ:
“Con chào cô ạ”, “Tôi chào bạn”, “Hôm nay con đi học” để dạy cho trẻ. Trên cơ
sở những từ có kế hoạch dạy trẻ để trẻ được mở rộng một số từ khác đa dạng
hơn.
- Mục đích của việc cho trẻ làm quen với các câu này là giúp trẻ nghe,
hiểu và nói các câu đơn giản một cách rõ ràng. Tôi cho trẻ xem tranh, chỉ vào
tranh vẽ trẻ đang chào cô và hỏi: Tranh vẽ gì đây các con? Trẻ trả lời là: Bạn
đang chào cô. Vậy các con có biết chào cô như thế nào không? Trẻ trả lời: Con
chào cô ạ!
- Cho trẻ nhắc lại “ Con chào cô ạ”
- Cho tổ, nhóm, cá nhân nhắc lại.
- Cô đứng trước mặt 1 trẻ và nói: Tôi chào bạn!
- Cho trẻ nhắc lại “Tôi chào bạn”
- Cho trẻ lần lượt chào nhau.
+ Cô hỏi: Con chào bạn như thế nào? Trẻ trả lời: Tôi chào bạn!
- cho trẻ trả lời và nhắc lại nhiều lần.
- Tôi chỉ vào tranh khác và hỏi: Các bạn đi đâu? Trẻ trả lời: Các bạn đang đi học
- Tôi lại hỏi: Còn con hôm nay đi đâu? Trẻ trả lời: Hôm nay con đi học.
- Cho tổ, nhóm, cá nhân trẻ nhắc lại nhiều lần.
10


Với biện pháp này giáo viên có thể xây dựng được rất nhiều vốn từ vựng
tiếng việt mới cho trẻ làm quen và học. Mỗi ngày cho trẻ làm quen và học được
từ mới rồi phát triển lên thành câu mới, ngoài ra trẻ còn được làm quen với một
số từ khác như: Các bạn đang đi học, bạn đang chào cô,…. Như vậy xuyên suốt
quá trình học trên lớp trẻ sẽ có cơ hội học được khá nhiều vốn từ tiếng việt mà
giáo viên giảng dạy. Vì vậy khi dùng biện pháp này tôi nhận thấy đây là một cơ
hội giúp tôi có biện pháp giúp các cháu phát triển ngôn ngữ tiếng việt để có thể
giao tiếp một cách thành thạo tiếng việt.

Hoạt động đón, trả trẻ: Cô Luôn động viên và nhắc trẻ tràocô giáo, bố
mẹ và những người xung quanh, hỏi trẻ ai đưa con đi học, hôm nay ai đón con
( để kích thích trẻ nói tiếng phổ thông.)
Hoạt động góc: Khi trẻ chơi ở các nhánh như gia đình, bán hàng. Cô cho
trẻ chơi giao lưu các góc với nhau và luôn nhắc trẻ nói tiếng phổ thông, luôn chú
ý phiên tiếng cho trẻ.
Ví dụ : Cô hỏi đến bên trẻ hỏi con đang làm gì thế, cháu Dung trả lời con
đang ủm nọng cô nhắc lại tiếng phổ thông con nói lại là con đang bế em, cô cho
trẻ nhắc lại.
Hoạt động ngoài trời: Trẻ đang hứng thú tham gia qua sát ngôi nhà sàn
cô nhìn thấy cháu Loan đang không tập chung cô hỏi trẻ cháu sao vậy, cháu
Loan trả lời cháu nhớ nọng, cô nhắc trẻ nói lại là cháu nhớ em bằng tiếng phổ
thông .
Hoạt động chơi (chiều ) : Các trẻ đang tham gia chơi trong nhà bóng thì
cháu Anh, Nam, Quân, Bằng đã tung những quả bóng bị rơi ra ngoài ngay lúc đó
có em lớp bé đi qua các cháu liền gọi nọng ơi lấy quả bóng cho anh với. Tôi đến
bên va nhắc trẻ phải nói là em ơi lấy quả bóng cho anh với và cho trẻ nhắc lại.
Khi trẻ vào lớp cô nhắc trẻ từ tiếng thái chúng ta nói nọng nhưng các con nói
chuyện phải với nhau phải nói là em bằng tiếng phổ thông. Các con nhắc lại
- Đây là biện pháp yêu cầu giáo viên luôn luôn phải quan sát và để ý đến
trẻ. Nghĩa là trong mọi hoạt động của trẻ cô giáo đều phải chú ý quan tâm, nhắc
nhở trẻ thường xuyên và rèn cho trẻ có thói quen giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng
việt, tránh để trẻ giao tiếp lạm dụng bằng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ với nhau. Khi
đó giáo viên có thể sửa sai cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi và ở mọi hoạt động.
Ví dụ: Khi thấy các cháu giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
tôi sẽ nhắc nhở trẻ để trẻ nhận thấy việc giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ
thông là việc cần thiết: Các con phải nói chuyện với nhau bằng tiếng việt vì khi
các con đi ra ngoài xã hội các con phải nói bằng tiếng việt phổ thông thì tất cả
mọi người mới hiểu các con nói cái gì và muốn cái gì. Nếu các con nói chuyện
với nhau bằng tiếng dân tộc (tiếng mẹ đẻ) thì chỉ có những người dân tộc của

các con mới hiểu, những người có dân tộc khác sẽ không hiểu được và họ sẽ
11


không giúp gì cho các con được. Chính vì thế các con phải học nói chuyện với
nhau bằng tiếng việt cho quen đi để sau này chúng ta giao tiếp dễ dàng hơn.
- Tôi luôn chú ý lắng nghe trẻ phát âm và sửa sai cho trẻ ở mọi lúc mọi
nơi.
Ví dụ: Khi thấy cháu Hà bị xước ở mặt tôi đã hỏi: Sao con lại bị xước ở
mặt vậy? cháu Hà trả lời rất hồn nhiên: Con bị “lùm” ở nhà. “Lùm” ở đây là
tiếng thái theo ngôn ngữ mẹ đẻ của cháu Hà. Tôi đã kịp thời sửa sai cho cháu
bằng cách giải thích cho cháu hiểu “lùm” là khi con nói bằng tiếng thái còn khi
con nói bằng tiếng việt thì con phải nói là “ngã”. Con phải nói là “Con bị ngã ở
nhà”.
Trong một tiết học vẽ, các cháu vẽ theo ý thích thì cháu Nhật đang vẽ con
Tôm, cháu Hồng bên cạnh khi thấy tôi đi lại gần thì đã nói: Cô ơi bạn Nhật đang
vẽ “tố cũng ”. Từ đó tôi đã sửa sai cho cháu cũng bằng cách giải thích: Con nói
“tố cũng” là nói bằng tiếng Thái, khi con nói bằng tiếng việt thì con phải nói là
“con tôm” vì “tố cũng” trong tiếng dân tộc là “con tôm” trong tiếng việt. Cho
cháu nói lại từ con tôm.
- Các cháu vùng dân tộc thiểu số phát âm và giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng thái rất là hồn nhiên và bột phát, chính vì thế ở mọi hoạt động các cháu
thích giao tiếp với nhau cho dễ hiểu và dễ chơi với nhau hơn. Do đó dần dần trở
thành thói quen ngay cả khi các cháu đang ngồi trong lớp học, đang chơi với
nhau ngoài xã hội. Chính vì thế giáo viên cần phải quan tâm để ý đến các cháu
học sinh của mình ở mọi lúc mọi nơi, luôn phải nhắc nhở trẻ một cách kịp thời
trong mọi tình huống, sửa sai và hướng dẫn cho trẻ dần dần trẻ sẽ nhận thức
được và trở thành thói quen tốt trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt..
Khi vốn từ tiếng việt của trẻ được tăng lên thì tôi dùng Biện pháp tạo hình
thức thi đua ở mọi lúc mọi nơi. Lứa tuổi của trẻ đang còn rất ngây thơ và trong

sáng, nhưng trẻ lại rất thích được thể hiện mình trước các bạn và các cô, chính vì
thế tôi luôn tạo ra môi trường thi đua cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi để cho trẻ thể
hiện khả năng của mình. Trên yêu cầu của cô là phải giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt.
Ví dụ: Giờ tập làm lớp trưởng: Tôi cho cả lớp thi đua nhau ai hô tốt, nhớ
trò chơi nhất thì được cắm cờ, thưởng kẹo, …. Các cháu rất hào hứng và ai cũng
muốn được thưởng nên các cháu lên thể hiện mình rất tốt. Ớ các giờ hoạt động
khác cũng vậy, như giờ học bài: Tôi khuyến khích trẻ giơ tay phát biểu ý kiến,
khi đúng lên phát biểu ý kiến thì phải nói to, rõ ràng và nói đầy đủ câu,… ai làm
được như vậy thì tôi sẽ thưởng cắm cờ, bánh, kẹo,… các cháu rất thích và thi
đua nhau phát biểu để nhận thưởng.

12


Ở bất cứ thời điểm nào tôi cũng đều tạo hình thức thi đua để cho trẻ thi
đua nhau, biện pháp này áp dụng rất tốt giúp trẻ có khả năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng việt một cách có hiệu quả.
-> Khi sử dụng biện pháp này đối với các cháu lớp tôi, tôi nhận thấy nó có ý
nghĩa sát thực và các cháu có tiến bộ rõ rệt trong việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt phổ thông.
2.3.3. Biện pháp 3: Dùng phương pháp sử dụng tiếng mẹ đẻ (tiếng thái
) để dạy tiếng việt cho trẻ giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt tốt hơn.
Đây là biện pháp đầu tiên tạo sự mạnh dạn, tự tin cho trẻ khi đến lớp. Tôi
đã tạo cơ hội cho trẻ “nói,nói và nói”bằng tiếng mẹ đẻ(tiếng thái) với các bạn
trong lớp, với các bạn trong trường và mọi người xung quanh. Các chủ đề nói
chuyện là những công việc, hoạt động diễn ra hàng ngày xung quanh trẻ như:
Cách chào hỏi khi gặp người lớn, hàng ngày bố mẹ làm gì? Bản thân làm gì khi
ở nhà, ở nhà có những con vật gì, cây cối xung quanh, thời tiết thế nào,…. Trong
quá trình nhận thức, khi được sử dụng tiếng thái , trẻ sẽ biết nhanh và chính xác

hơn bản chất của các sự vật và hiện tượng, bởi vì trẻ hiểu được nghĩa trước khi
học một khái niệm mới. Do vậy tôi đã đưa ra các chủ đề để hướng dẫn trò
chuyện với trẻ bằng các loại câu hỏi mở để giúp trẻ lĩnh hội tốt và nhanh chóng
hơn. Tuy nhiên khi sử dụng biện pháp này tuyệt đối giáo viên không được lạm
dụng quá nhiều tiếng mường để giao tiếp với trẻ mà cần phải nhận thức rõ: Chỉ
dạy trẻ giao tiếp trong những trường hợp đặc biệt như: trẻ chưa hiểu, trẻ không
cảm nhận được khi giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt vì quá khó. Khi đó thì
giáo viên được phép sử dụng tiếng thái để dạy cho trẻ chứ không có nghĩa là lạm
dụng tiếng thái để giao tiếp với trẻ.
Ví dụ 1: Khi trò chuyện với trẻ về chủ đề bản thân: nhánh cơ thể tôi. Tôi sẽ
dùng hệ thống câu hỏi kích thích trẻ tìm kiếm và khám phá về bản chất của các
bộ phận trên cơ thể. Tôi sẽ dùng tiếng mẹ đẻ để giải thích các câu hỏi cho trẻ,
cho trẻ trả lời bằng tiếng mẹ đẻ sau đó tôi hỏi lại bằng tiếng việt phổ thông và
cho trẻ trả lời bằng ngôn ngữ tiếng việt
+ Đây là cái gì? Trẻ trả lời: Đây là cái tay ạ, đây là cái chân ạ,…
+ Tay để làm gì? Trẻ sẽ trả lời: Tay để cầm, để nắm ạ, …)
+ Các con phải làm gì để bảo vệ đôi tay? Trẻ trả lời: Phải giữ vệ sinh sạch
sẽ và rửa tay hàng ngày ạ!,..
- Câu hỏi giúp trẻ giải thích, suy đoán, phỏng đoán diễn biến :
+ Tại sao chúng ta phải bảo vệ đôi tay?
+ Điều gì sẽ sảy ra khi không có đôi tay trên cơ thể?
- Câu hỏi giúp trẻ đánh giá đối tượng mà trẻ nhận thức:
+ Theo con tay dùng để nghịch đất, nghịch bẩn là tốt hay xấu? vì sao?
Ví dụ 2:
13


- Cho trẻ nghe và kể lại các câu chuyện, bài thơ, bài hát trong chương
trình. Tôi cũng là một người sinh ra và lớn lên ở vùng dân tộc thiểu số nên dễ
dàng tiếp cận được tiếng nói của các cháu, chính vì thế trước tiên tôi đã tóm tắt

lại nội dung câu chuyện, bài thơ, bài hát cho trẻ hiểu bằng tiếng mẹ đẻ sau đó tôi
nói lại cho trẻ nghe và kể lại bằng tiếng việt. (nếu giáo viên không biết tiếng dân
tộc thiểu số thì có thể nhờ giáo viên khác biết tiếng hoặc phụ huynh học sinh hỗ
trợ cho mình). Sau đó cho trẻ kể lại, đọc lại và hát lại bằng tiếng việt phổ thông,
tôi sẽ chú ý lắng nghe và sửa sai cho trẻ.
Ví dụ 3: Dạy cho trẻ hát bài hát “Cái mũi” trong chủ đề bản thân. Trước
tiên tôi hát cho trẻ nghe, sau đó thay vì việc giảng nội dung bằng ngôn ngữ tiếng
việt trước tôi tóm tắt nội dung bằng tiếng mẹ đẻ của các cháu cho các cháu hiểu
nội dung bài hát rồi mới tiếp tục hát và giảng nội dung để đàm thoại với các
cháu. Và khi đàm thoại về nội dung bài hát Cái mũi tôi cũng phải dùng tiếng mẹ
đẻ để giải thích câu hỏi trước cho trẻ nắm được sau đó trẻ sẽ trả lời và tôi chú ý
sửa sai cho trẻ.
-> Dùng biện pháp này tôi nhận thấy các cháu lĩnh hội được kiến thức rất nhanh
và giao tiếp bằng tiếng việt cũng được phát triển lên một cách rõ rệt.
2.3.4. Biện pháp 4: Sử dụng các trò chơi để giúp trẻ hứng thú giao tiếp
bằng tiếng việt phổ thông.[3]
Nắm được tâm lí của trẻ là học mà chơi và chơi mà học luôn mang lại
hứng thú cho trẻ, chính vì thế tôi dùng biện pháp sử dụng các trò chơi để giúp
trẻ giao tiếp bằng tiếng việt. Có rất nhiều các trò chơi trong chương trình được
tôi áp dụng như: Trò chơi học tập, trò chơi vận động, trò chơi âm nhạc, trò chơi
với chữ cái,… Cách phổ biến luật chơi và cách chơi mà cô đưa ra phải xúc tích
và dễ hiểu, không quá lan man khiến trẻ khó hiểu và không hiểu. Trong trường
hợp cách chơi và luật chơi quá khó khi tiếp thu bằng tiếng việt thì cô giáo phải
giải thích bằng tiếng dân tộc thiểu số giúp trẻ hiểu sau đó mới chuyển sang sử
dụng tiếng việt và cho trẻ chơi trên cơ sở hoàn toàn bằng ngôn ngữ tiếng việt.
Trong chương trình dành cho lứa tuổi 5- 6 tuổi có rất nhiều các trò chơi bổ ích ví
dụ như quyển “Tuyển tập những trò chơi, câu đố, thơ, truyện, hát theo chủ đề
dành cho trẻ 5- 6 tuổi” chẳng hạn, có khá nhiều trò chơi theo từng chủ đề là
những trò chơi học tập, trò chơi vận động.. Tất cả những trò chơi đó đều có thể
sử dụng để cung cấp ngôn ngữ tiếng việt cho các cháu. Ngoài ra tôi còn có thể

sưu tầm thêm các trò chơi khác ngoài chương trình mà phù hợp với lứa tuổi và
nhận thức của các cháu để cho các cháu chơi nhằm mục đích giúp các cháu phát
triển được ngôn ngữ tiếng việt để có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt một
cách lưu loát.
Ví dụ 1:
14


- Cho trẻ chơi trò chơi “Thi xem ai nói đúng” trong chủ đề thực vật. Cách
chơi trò chơi này là khi trẻ nhận được các lô tô hình ảnh từ cô đưa sang thì trẻ
phải nói được tên loại thực vật và đặc diểm của chúng. Mục đích của trò chơi là
củng cố vốn từ cho trẻ, rèn trí nhớ và khả năng nhanh nhạy của trẻ. Cụ thể như
sau:
+ Đưa lô tô hình ảnh cho cháu Hương và nói: + “Cà rốt”, cháu Hương trả
lời: “Củ cà rốt màu cam”.
+ Đưa lô tô hình ảnh cho cháu Nguyên và nói: “ Hoa Hồng”, cháu
Nguyên trả lời: “Hoa hồng có gai mùi thơm”.
+ Đưa lô tô hình ảnh cho cháu Hà và nói: “ Cà chua”, cháu Hà trả lời: “
Quả cà chua màu đỏ”.
+ Đưa lô tô hình ảnh cho cháu Khang và nói: “Hoa cúc”, cháu Khang trả
lời: “Hoa cúc màu vàng, mùi thơm”…
- Sau đó tôi sẽ yêu cầu ngược lại với trẻ. Tôi nói hoa, quả thì trẻ phải kể
được tên một số loại hoa, quả mà trẻ được biết.
Ví dụ 2:
- Cho trẻ chơi trò chơi vận động “Tung bóng”, Mục đích của trò chơi là
phát triển cơ bắp, rèn luyện sự khéo léo. Bổ trợ phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cho
trẻ đứng thành một vòng tròn. Một trẻ cầm bóng tung cho bạn đứng đối diện
mình. Bạn bắt xong lại tung cho bạn khác đối diện mình. Yêu cầu trẻ phải chú ý
bắt bóng không bị rơi, vừa tung bóng vừa đọc, mỗi nhịp tung cho bạn đọc một
câu:

Quả bóng con con
Quả bóng con con
Quả bóng tròn tròn
Quả bóng tròn tròn
Em tung bạn đỡ
Bạn tung em đỡ
Tung cao cao nữa
Tung cao cao nữa
Bạn bắt rất tài
Em bắt rất tài
Cô bảo cả hai
Chúng em đều giỏi.
Ví dụ 3:
- Cho trẻ chơi trò chơi “Nghe tiếng hát đoán tên bạn hát”. Mục đích của
trò chơi là phát triển khả năng nghe và trí nhớ của trẻ. Qua đó giúp trẻ có cơ hội
phát triển ngôn ngữ, khả năng giao tiếp. Cách chơi là: Gọi từng trẻ lên chơi, cho
trẻ đội mũ chóp kín. Gọi một trẻ bất kì ngồi ở dưới hát một bài hát. Sau đó mời
trẻ chơi lấy mũ chóp kín ra và đoán tên bạn nào vừa hát.
-> Dùng biện pháp này trong việc giúp trẻ lớp tôi biết giao tiếp bằng ngôn ngữ
tiếng việt rất là tốt. Bởi trong mỗi trò chơi tôi đưa ra thì trẻ rất hứng thú tham gia
và đạt được yêu cầu của tôi. Các cháu rất thích và biết sử dụng bằng ngôn ngữ
tiếng việt trong giao tiếp.
15


2.3.5.Biện pháp 5: Sử dụng biện pháp luyện tập theo mẫu và luyện từ
khó giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông.
Đây là biện pháp mà tôi cần luyện tập cho trẻ được thực hành theo mẫu.
Khi có mẫu trẻ dễ bắt chước và dần dần trở thành vốn kiến thức riêng trong nhận
thức của trẻ. Sau đó sẽ cho trẻ học những từ khó hơn để luyện từ khó cho trẻ.

Biện pháp này tôi sử dụng 3 bước cụ thể như sau:
- Bước 1: Giới thiệu câu mẫu. Tôi nói và làm động tác hoặc chỉ vào đồ
vật thật, tranh ảnh.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen với các đồ dùng học tập tôi nói: Đây là quyển vở
( Chỉ tay vào quyển vở). Đây là cái bút chì (Chỉ tay vào cái bút chì). Đây là cái
thước (Chỉ tay vào cái thước)….
- Bước 2: Gọi 2-3 trẻ thực hành mẫu, tôi chú ý sửa sai cho trẻ. Sau đó cho
cả lớp thực hành theo nhóm (nhắc lại nhiều lần). Tôi chú ý sửa phát âm cho trẻ.
Ví dụ: Tôi gọi lần lượt cháu Chiến, Dung lên và cháu Loan, Ngọc cũng
bắt chước cô chỉ tay vào quyển vở và nói: Đây là quyển vở. Chỉ tay vào cái bút
và nói: Đây là cái bút chì,…
- Bước 3: Tôi hỏi trẻ để trẻ đáp lại bằng câu mẫu.
Ví dụ: Tôi chỉ tay vào quyển vở và hỏi: Đây là cái gì? Trẻ sẽ hỏi nhau và
đáp lại bằng câu mẫu: Đây là quyển vở. Tương tự đối với cái thước và cái bút
chì.
- Bước 4: Thực hành sử dụng câu mẫu: Tôi tổ chức các trò chơi, tạo tình
huống giao tiếp (ngữ cảnh) để trẻ thực hành sử dụng câu mẫu vừa được học.
Ví dụ: Tôi tạo tình huống cho cả lớp đi siêu thị mua sắm đồ dùng học
tập. Ở trên bàn tôi để rất nhiều đồ dùng như đã chuẩn bị câu mẫu. Cho trẻ đi đến
đó và mua hàng với nhau. Tôi đóng vai người bán hàng và hỏi trẻ những câu hỏi
như: Cháu muốn mua cái gì? Tôi chỉ tay vào các đồ dùng và hỏi: Đây là cái gì?
Trẻ sẽ trả lời bằng câu mẫu vừa học: Đây là cái bút chì, …
- Bước 5: Luyện từ khó cho trẻ. Khi trẻ có vốn từ vựng tiếng việt nhiều
hơn thì tôi sẽ phát triển hơn các mẫu câu khác. Ví dụ: Cô vừa mua cái bút chì.
Bạn Nguyên mới được cô tặng cho quyển vở. … để trẻ có cơ hội sử dụng các
mẫu câu khác nhau. Dần dần tôi dạy trẻ câu có nhiều thành phần như: Mẹ mua
cho Nguyên quyển sách, cái bút chì và cái thước. Hoặc câu khó hơn như: Con có
một quyển sách, một cái bút chì và một cái thước
-> Khi sử dụng biện pháp này tôi nhận thấy vốn từ vựng tiếng việt của trẻ được
nâng cao, từ đó giúp trẻ giao tiếp bằng tiếng việt tốt hơn.

2.3.6.Biện Pháp 6: Biện pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội để giúp trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông.
- Đây là ba môi trường hoạt động của trẻ diễn ra hàng ngày. Khi ở trường
thì cô giáo quan tâm, rèn luyện, cung cấp cho trẻ những kiến thức, trẻ tiếp thu
16


lĩnh hội và phản ánh lại ở mọi hoạt động. Chính vì thế cô giáo phải phối hợp với
gia đình, với phụ huynh để phụ huynh nắm được những gì trẻ đã học được và
khi về nhà có thể củng cố lại cho trẻ, và cũng giúp gia đình hiểu rõ việc nâng
cao chất lượng giao tiếp cho trẻ bằng ngôn ngữ tiếng việt là rất cần thiết. Để khi
ra xã hội đây là một môi trường để trẻ trải nghiệm rõ rệt nhất kiến thức mà mình
được học.
- Muốn làm tốt biện pháp này mỗi giáo viên mầm non phải làm tốt được
công tác xã hội hóa giáo dục, phải thông qua nhiều hình thức như: Tôi xây góc
tuyên truyền với phụ huynh về những nội dung, kiến thức cần chăm sóc giáo dục
trẻ để dễ trao đổi và phối hợp một cách kịp thời giúp cho trẻ ngày càng phát
triển.
Ví dụ: Ở trên lớp tôi đã làm một góc “phụ huynh cần biết” trong đó tôi có
ghi mọi thông tin của trẻ, các chuyên đề cần trao đổi, thay đổi các chủ đề để phụ
huynh tiện thể nắm bắt được. Hàng ngày thông qua giờ đón trẻ, trả trẻ tôi cũng
thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ, tuyên truyền với phụ
huynh về việc nâng cao chất lượng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ.
Hạn chế việc trao đổi bằng tiếng mường khi đến trường, ra xã hội và ngay cả
trong sinh hoạt gia đình.
Ngoài ra tôi còn tổ chức các giờ dạy và mời phụ huynh đến dự để phụ
huynh có kiến thức về cách dạy trẻ giao tiếp bằng tiếng việt ở gia đình. Những
buổi hoạt động ngoại khóa của lớp, của trường như các ngày tổ chức văn nghệ,
tọa đàm tôi cũng đều mời phụ hynh đến dự.
Tôi luôn quan tâm đến vấn đề tuyên truyền với phụ huynh khi ở gia đình

thì cũng phải giao tiếp với các cháu bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông để các
cháu có thói quen tốt.
Ví dụ: Phụ huynh trò chuyện với trẻ trong các bữa ăn hàng ngày ở nhà,
các giờ chơi và đi chơi cùng gia đình,…
Ví dụ: tiếng thái: nặm = nước, nặm lai = nước bọt....
( Những gì trẻ nói bằng tiếng dân tộc thì phụ huynh phải sửa ngay cho trẻ bằng
tiếng việt phổ thông ). Khi phụ huynh đưa trẻ đến lớp giáo viên đón trẻ cần trao
đổi với phụ huynh xem ở nhà cháu đã nói được bằng tiếng việt chưa? Hoặc hỏi
trẻ hôm qua ở nhà con đã được bố mẹ đưa đi đâu, và mua được những gì?...để
trẻ trả lời và từ đó giáo viên nắm được vốn từ tiếng việt của trẻ có phát triển hơn
chưa để có hướng điều chỉnh giáo dục.
-> Tôi nhận thấy sự phối hợp này rất là tốt, phụ huynh cũng rất sẵn sàng giúp đỡ
và tạo điều kiện giúp con em mình học tập và hạn chế được nhiều hình thức giao
tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, thay vào đó sự giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt của trẻ
ngày một phát triển.
17


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
* Đối Với hoạt động giáo dục:
Đến nay đã có 100% cháu nhận biết nhanh và phát âm đúng 29 chữ cái
Tiếng việt. 100% cháu biết cách tô các nét cơ bản và tô đúng quy trình . 100%
cháu hiểu được ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng ngôn ngữ Tiếng việt để diễn đạt
thành câu có nghĩa, trẻ nói lưu loát bằng ngôn ngữ Tiếng việt. Ngoài việc học trẻ
đã mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với cô giáo, với bạn bè lúc ở nhà cũng như lúc ở
trường.
Sau khi áp dụng các biện pháp để tăng cường tiếng việt cho trẻ tôi đã thu
được kết quả như sau:
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:

Kết quả
T.Số
Đạt
Chưa đạt
TT
Nội dung
Tổng
trẻ Tổng
%
%
số
số
1
Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc.
26
26/26 100
0/26
100
2
Nghe hiểu và làm theo 2-3 yêu 26
26/26 100
0/26
100
cầu liên tiếp bằng tiếng việt
3
Trẻ mạnh dạn tự tin diễn đạt suy 26
25/26
96
1/26
4

nghĩ, bằng ngôn ngữ của mình.
4
Trẻ hứng thú tham gia hoạt 26
26/26 100
0/26
100
động.
5
Trả lời và đặt các câu hỏi : Tại 26
sao? Như thế nào? Để làm gì?
25/26
96
1/26
4
Làm bằng gì? Có gì khác nhau?
Bằng ngôn ngữ tiếng việt.
* Đối với bản thân:
Sau khi xây dựng được những biện pháp giúp trẻ 5- 6 tuổi người dân tộc
thiểu số biết giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông như trên, tôi đã tiến
hành thực nghiệm một số biện pháp đó trên trẻ lớp A2 (5-6 tuổi) trường mầm
non Kỳ Tân mà tôi phụ trách. Bản thân tôi vô cùng vui sướng và lấy làm hạnh
phúc trước kết quả đáng ngờ. Tuy gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình
nghiên cứu và áp dụng những biện pháp này trên trẻ nhưng kết quả mong đợi đã
đem lại niềm vui cho tôi và làm cho tôi có một hướng phấn đấu, niềm tin vào
tương lai và hoàn toàn yên tâm trong sự nghiệp “Trồng người”.
* Đối với đồng nghiệp:

18



Giúp giáo viên nhận thức đúng đắn hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ dân
tộc thiểu số bậc học mầm non. Trẻ biết thêm được một ngôn ngữ mới, nhằm
giúp trẻ tự tin khi giao tiếp với mọi người xung quanh. Từ đó trẻ tham gia vào
các hoạt động một cách hứng thú. Tạo cơ hội mở rộng được tầm nhìn và kiến
thức cho trẻ bước vào bậc học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
* Đối với nhà trường:
Việc áp dụng những biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số
biết giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng việt phổ thông như trên làm cho chất lượng
chăm sóc – giáo dục được nâng lên rõ rệt, từ đó góp phần nâng cao chất lượng
đại trà của nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ giữ một vai trò to lớn trong sự phát triển trí
thức của trẻ, nó là phương tiện phát triển tư duy, và là công cụ hoạt động trí tuệ.
Chính vì thế mọi đứa trẻ khi mới sinh ra và cho đến khi lớn lên, dù là dân tộc
nào, quốc tịch nào đi chăng nữa thì cũng phải được quan tâm chăm sóc giống
nhau, đặc biệt là đối với những trẻ em ở nơi đặc biệt khó khăn như ở các vùng
dân tộc thiểu số ít người, nơi mà xã hội chưa được quan tâm phát triển thì càng
phải chú ý tạo điều kiện cho các cháu có một điều kiện tốt nhất để cùng phát
triển. Với tầm quan trọng đó nên giáo viên mầm non phải là người chủ động
thường xuyên tiến hành việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Chính vì thế người giáo viên mầm non muốn đạt được những kết quả như
mong muốn thì cần: Phải phát âm thật chuẩn tiếng việt phổ thông, trang bị cho
mình những kiến thức về Tiếng việt thực hành, những lí luận cơ bản, hiện đại, hệ
thống và thiết thực về những thành tựu cơ bản, hiện đại về phát triển ngôn ngữ
của trẻ. Cô giáo cần có lòng nhiệt tình, thương yêu luôn quan tâm và gần gũi với
trẻ. Cần phát huy, sáng tạo các nội dung để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Luôn
học hỏi, nghiên cứu các tài liệu về phát triển ngôn ngữ cho trẻ để có một kiến
thức thiết thực nhất nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, giao tiếp mạch lạc, tự tin.
Trong thời gian tới nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

phối hợp với phụ huynh học sinh, đổi mới các biện pháp thực hiện trong công
tác phối hợp giữa 2 bên để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm
sóc giáo dục toàn diện theo hướng chất lượng và bền vững.
3.2. Kiến nghị:
- Đề nghị BGH nhà trường tích cực tham mưu với Phòng Giáo dục và các
cấp lãnh đạo trang cấp đồ dùng, đồ chơi trong lớp và đồ chơi ngoài trời để nhà
trường vơi bớt những khó khăn trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.

19


- Tổ chức hội thảo sáng kiến kinh nghiệm và chọn những sáng kiến kinh
nghiệm hay đã được vận dụng vào thực tế để giáo viên các trường được học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân đã lựa chọn để nghiên
cứu. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài bản thân không tránh khỏi
những hạn chế thiếu sót. Chính vì vậy mà tôi rất mong nhận được sự quan tâm
đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, cùng bạn bè đồng nghiệp để những giải
pháp trong đề tài sáng kiến của bản thân được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Bá Thước, ngày 04 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác
NGƯỜI VIẾT

Lê Thị Quyết


TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


1.Trần Thị Hạnh.GV trường mầm non Nậm Loỏng, Lai châu"Một số biện pháp
phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm
Loỏng".SKKN Năm 2013-2014
2.“Lý luận và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em” Nhà xuất bản Đại
học Huế năm 2013
3.“Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 – 6 tuổi”. Đại học Sư phạm
Hà Nội 2008
4.“Nghiên cứu khoa học công nghệ giáo dục mầm non”. Bộ giáo dục và đào tạo
5.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
6.Cổng thông tin điện tử: - mamnon.com.vn
- giao an violet.com.vn

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC CÁC CẤP CÔNG NHẬN
21


Họ và tên tác giả: Lê Thị Quyết
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường mầm non Kỳ Tân.
Kết quả
Cấp đánh giá xếp
Năm đánh
TT Tên đề tài SKKN
đánh giá
loại

giá xếp loại
xếp loại
1
Một số biện pháp hướng Hội đồng khoa học
dẫn cho trẻ mẫu giáo
Huyện Bá Thước
4-5 tuổi hình thành khả
C
2015-2016
năng tự nhận thức bản
thân.

22



×