Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài tập học kỳ hành chính 7 điểm nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước và đưa ra một số đánh giá về việc vận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101 KB, 10 trang )

Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

A, Mở đầu:
Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được
tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan
trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực
hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Nội dung bài
viết xin được đề cập đến nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính nhà nước và đưa ra một số đánh giá về việc vận dụng nguyên tắc này trong
quản lý hành chính nhà nước hiện nay.

B, Nội dung:
I, Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước:
Quản lý hành chính nhà nước được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.
Đây chính là những tư tưởng chủ đạo trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản
lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh lực đã
được phân công. Dưới góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính
nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng
chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước 1. Các
nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước thường được phân thành 2 nhóm:
- Các nguyên tắc chính trị - xã hội: là các nguyên tắc chung, quán triệt trong toàn bộ tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đó có hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, gồm 5 nguyên tắc cơ bản:
+ Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước
+ Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

1


Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, 2009

Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 1


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

- Các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật: những nguyên tắc mang tính đặc thù cho hoạt động
quản lý hành chính nhà nước; nội dung của nó chi phối các yếu tố mang tính chất kĩ thuật
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hai nguyên tắc cơ bản trong nhóm này:
+ Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương
+ Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản
lý liên ngành
II, Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà
nước:
1. Cơ sở hình thành:
Chủ nghĩa Mác Lê-ninh cũng như thực tiễn lịch sử của đất nước ta đã khẳng định
“nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước”. Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được Nhà nước ta ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự góp vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý của
Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện quyền lực
của mình. Nó là một tổ chức được lập ra nhằm phát huy tài năng, sức lực của người lao
động trong việc gánh vác các công việc của Nhà nước và xã hội nhằm phục vụ lợi ích của
họ. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001): “Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”
Cơ sở pháp lý của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia và quản lý hành chính nhà

nước được quy định trong Hiến pháp - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Cụ thể, Nhà
nước ghi nhận và đảm bảo cho nhân dân lao động khả năng tham gia vào quản lý hành
chính nhà nước: Điều 3 hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: “Nhà nước
bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. Điều 53:
“Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Như vậy, quyền được tham gia vào quản lý các công việc
Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 2


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

của Nhà nước và xã hội (trong đó có quản lý hành chính nhà nước) là quyền cơ bản của
công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Ngoài ra, trong một số văn bản
pháp luật: Luật tổ chức Quốc hội; Luật tổ chức Chính phủ Luật khiếu nại, tố cáo; Luật
phòng, chống tham nhũng,… đều có những quy định cụ thể về điều kiện, hình thức,
phương pháp để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước nói chung và quản
lý hành chính nhà nước nói riêng.
2. Các hình thức nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước:
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước:
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy,
tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp
và có hiệu quả của người lao động vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nhân dân
lao động đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định đều có thể tham gia vào hoạt
động của các cơ quan nhà nước.
- Tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách thành viên: đó là những đại biểu
được lựa chọn thông qua con đường bầu cử, được trực tiếp xem xét và quyết định các vấn
đề quan trọng của từng địa phương, của đất nước, trong đó có các vấn đề quản lý hành

chính nhà nước.
- Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác: cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát, ví dụ: Ủy ban nhân dân/tòa án/viện kiểm sát nhân dân
các cấp. Là cán bộ, công chức của Nhà nước, nhân dân lao động có thể sử dụng trực tiếp
quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà
nước
-

Cách thức gián tiếp và cũng là rộng rãi nhất để nhân dân lao động tham gia vào hoạt

động của các cơ quan nhà nước là thực hiện quyền bầu cử, chọn lực những đại biểu xứng
đáng thay mặt mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa phương.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội:

Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 3


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

- Đây là hình thức nhân dân lao động gián tiếp tham gia vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước: tham gia thông qua các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hộinghề nghiệp mà họ là thành viên. Ví dụ: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Công đoàn Việt Nam,…
-

Theo hình thức này, những nguyện vọng, ý kiến của người dân được các tổ chức đó tập

hợp lại để chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét, giải quyết
-


Giai đoạn trước chỉ có các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động, các tổ chức xã hội và xã

hội nghề nghiệp không phát triển. Hiện nay, trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội đã có những thay đổi
trong tổ chức và phương thức hoạt động, gắn chặt hơn với quần chúng, với các đoàn viên,
hội viên. Đồng thời, những tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp cũng được phát triển mạnh,
cho phép nhân dân có khả năng tham gia nhiều hơn trong hoạt động quản lý của nhà nước,
đóng góp ý kiến vào các chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát sự thực hiện của các
cơ quan nhà nước, cũng như đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình cho các cơ quan nhà
nước.
-

Các tổ chức xã hội là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, nơi thể hiện quyền

làm chủ của nhân dân lao động, là nơi truyền đạt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, đồng thời là kênh phản ánh tiếng nói, là diễn đàn của người dân bày tỏ suy nghĩ,
quan điểm trong khuôn khổ pháp luật với Đảng và Nhà nước để các cơ chế, chính sách sát
với thực tế cũng như nâng cao phẩm chất của cán bộ, công chức của Nhà nước trong thực
thi công việc và tổ chức bộ máy cho phù hợp.
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở:
-

Các hoạt động tư quản ở cơ sở là những hoạt động rất gần gũi với đời sống: bảo vệ an

ninh trật tự, vệ sinh môi trường, thực hiện nếp sống văn hóa,…
-

Các hoạt động mang tính chất tự quản như trên có mối liên quan chặt chẽ với các công


việc khác nhau của quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung và quản lý hành chính nhà

Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 4


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

nước nói riêng. Thông qua những hoạt động đó, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội của người dân mà pháp luật quy định được tôn trọng và đảm bảo thực hiện.
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính
nhà nước:
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định công dân có quyền
“tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân”. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể
của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Việc trực tiếp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một hình thức tham gia vào quản lý
hành chính nhà nước của nhân dân lao động.
3. Ý nghĩa:
Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này
thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc, giữ vai trò quan trọng trong quản lý hành chính nhà
nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước; khiếu nại tố cáo cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của họ, mà còn
có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi
của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân
dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà
nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động
được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước.

Việc mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước không
chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính yêu cầu của công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội và của bản thân Nhà nước. Mở
rộng sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động
quản lý nhà nước sẽ đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân
chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện nay.

Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 5


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

III, Việc vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính
nhà nước ở nước ta hiện nay:
1. Thực trạng vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào quản lý
hành chính nhà nước:
- Các văn bản pháp lý hiện hành đã quy định khá cụ thể các hình thức, phương thức tham
gia của nhân dân trong việc quản lý hành chính nhà nước, xây dựng các chính sách, pháp
luật của Nhà nước . Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Khiếu nại, tố
cáo,… quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào
hoạt động quản lý của Nhà nước (ví dụ: các đại biểu, các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận
và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp
vào các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội...)
Ngoài ra, Các luật về các tổ chức chính trị - xã hội như Luật Công đoàn, Luật Thanh
niên, Luật Mặt trận Tổ quốc cũng đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các
tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lý nhà nước.

- Luật Cán bộ, công chức 2008 được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 đã phân định
rõ đối tượng cán bộ và công chức và tách biệt với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự
nghiệp công lập sẽ do bộ luật khác quy định (Luật Viên chức đang được xây dựng), trừ một
số vị trí quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn là công chức. Đây là bước cải
cách lớn nhất trong lịch sử nền công vụ ở Việt Nam, tách ra gần 1,5 triệu người làm việc
trong khu vực sự nghiệp công lập, chiếm hơn 70% cán bộ công chức từ cấp trung ương đến
cấp huyện trong hệ thống chính trị. Nhờ có việc phân định rõ các đối tượng này nên các
chính sách đối với cán bộ công chức được rõ ràng, phù hợp với đặc thù vị trí việc làm của
cán bộ, công chức, không lẫn lộn với các đối tượng làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp công
lập.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX khẳng định: "mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập
hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp,
Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 6


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

văn hoá, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo" và "hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động không vì
lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Những tổ chức này được nhà nước uỷ
quyền thực hiện một số nhiệm vụ cung ứng một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng
đồng. Thông qua đó nhà nước có thể tập trung sức lực để thực hiện những nhiệm vụ quan
trọng hơn".
Thực hiện chủ trương của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho các loại hình tổ chức của dân ra đời: Nghị định
số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản
lý hội, Nghị định 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động
và quản lý quỹ,… Các tổ chức xã hội hiện nay hoàn thành khá tốt vai trò tập hợp rộng rãi
các tầng lớp nhân dân vào tổ chức của mình, thực hiện tốt quyền tự do hội họp, lập hội, góp

phần thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân
tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra.

(*) Một số hạn chế:
Có thể nói, các hình thức để nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà
nước đã được quy định một cách rõ ràng, phong phú và rộng rãi trong các văn bản pháp
luật, được thể hiện phần nào trong thực tế đời sống tuy còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể
như sau:
-

Quỹ thời gian làm việc của đại biểu quốc hội quá hạn hẹp. Quốc hội hiện nay có 491

đại biểu mà đa phần là đại biểu kiêm nhiệm. Thực tiễn cho thấy các đại biểu quốc hội do
bận công tác chuyên môn của mình mà không có sự chuyên tâm hoàn thành vai trò của
người đại diện cho nhân dân; khả năng thu thập thông tin, các vấn đề chính trị - kinh tế - xã
hội và các chính sách khác của Nhà nước còn hạn chế.
-

Những hạn chế trong việc tuyển dụng công chức: Chế độ thi tuyển, thi nâng ngạch

chưa đáp ứng yêu cầu chọn những người tài,đức và đảm bảo nâng cao trình độ công chức.
Nội dung thi tuyển không liên quan tới công việc nên không thể chọn ra những ứng cử viên
tốt nhất theo yêu cầu của công việc. Một bộ phận công chức có xu hướng đạt yêu cầu về
Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 7


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam


mặt lý thuyết nhưng lại thiếu kỹ năng, nghiệp vụ thực tế về công tác. Vấn đề chạy
chức,chạy quyền,ngồi không đúng chỗ vẫn còn tồn tại, làm cho chất lượng công chức giảm
sút.Việc công khai thông tin tuyển dụng chưa được thực hiện một cách hoàn chỉnh. Thông
tin tuyển dụng chỉ có một số ít người biết nên có mối quan hệ tốt sẽ được ưu tiên.
-

Trong việc thực hiện các quyền trực tiếp của nhân dân : hoạt động tổ chức trưng cầu ý

dân không được hiện thực hóa, trong khi đó rất nhiều hoạt động đáng được tổ chức trưng
cầu ý dân : sáp nhập, chia tách các đơn vị hành chính, những vấn đề quan trọng về phát
triển kinh tế - xã hội,… Đặc biệt là công tác sửa đổi Hiến pháp chưa thực hiện việc trưng
cầu ý dân. Trong khi đó hoạt động trưng cầu ý dân khi sửa đổi Hiến pháp được thực hiện ở
nhiều nước : Pháp, Thái Lan, Philipins,… Hiến pháp dù là đạo luật cao nhất đối với nhân
dân một nước nhưng thực tế lại không quan trọng với nhân dân bằng một văn bản của
UBND cấp phường. Điều 70 Hiến pháp 1946 quy định công dân có quyền phúc quyết Hiến
pháp, song ở các Hiến pháp sau đó lại quy định chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến
pháp.
2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc nhân dân
lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước cùng một số
đề xuất:
a. Nguyên nhân:
-

Sự nhận thức chưa đầy đủ xã hội về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do

dân, vì dân: cả người quản lý lẫn người dân đều coi việc quản lý hành chính nhà nước là
công việc riêng của “người Nhà nước”, không phải là quyền lợi và nghĩa vụ của đông đảo
nhân dân lao động. Những quy định của pháp luật còn nặng tính thủ tục mà chưa đủ mạnh
để đi sâu vào quần chúng: cơ chế các cơ quan đại biểu cho dân thực hiện nhiệm vụ nhân
dân ủy quyền cho mình; cơ chế đại biểu gắn với cử tri, đại diện cho lợi ích của cử tri,…vẫn

chỉ hiện diện trên giấy tờ, còn thực tiễn vận dụng vẫn còn nôm na, hình thức.
-

Ảnh hưởng còn sót lại của cơ chế quản lý hành chính nhà nước tập trung, quan liêu,

bao cấp. Tâm lý chung của của cán bộ, công chức Nhà nước cho rằng thực hiện công việc
của Nhà nước là môt quy trình khép kín, thể hiện “đặc quyền” riêng có của người có chức
Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 8


Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

vụ, quyền hạn. Nhân dân mang tâm lý ỷ lại, không quan tâm tới hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, trừ những hoạt động ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của mình.
-

Trình độ về pháp luật của người dân còn rất hạn chế. Không chỉ kiến thức pháp luật của

người dân còn thấp mà sự chấp hành, ý thức, tinh thần pháp luật của người dân không cao
khả năng tận dụng khoa học công nghệ, các phương tiện thông tin đại chúng của nhân dân
để tham gia góp ý cho các văn bản pháp luật, các chính sách chung của xã hội còn thấp. Sự
phổ cập thông tin về chính sách của Đảng, Nhà nước; về pháp luật mới giới hạn ở các
thành phố lớn và một số đối tượng - thường đã là cán bộ, công chức nhà nước.
-

Việc tổ chức thực hiện các hình thức, phương thức tham gia của người dân trong quản

lý hành chính nhà nước được các cơ quan nhà nước thực hiện chưa thật sự khoa học. Chính

vì vậy, khi tham gia vào các công việc quản lý nhà nước, nhân dân lao động tỏ ra bị động,
lung túng Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân nêu ra chậm và luôn bị tránh, né
làm giảm lòng tin và nhiệt tình của người dân.
b. Đề xuất:
Để thúc đẩy hơn nữa sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, đảm bảo thực hiện những nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, cá nhân em xin đưa ra một số phương hướng sau:
-

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc

hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, sao cho: đại biểu được bầu không còn mang tính chất
chung chung, hình thức, mà phải thật sự gắn bó, chịu trách nhiệm với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân. Đại biểu cần coi việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu là một công tác
chính trị chuyên nghiệp chứ không chỉ là hoạt động kiêm nhiệm. Tạo mọi điều kiện về vật
chất, tinh thần cho đại biểu thực hiện công tác.
-

Mở rộng và hiện thực hóa hoạt động trưng cầu ý dân trong nhiều lĩnh vực của đời sống

xã hội, trong việc xây dựng chính sách chung của đất nước, xây dựng pháp luật
-

Xây dựng khung pháp lý tốt tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội ra đời và phát triển

trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng đồng bộ
Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 9



Bài tập học kì – Luật Hành chính Việt Nam

cơ chế chính sách tạo điều kiện cho các tổ chức của nhân dân tham gia tích cực vào giải
quyết các vấn đề của xã hội.
-

Tiếp tục triển khai các biện pháp giáo dục nâng cao kiến thức, trình độ, nhất là ý thức

chính trị, tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn
nữa trong việc tham gia vào các công việc xã hội và các hoạt động quản lý nhà nước. Sử
dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các kênh báo chí
điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu thập, phản
ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.

C, Kết luận:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt
động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới
thực sự thành công. Phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc
quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà nước giữ vững bản chất là nhà nước của dân, do
dân và vì dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành.
Trong khuôn khổ thời gian và khả năng có hạn, bài viết đã trình bày một số phân tích
và đánh giá về nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình thực hiện bài viết không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn!

Lê Hồng Hạnh – NO4.TL1.N3

Trang 10




×