Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bình luận về tiến trình tự do hóa thương mại dịch vụ trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dưới các góc độ những vấn đề lý luận về tự do hóa thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.94 KB, 11 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU :
Ngày 15-12-2008, ASEAN chào mừng sự kiện Hiến Chương ASEAN chính thức
có hiệu lực với tất cả 10 quốc gia thành viên. Kể từ thời điểm này, ASEAN đã trở
thành một thực thể mang bản sắc rất riêng dựa trên sự gắn kết kinh tế, chính trị và
mối bang giao văn hóa gần gũi giữa các nước. Là một trong 3 trụ cột của Cộng
đồng ASEAN, sự hình thành AEC là kết quả của quá trình liên kết kinh tế, chính trị
lâu dài của ASEAN. Tiến trình tự do hóa thương mại dịch vụ trong Cộng đồng kinh
tế ASEAN là một vấn đề thời sự, đang thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội.
B. NỘI DUNG :
I.KHÁI QUÁT CHUNG:
Trong thương mại quốc tế, thương mại tự do là một kiểu thị trường lý tưởng,
thường được xem như là một mục tiêu chính trị, mà sự trao đổi hàng hóa và dịch
vụ giữa các nước được thực hiện không có sự kiểm soát bằng những chính sách
nhập khẩu.
Dịch vụ, từ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đến các dịch vụ tài chính ngân hàng, đã
và đang trở thành ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân của
nhiều nước trên thế giới. Dịch vụ không chỉ tạo công ăn việc làm và thu nhập tại
nhiều quốc gia mà còn đóng vai trò là đầu vào (input) quan trọng để sản xuất ra các
hàng hoá và dịch vụ khác (ví dụ: dịch vụ viễn thông). Do vậy một ngành dịch vụ
hiệu quả cao là rất cần thiết cho tổng thể nền kinh tế. Và chính vì vậy, những thoả
thuận về mở cửa thị trường dịch vụ có vai trò quyết định sự thành bại của các cuộc
đàm phán thương mại toàn cầu hiện nay.


Trong cơ cấu kinh tế thế giới như hiện nay, dịch vụ là một lĩnh vực chiếm vị trí
trọng yếu và là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế
thế giới. Thực tế cho thấy ở ASEAN, dịch vụ đóng góp trung bình 40% -50 %
GDP mỗi năm Cho đến nay chưa hề có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ.
Trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam chỉ có định nghĩa về hợp đồng dịch vụ ( Điều
518 BLDS ), ngay cả Hiệp định GATS cũng không đưa ra một khái niệm về dịch
vụ mà chỉ liệt kê dịch vụ thành 12 ngành lớn và 155 phân ngành khác nhau nằm


trong phạm vi điều chỉnh của hiệp định. Dịch vụ là một khái niệm rất rộng, từ việc
đáp ứng nhu cầu cá nhân đến việc phục vụ cho một ngành sản xuất. Như vậy có thể
hiểu dịch vụ là các hoạt động của con người, được kết tinh thành các loại sản
phẩm vô hình nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người tồn tại dưới hình thái phi
vật thể.
Như vây, tự do hóa thương mại dịch vụ là hình thức lưu chuyển dịch vụ giữa các
quốc gia không bị thuế quan và hàng rào thương mại ngăn cản.
II. Bình luận về tiền trình tự do hóa thương mại dịch vụ trong Cộng đồng kinh
tế ASEAN.
1.

Những vấn đề lý luận về tự do hóa thương mại dịch vụ.

AEC sẽ là một thị trường chung, một không gian sản xuất thống nhất, nhằm phát
huy lợi thế chung của khu vực ASEAN, từng bước xây dựng một kinh tế mang tầm
khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới, đem lại sự thịnh vượng
chung cho nhân dân và quốc gia ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và
lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất
cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên. Tác động tích cực của
AEC sẽ là hệ quả của sự vận động khách quan của các chủ thể và yếu tố sản xuất


trong nền kinh tế khu vực. Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng
hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Thương mại nội khối có cơ
hội phát triển. Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi lớn nhờ phát huy hiệu quả từ
quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh
tranh.
Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch
vụ. Thương mại dịch vụ có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Dịch vụ là loại sản phẩm vô hình, không sờ mó, nhìn thấy được nhưng

lại được cảm nhận qua tiêu dùng trực tiếp của khách hàng. Quá trình sản xuất và
tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời, nhưng hiệu quả của dịch vụ đối với
người tiêu dùng lại rất khác nhau..
Thứ hai: Thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ cho tiêu
dùng cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của
nền kinh tế quốc dân, thu hút đông đảo người tham gia với trình độ cũng rất khác
nhau, từ lao động đơn giản như giúp việc gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du
lịch đến lao động chất xám có trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyên gia
giáo dục…, do đó đây là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều
công ăn việc làm, rất có ý nghĩa về kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay.
Thứ ba: Thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác dụng
trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối với sản xuất và
thương mại hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp
lên tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, do đó tác dụng của thương mại dịch
vụ là rất lớn. Người ta tính rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích
của nó còn cao hơn thương mại hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được


khi tự do hóa thương mại hàng hóa hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp và
hàng hóa công nghiệp.
Thứ tư: Thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới gắn với từng con người cụ
thể, chịu tác động bởi tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cá tính
của người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ, điều này khác với thương mại
hàng hóa, sản phẩm là vật vô tri vô giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng
không phức tạp như kiểm soát con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà
thương mại dịch vụ phải đối mặt nhiều hơn với những hàng rào thương mại so với
thương mại hàng hóa. Các cuộc thương lượng để đạt được tự do hóa thương mại
dịch vụ thường gặp nhiều khó khăn hơn tự do hóa thương mại hàng hóa, nó còn
phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa của nước cung cấp và
nước tiếp nhận dịch vụ đó.

Tự do hóa thương mại dịch vụ đồng nghĩa với xóa bỏ các rào cản thương mại dịch
vụ, mở rộng phạm vi và mức độ trao đổi hàng hóa giữa các nước ASEAN.
2.

Các công cụ pháp lí thực tiễn tự do hóa thương mại dịch vụ trong AEC.

Kể từ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 16 (tháng 4/2010) đến nay, ASEAN đã đạt
được nhiều tiến bộ trong tiến trình hiện thực hóa AEC vào năm 2015. Hiệp định về
Thương mại hàng hóa ASEAN đã bắt đầu có hiệu lực vào 17/5/2010 và trở thành
một công cụ pháp lý toàn diện với hàng loạt các biện pháp hướng tới sự lưu chuyển
hàng hóa tự do hơn trong ASEAN. Hiệp định về thương mại hàng hóa mới của
ASEAN thay thế cho Hiệp định CEPT/AFTA trước đây đã kịp thời khắc phục
những hạn chế pháp lý và mở ra cơ hội hợp tác chặt chẽ hơn nữa để thúc đẩy các
chương trình thuận lợi hóa thương mại. Các luồng di chuyển vốn, dịch vụ được cởi
mở thông thoáng theo định hướng của AEC.


Trong năm 2010, Việt Nam cùng với các thành viên ASEAN đã thúc đẩy mạnh mẽ
việc sớm khắc phục tình trạng này, nhằm tạo một hành lang pháp lý thuận lợi nhất
cho AEC. Ngày 1-5-2010, sau gần 8 tháng chậm chễ, Hiệp định thương mại hàng
hóa ASEAN (ATIGA) đã chính thức có hiệu lực, thay thế Hiệp định về thuế quan
ưu đãi có hiệu lực chung để thực hiện CEPT/AFTA. Hiệp định đầu tư toàn diện
ASEAN (ACIA), Gói cam kết thứ bảy trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN
về thương mại dịch vụ (AFAS), Hiệp định đa phương về tự do hóa hoàn toàn vận
tải hàng không, Hiệp định khung ASEAN về hàng quá cảnh… cũng đang trong quá
trình rà soát lần cuối trước khi chính thức có hiệu lực. Để có cơ sở đánh giá mức
độ thực hiện của các thành viên, Hội đồng AEC nhất trí xây dựng công cụ mới là
Biểu đánh giá thực hiện AEC là một cơ chế giám sát minh bạch và chặt chẽ tiến độ
thực hiện AEC của từng thành viên. Năm 2010, lần đầu tiên, Biểu đánh giá AEC
cho giai đoạn 2007 – 2010 đã được hoàn thành.

Một số văn bản pháp lí tiêu biểu:
-

Một Thoả thuận khung của ASEAN về Thương mại trong Dịch vụ

được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Bangkok tháng 12 năm
1995.Theo AFAS, các quốc gia thành viên ASEAN tham gia vào các vòng đàm
phán tự do hoá thương mại trong dịch vụ liên tục này với mục tiêu ngày càng tạo ra
các cam kết cấp độ cao hơn. Các cuộc đàm phán đã dẫn tới các cam kết đặt ra các
lộ trình cho các cam kết cụ thể là một bộ phận của Thoả thuận Khung. Các lộ trình
thường được gọi là các gói cam kết dịch vụ. Hiện tại, ASEAN đã ký kết bảy gói
cam kết theo AFASHiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) vào ngày
15/12/1995 trong khuôn khổ hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5 tại Băng cốc, Thái
Lan nhằm xóa bỏ phần lớn những rào cản dịch vụ giữa các nước ASEAN, mở rộng
phạm vi và mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ so với các quy định của GATS,


qua đó tăng cường mức độ cạnh tranh giữa các nhà cạnh cung cấp dịch vụ trong
khu vực
-

Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế asean ký ngày 28-1-

1992 tại hội nghị cấp cao asean lần thứ IV tại Singapor.
-

Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA

(CEPT) ký ngày 28/1/1992. CEPT chính là công cụ thực hiện AFTA.nội dung
chính của CEPT chính là cắt giảm thuế quan xuống mức 0%-5% và loại bỏ các rào

cản phi thuế quan. Chương trình này đc thực hiện trong vòng 10 năm từ 1/1/1993
đến 1/1/2003
3.

Phương thức thực hiện.

Theo quy định tại khoản 2 điều I Hiệp định GATS, các hoạt động thương mại dịch
vụ trong phạm vi quốc tế được thực hiện theo 4 phương thức:
- Phương thức 1 ( mode 1 ): Cung cấp dịch vụ qua biên giới. Đây là phương thức
dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của nước thành viên này đến lãnh thổ của nước
thành viên khác. Nói cách khác, trong phương thức này, chỉ có bản thân dịch vụ
dịch chuyển qua biên giới còn nhà cung cấp không có mặt tại nước tiếp nhận dịch
vụ.
- Phương thức 2 ( mode 2 ): Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài. Theo phương thức
này, người tiêu dùng dịch vụ là công dân của nước thành viên sử dụng dịch vụ tại
lãnh thổ nước thành viên khác.
- Phương thức 3 ( mode 3 ): Hiện diện thương mại. Phương thức này liên quan trực
tiếp đến việc dầu tư tại thị trường nước khác để thiết lập công việc kinh doanh.
Theo phương thức này, người cung cấp dịch vụ thiết lập sự hiện diện thương mại


của mình ở nước ngoài dưới hình thức như văn phòng, đại diện, chi nhánh…nhằm
cung

cấp

dịch

vụ


tại

nước

đó.

-Phương thức 4 ( mode 4 ): Hiện diện thể nhân. Đây là phương thức mà công dân
của một nước thành viên trực tiếp có mặt và cung cấp dịch vụ tại một nước thành
viên khác.
Trải qua 5 vòng đàm phán theo Hiệp định khung ASEAn về dịch vụ, ASEAN đã
đạt được những thỏa thuận đáng kể trong xóa bỏ rào cản về tự do háo thương mại
dịch vụ:
-

Đối với mode1 và mode 2, đã đạt được những thỏa thuận xóa bỏ các hạn chế

về tiếp cận thị trường cũng như các biện pháp phân biệt đối xử, trừ những ngoại lệ
được áp dụng hợp pháp theo những nội dung đã cam kết. Nói cách khác, ngoại trừ
những ngoại lệ được chấp nhận, các nước ASEAN không được áp dụng biện pháp
hạn chế thị trường và phan biệt đối xử trong hai phương thức cung cấp dịch vụ qua
biên giới và tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.
-

Đối với mode 3, hiện nay, các nhà cung cấp dịch vụ của các nước ASEAN

được góp vốn với tỉ lệ tối thiểu 51% trong các nghành dịch vụ ưu tiên và phân
nghành xây dựng; 49% trong dịch vụ logistic và các nghành dịch vụ khác tại quốc
gia thành viên khác trong ASEAN.
1.


4.

2.

a.

So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa trong AEC và WTO.
Về phạm vi tự do hóa trong thương mại dịch vụ

Để phát triển và đẩy mạnh hoạt động thương mại dịch vụ, các nhà lãnh đạo
Asean đã đưa ra sự nhất trí cao về một thị trường thương mại dịch vụ tự do với
việc kí kết hiệp định khung ASEAN về dịch vụ AFAS. AFAS không đưa ra một


danh mục những ngành và phân ngành dịch vụ sẽ điều chỉnh riêng mà thừa nhận
những ngành và phân ngành dịch vụ đươc ghi nhận trong bảng phân loại của WTO.
Việc thừa nhận này tạo nên sự thuận lợi cho các quốc gia thành viên trong quá
trình giao lưu thương mại quốc tế cũng như hội nhập với thế giới. Trải qua nhiều
vòng đàm phán , cho đến nay, việc tự do hóa thương mại dịch vụ mới chỉ thật sự
được thực hiện trong một số lĩnh vực như lĩnh vực tài chính, vận tải hàng không, y
tế, xây dựng…
Trong khi đó, một quốc gia khi muốn gia nhập WTO đồng nghĩa với việc mở
cửa tự do thị thường thương mại dịch vụ, ngay trong bộ văn kiện gia nhập quốc gia
đã phải đưa ra danh mục các ngành và phân ngành sẽ tiến hành tự do hóa và lộ
trình thực hiện việc mở cửa thị trường. Biểu cam kết dịch vụ gồm 3 phần: cam kết
chung, cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc
(MFN)..
Về cấu trúc:
Biểu cam kết dịch vụ gồm 4 cột: i) cột mô tả ngành/phân ngành; ii) cột hạn chế về
tiếp cận thị trường; iii) cột hạn chế về đối xử quốc gia và iv) cột cam kết bổ sung.

b. Về mức độ
Để triển khai AFAS, cho đến nay ASean đã tiến hành 5 vòng đàm phán mở
rộng đến tất cả các ngành và dịch vụ. Mặc dù mới chỉ tiến hành tự do hóa thương
mại trong một số lĩnh vực nhưng cho đến nay mức độ các cam kết mở của ASEAN
cao hơn so với WTO
Cũng như ASEAN , mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ của các nước
thành viên WTO được thực hiện thông qua các hiệp định song phương, đa phương,


các vòng đàm phán, hội nghị. Mức độ mở cửa thị trường của các quốc gia thành
viên dành cho nhau là không giống nhau, tuy nhiên, theo nguyên tắc đối xử tối huệ
quốc, WTO cũng tạo được một môi trường mở cửa tương đối minh bạch và bình
đẳng giữa các quốc gia. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy
định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ
trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng
rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để
thực hiện.
-

Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan: Bản chất của thương mại thời

WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để
chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi
theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán,
mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Ðây gọi
là các mức thuế suất ràng buộc.
-

Về các biện pháp phi thuế quan: Biện pháp phi thuế quan là biện


pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các
biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn,
bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu
lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương
các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
Trong khi đó, mục tiêu mà AEC hướng tới sẽ là một thị trường chung, một không
gian sản xuất thống nhất, nhằm phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN, từng
bước xây dựng một kinh tế mang tầm khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao
trên thế giới, đem lại sự thịnh vượng chung cho nhân dân và quốc gia ASEAN.
Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu


chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào thuế quan hay phi thuế quan
hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên.Trong khi đó, các nước thành viên
của WTO vẫn có thể duy trì hàng rào thuế quan, thậm chí phi thuế quan hay những
biện pháp cần thiết khác để bảo đảm chất lượng hàng hóa được nhập khẩu, sức
khỏe của con người, động vật, môi trường, chống gian lận thương mại và an ninh
của quốc gia như biện pháp cấm nhập khẩu, duy trì hạn ngạch ở lĩnh vự nông
nghiệp và dệt may… Tuy nhiên, những quy định về thuế quan hay phi thuế quan
mà các quốc gia thành viên đặt ra vẫn phải nằm trong phạm vi mà WTO cho phép.
C. LỜI KẾT :
Kế hoạch tổng thể AEC đã được thông qua năm 2007 nhằm xây dựng một cộng
đồng kinh tế với đặc trưng là một thị trường và cơ sở sản xuất chung, một khu vực
kinh tế cạnh tranh với sự phát triển đồng đều và một khu vực có khả năng bắt nhịp
với nền kinh tế toàn cầu. Mỗi nước thành viên phải hành động phù hợp ở cả cấp độ
quốc gia và khu vực nhằm đảm bảo rằng mình không bị tụt hậu quá xa so với các
thành viên khác. Bất chấp mọi trở ngại và thách thức mà các nước thành viên phải
đối mặt, nỗ lực hội nhập kinh tế ASEAN sẽ không dễ dàng bị chệch hướng. Điều
cần thiết là quyết tâm chính trị và hành động của các nhà lãnh đạo cấp cao để đạt
được ít nhất một phần nếu không phải là toàn bộ khuôn khổ hội nhập như đã được

dự tính trong kế hoạch AEC.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :


1. Tập bài giảng Trung tâm Luật châu Á-Thái Bình Dương, Pháp luật Cộng đồng
ASEAN, 2011.
2. Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan chung cho khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) năm 1992.
1.

Hiệp định khung ASEAN về thoả thuận công nhận lẫn nhau năm 1998.

2.

Nghị định thư sửa đổi Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan chung
cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) về xoá bỏ nghĩa vụ thuế nhập
khẩu năm 2003.

3.

Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ năm 2003.

6.. Website
1.
2.
3.
4.
5. www.mofa.gov.vn
6. www.nciec.gov.vn




×