Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.55 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp toà án quyết định áp dụng trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự,
bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Kế thừa và phát triển
các quy định của các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây, Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS) đã có Chương VIII với 28 điều luật (từ Điều 99 đến
Điều 126) quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố tụng dân sự đã
là một bước tiến mới phản ánh một nền tố tụng dân chủ, đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự là tính nhanh chóng và sự bảo
đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự trong việc bảo vệ quyền lợi của
họ. Trên cơ sở quy định của Bộ luật TTDS, Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 hướng dẫn thi hành
một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ
luật TTDS. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã cho thấy các quy định về biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật TTDS - bên cạnh những ưu việt - đã bộc
lộ một số hạn chế, chưa tương thích và bao quát hết được thực tiễn. Từ đó, đòi
hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn, bổ sung. Bài viết này tiến hành
đánh giá một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự về BPKCTT và bước
đầu đưa ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện.

1


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, KHÁI QUÁT VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI:
1,Khái niệm của chế định BPKCTT trong TTDS:
Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đôi khi tòa án phải quyết
định áp dụng một hoặc một số biện pháp cần thiết để giải quyết nhu cầu cấp
bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc đảm bảo thi hành án. Các biện
pháp này được gọi là biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vậy, có thể hiểu biện pháp


khẩn cấp tạm thời là : “biện pháp tòa án quyết định áp dụng trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự,
bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc đảm bảo việc thi hành
án.”
Hay có thể định nghĩa BPKCTT là biện pháp tòa án quyết định áp dụng
trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải
quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản
tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc
thi hành án. Việc áp dụng BPKCTT có thể gây ra thiệt hại về quyền và lợi ích
cho bên bị áp dụng và người khác. Do đó, khi áp dụng BPKCTT phải rất thận
trọng, phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.
2, Ý nghĩa, mục đích của biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn
tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để đảm bảo việc thi hành án nên
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang nhiều ý nghĩa không những
với việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án mà cả đối với việc bỏ vệ quyền ,
lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trên thực tế, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí nhiều người đã có
hành vi tẩu tán tài sản, huy hoại hoặc xâm phạm chứng cứ, mua chuộc người
làm chứng..v..v. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp khẩn cấp tạm thời trong
những trường hợp này một mặt chống lại được các hành vi đó, bảo vệ được
chứng cứ , giữ nguyên được giá trị chứng minh của chứng cứ, tránh cho hồ sơ
vụ việc dân sự bị sai lệch bảo đảm việc giải quyết đúng được vụ việc dân sự.
Mặt khác, qua đó còn bảo toàn được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại
không thể khắc phục được, giữ được tài sản đảm bảo cho việc thi hành bản
án, quyết định của tòa án sau này.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đáp ứng kịp thời nhu
cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được
cuộc sống của họ. Trên cơ sở đó, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự.


2


3, Các BPKCTT cụ thể được quy định trong pháp luật TTDS:
Điều 102 BLTTDS năm 2004 quy định cụ thể 12 biện pháp khẩn cấp tạm
thời mà tòa án được áp dụng, bao gồm:
- Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng ,
sức khỏe bị xâm phạm
- Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động
-Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động
- Kê biên tài sản đang tranh chấp
- Cấm dịch chuyển về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
- Cho thu hoạch, cho bán rau màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà
nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ
- Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ
- Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định
Ngoài ra thì tại khoản 13, điều 102, BLTTDS còn có quy định: “Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật quy định”, đây là một quy định
mở của pháp luật, nhằm tạo điều kiện để có thể hoàn thiện được pháp luật
II, VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BPKCTT Ở TÒA ÁN CẤP S Ơ
THẨM VÀ PHÚC THẨM.
1 – Ở tòa án cấp sơ thẩm
1.1 - Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

a . Đối tượng có quyền yêu cầu và điều kiện áp dụng BPKCTT
Đối tượng có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT được quy định tại khoản 1 điều
99 BLTTDS và được hướng dẫn cụ thể tại nghị quyết 02/2005 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC thì những chủ thể này bao gồm đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự; cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện
vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy
định công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án lao động trong trường
hợp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tập thể người lao động do Bộ luật lao động và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định.
Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS, toà án chỉ xem xét để ra quyết định áp
dụng BPKCTT nếu các chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT đề đạt yêu cầu
đó với toà án. Vì thế thông thường toà án sẽ không tự mình chủ động ra quyết định
áp dụng BPKCTT. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT trong 5
trường hợp quy định tại Điều 119 BLTTDS. Đây cũng là một quy định mới của
BLTTDS bởi theo các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây, toà án chủ động tự
mình áp dụng tất cả các biện pháp mà pháp luật có quy định. Chính quy định này của
Pháp lệnh đã hạn chế quyền yêu cầu của đương sự, hạn chế sự nỗ lực của họ trong
việc bảo vệ quyền lợi của mình. BLTTDS quy định toà án ra quyết định áp dụng
3


BPKCTT nếu có yêu cầu và toà án chỉ chủ động ra quyết định áp dụng BPKCTT
trong một số trường hợp cần thiết đã khắc phục được những hạn chế đó.
b. Về điều kiện áp dụng
- Theo quy định tại nghị quyết số 02/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
thì chỉ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện
(đơn khởi kiện phải được làm theo đúng quy định tại Điều 164 của BLTTDS), thì cá
nhân, cơ quan, tổ chức mới có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định
áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS: Do tình thế khẩn cấp, tức là
cần phải được giải quyết ngay, không chậm trễ; cần phải bảo vệ ngay bằng chứng

trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau
này khó có thể thu thập được; ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể
là hậu quả về vật chất hoặc phi vật chất).
- Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể khi có đầy đủ
các điều kiện do BLTTDS quy định đối với BPKCTT đó.
Tóm lại: Điều kiện để áp dụng BPKCTT chính là do tình thế khẩn cấp, cấp
bách cần phải được giải quyết ngay, nếu không chậm chễ sẽ không đáp ứng được các
yêu cầu, các “đối tượng” cần được bảo vệ nói trên.
c . Thời điểm và thẩm quyền áp dụng BPKCTT
Việc toà án áp dụng BPKCTT có tác dụng giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, bảo vệ được bằng chứng, bảo vệ
được tài sản…Vì vậy, việc xác định thời điểm toà án được áp dụng BPKCTT là rất
quan trọng. Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS, BPKCTT có thể được áp dụng
trong suốt quá trình toà án giải quyết vụ việc dân sự. Điều này có nghĩa toà án có thể
áp dụng BPKCTT vào bất cứ thời điểm nào trước và trong khi xét xử. Thậm chí, theo
quy định tại khoản 2 Điều 99, trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần bảo vệ
ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền yêu cầu toà án áp dụng ngay BPKCTT vào cùng thời điểm nộp đơn
khởi kiện. Quy định này của BLTTDS đã tạo ra sự năng động, kịp thời trong việc bảo
vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự, đồng thời khắc phục được hạn chế của pháp
luật tố tụng trước đây chỉ cho phép áp dụng các BPKCTT vào thời điểm trước khi xét
xử.
Thẩm quyền áp dụng: Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT là
tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án theo quy định tại các
điều 33, 34,35 và 36 BLTTDS. Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ BPKCTT do một thẩm phán xem xét quyết định. Tại phiên tòa do Hội đồng xét xử
xem xét quyết định.
d .Thủ tục áp dụng BPKCTT
Người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn gửi đến tòa án giải quyết vụ án
dân sự. Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung được quy định tại khoản

1 điều 117 BLTTDS. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu còn phải cung cấp cho
tòa án các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho sợ cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó.
Chính quy định này sẽ hạn chế tình trạng đưa ra yêu cầu không có căn cứ từ phía
những người có quyền yêu cầu áp dụng các BPKCTT. Đồng thời quy định này cũng
4


giúp toà án có cơ sở rõ ràng để nhanh chóng ra được quyết định về việc áp dụng
BPKCTT.
Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT trước phiên tòa, thẩm phán được phân công
giải quyết vụ án phải xem xét quyết định trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận
đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Trong trường hợp
người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì ngay sau khi người đó thực hiện
biện pháp bảo đảm, thẩm phán phải ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử xem xét
quyết định áp dụng BPKCTT ngay khi nhận được yêu cầu nếu người yêu cầu không
phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc sau khi người yêu cầu thực hiện xong biện
pháp bảo đảm.
Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện cùng với khởi kiện thì sau khi
nhận đơn Chánh án tòa án chỉ định ngay một thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu
cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, thẩm phán phải
xem xét và ra quyết định áp dụng BPKCTT.Trong trường hợp tòa án quyết định áp
dụng BPKCTT là phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc
nhà nước, phong tỏa tài khoản ở nơi gửi giữ, phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ
thì tài khoản, tài sản được phong tỏa phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản
mà người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện.
Đối với những trường hợp thẩm phán không chấp nhận yêu cầu áp dụng
BPKCTT thì phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu biết và trong đó phải
nêu rõ lý do của việc không chấp nhận. Như vậy, so với các quy định trước đây, thủ
tục áp dụng các BPKCTT trong BLTTDS đã được quy định cụ thể và phù hợp hơn.

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của
đương sự.
1.2 – Việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT
Trước đây do các văn bản pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định việc thay đổi,
hủy bỏ BPKCTT nên trong thực tiễn áp dụng đã có những trường hợp toà án áp dụng
BPKCTT sai, không phù hợp, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của bên
đương sự bị áp dụng nhưng vẫn không thay đổi, hủy bỏ được BPKCTT đó. Hiện nay,
BLTTDS đã quy định việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT mà toà án áp dụng để bảo vệ
quyền lợi cho đương sự. Thẩm quyền xem xét để ra quyết định thay đổi, hủy bỏ
BPKCTT được quy định cụ thể tại Điều 100 BLTTDS. Theo điều luật này nếu yêu
cầu thay đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT được đưa ra vào thời điểm trước khi mở phiên
toà thì thẩm quyền quyết định sẽ do một thẩm phán thực hiện. Nếu yêu cầu đó đưa ra
vào thời điểm tại phiên toà thì thẩm quyền xem xét, quyết định sẽ do hội đồng xét
xử. Các quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, toà án phải thông báo quyết định
này tới các chủ thể liên quan.
a - Về thay đổi
Theo quy định tại điều 121 BLTTDS và theo mục 10 Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
thì thủ tục thay đổi BPKCTT cũng tương tự như thủ tục áp dụng BPKCTT đã nêu ở
trên ( trong Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao là các mục 5,6,7) tuy nhiên cần lưu ý:
5


Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn yêu cầu tòa án thay
đổi BPKCTT có lợi cho bị đơn thì tòa án cần chấp nhận ngay đơn yêu cầu của họ.
Trong trường hợp này nếu xét thấy yêu cầu áp dụng BPKCTT của họ là đúng không
gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì khi quyết
định thay đổi BPKCTT tòa án quyết định cho họ được nhận lại một phần hoặc toàn
bộ kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá hoặc số tiền đảm bảo mà họ đã gửi giữ tại

ngân hàng theo quyết định của tòa án ( đối với trường hợp khi thay đổi BPKCTT họ
phải thực hiện biện pháp bảo đảm ít hơn biện pháp bảo đảm mà họ đã thực hiện ).
Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn xin thay đổi
BPKCTT mà việc thay đổi đó không có lợi cho bị đơn hoặc có đơn xin tòa án áp
dụng bổ sung BPKCTT khác, thì tòa án yêu cầu họ phải trình bày rõ trong đơn lý do
xin thay đổi hoặc áp dụng bổ sung BPKCTT khác và cũng phải cung cấp các tài liệu
cần thiết chứng minh cho yêu cầu của mình là chính đáng.
b - Về hủy bỏ ( điều 122)
Người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn đề nghị tòa án hủy bỏ
Người phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có người khác
thực hiện BPBĐ thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu.
Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của BLDSKhi thi hành
quy định tại điều 122 của BLTTDS cần lưu ý:
Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn yêu cầu tòa án hủy bỏ
BPKCTT thì tòa án phải chấp nhận ngay đơn yêu cầu của họ. Trong trường hợp này,
nếu xét thấy yêu cầu áp dụng BPKCTT của họ là đúng thì khi quyết định hủy bỏ
BPKCTT tòa án quyết định cho họ được nhận lại toàn bộ số tiền bảo đảm mà họ đã
gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của tòa án.
Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho
người bị áp dụng BPKCTT, cho người thứ ba nhưng người bị thiệt hại không có yêu
cầu bồi thường thì tòa án quyết định cho người yêu cầu được lấy lại toàn bộ số tiền
bảo đảm mà họ gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của tòa án.
Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, có gây thiệt hại
cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba mà người bị gây thiệt hại có
đơn yêu cầu bồi thường với số tiền thấp hơn số tiền bảo đảm được gửi giữ tại ngân
hàng theo quyết định của tòa án thì tòa án quyết định cho người yêu cầu được lấy lại
số tiền vượt quá mức người bị gây thiệt hại yêu cầu bồi thường.
III, NHỮNG HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG,
THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở TÒA ÁN
CẤP PHÚC THẨM, SƠ THẨM

BPKCTT là công cụ quan trọng của tòa án giải quyết các vụ việc dân
sự, tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì các quy định về BPKCTT đã
nảy sinh nhiều bất cập, không phù hợp dẫn đến việc giải quyết không hiệu
quả các vụ án dân sự. Sau đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về vấn đề này:
Thứ nhất, cần có những quy định phân nhóm các BPKCTT được quy định
trong điều 102, BLTTDS để thuận tiện hơn trong việc áp dụng. Việc phân
6


nhóm các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể dựa vào những tiêu chí khác
nhau để phân thành nhóm BPKCTT. Tuy nhiên, thiết nghĩ nên phân nhóm
các BPKCTT dựa theo tiêu chí xác định mục đích của biện pháp khẩn cấp
tạm thời cần được áp dụng. Có như vây, thì các biện pháp khẩn cấp tạm thời
sẽ được quy định một cách khoa học, đầy đủ và cụ thể. Mặt khác, khoản 13,
điều 102 của BLTTDS quy định một cách tương đối mở nhưng lại chưa cụ
thể, vì vậy nên quy định theo hướng toà án có quyền áp dụng các BPKCTT
khác mà pháp luật có quy định và cả những BPKCTT khác mà pháp luật
chưa có quy định nếu không trái với các quy định của Bộ luật này.
Thứ hai, điều 99, BLTTDS quy định, đương sự chỉ có quyền yêu cầu tòa án
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu họ khởi kiện dân sự. Trong thực
tế thì có nhiều trường hợp, đương sự chỉ muốn yêu cầu tòa án áp dụng ngay
biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản, nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của mình mà không muốn khởi kiện vì những lý do nhất định. Trên thế
giới thì hầu hết các nước đều quy định cho phép đương sự có quyền yêu cầu
tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ trước khi khởi kiện và độc lập
với việc khởi kiện vụ án dân sự. Thiết nghĩ BLTTDS nên có quy định cho
phép đương sự có quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT trước khi tòa án
khởi kiện, phải coi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một loại việc dân
sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa

Thứ ba, theo quy định tại khoản 3, điều 117 BLTTDS, thì trong thời gian ba
ngày hoặc 48 giờ tùy từng trường hợp cụ thể thẩm phán ra quyết định áp
dụng BPKCTT vẫn là quá dài, không đáp ứng được tính khẩn cấp. Bởi đối
với những biện pháp phong tỏa về tài khoản, tài sản thì đương sự có khả năng
bị áp dụng BPKCTT này chỉ cần một thời gian rất ngắn để rút tiền hoặc tẩu
tán tài sản. Vì vậy trong trường hợp này BLTTDS nên quy định ngắn hơn về
thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT. Đặc biệt nên quy định trong những
trường hợp cấp bách đương sự có thể yêu cầu toà án ra ngay quyết định áp
dụng các BPKCTT. Kể cả trong ngày lễ, ngày nghỉ đương sự vẫn có quyền
yêu cầu toà án áp dụng các BPKCTT. Dựa vào yêu cầu của đương sự, thẩm
phán sẽ ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT nếu xét thấy cần thiết.
Thứ tư, cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều kiện áp dụng của
một số BPKCTT cụ thể:
- Khoản 1 Điều 102 BLTTDS quy định BPKCTT áp dụng đối với người chưa
thành niên. Dễ thấy, ngoài đối tượng là người chưa thành niên thì người mắc
bệnh tâm thần và mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và làm chủ
hành vi của mình cũng rất cần được toà án áp dụng biện pháp này. Vậy cần
bổ sung vào khoản 1 Điều 102 BLTTDS quy định giao người mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành
vi của mình cho cá nhân,tổ chức trông nom nuôi dưỡng nếu việc giải quyết
vụ án có liên quan đến họ mà chưa có người giám hộ.
- Về BPKCTT kê biên tài sản đang tranh chấp: thực tế cho thấy nếu kê biên
tài sản chỉ được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp như quy định tại điều
108 thì phạm vi áp dụng quá hẹp, dẫn đến hiệu quả của biện pháp này còn
7


hạn chế. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả thi hành án của đương sự có nghĩa vụ,
BPKCTT kê biên cần được áp dụng cho một số tài sản nữa hợp lý của đương
sự chứ không chỉ riêng có tài sản đang tranh chấp

Thứ năm, khoản 1, điều 122 BLTTDS chỉ quy định ra 3 trường hợp tòa
án ran gay quyết định hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng nhưng trên thực tiễn
xét xử có những trường hợp phải hủy bỏ ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời
đã được áp dụng, nhưng các thẩm phán không có căn cứ pháp luật để thực
hiện, như trường hợp sau khi áp dụng BPKCTT, tòa án phải ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại các điểm c, d, e, g khoản 1
điều 192 BLTTDS mà người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đề nghị hủy
bỏ BPKCTT đã được áp dụng. Bởi vậy, cần bổ sụng thêm vào khoản 1, điều
122 BLTTDS các trường hợp này
Thứ sáu, cần có những quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của tòa án.
Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của toà án được quy
định tại khoản 2 Điều 102 BLTTDS, nhưng các căn cứ này mới chỉ đề cập
đến trách nhiệm của toà án khi áp dụng không đúng BPKCTT mà chưa đề
cập đến trách nhiệm của toà án trong trường hợp toà án đã không ra hoặc
chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trong thực tế, việc toà án đã không ra
hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT có thể gây thiệt hại không nhỏ
cho đương sự. Vì vậy, để xác định được đầy đủ hơn trách nhiệm của toà án,
cần bổ sung vào khoản 2 Điều 102 BLTTDS thêm một căn cứ nữa, đó là toà
án phải bồi thường thiệt hại cho người đưa ra yêu cầu nếu toà án có lỗi trong
việc không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho
người bị áp dụng hoặc người thứ ba.
Thứ bảy, theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật TTDS thì tại phiên tòa,
nếu Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT mà thuộc
trường hợp bắt buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì HĐXX chỉ ra
quyết định áp dụng BPKCTT khi người yêu cầu xuất trình chứng cứ đã thực
hiện xong biện pháp bảo đảm. Nhưng việc dự kiến và tạm tính thiệt hại có
thể phát sinh không hề đơn giản như đã nói trên. Mặt khác, để đương sự thực
hiện biện pháp bảo đảm thì cũng cần đòi hỏi phải có một khoảng thời gian
nhất định nên không thể tiếp tục việc xét xử được. Bộ luật TTDS không có
quy định trong trường hợp này, do đó, cần quy định cụ thể các căn cứ để

ngừng việc xét xử, trong đó có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
áp dụng BPKKTT tại phiên tòa.
Thứ tám, Điều 121 BLTTDS về thay đổi, áp dụng BPKCTT quy định rằng:
“Khi xét thấy biện BPKCTT đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần
thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung BPKCTT khác thì thủ tục thay đổi,
áp dụng bổ sung BPKCTT khác được thực hiện theo quy định tại Ðiều 117
của Bộ luật này”. Tuy nhiên , điều 117 lại không đặt ra trường hợp nào là
thay đổi, trường hợp nào là bổ sung BPKCTT, ngay cả nghị quyết 02/2005
cũng vẫn chưa hướng dẫn về vấn đề này. Thay đổi BPKCTT theo tinh thần
điều 121 cần được hiểu là bằng một hoặc nhiều BPKCTT khác thay cho
8


BPKCTT đã áp dụng không còn hiệu lực, như vậy sẽ tránh sự nhầm lẫn hay
tùy tiện trong việc ra quyết định thay đổi và quyết định bổ sung BPKCTT
Thứ chín, Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật TTDS thì tại phiên
tòa, nếu Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT mà thuộc
trường hợp bắt buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì HĐXX chỉ ra
quyết định áp dụng BPKCTT khi người yêu cầu xuất trình chứng cứ đã thực
hiện xong biện pháp bảo đảm. Nhưng việc dự kiến và tạm tính thiệt hại có
thể phát sinh không hề đơn giản như đã nói trên. Mặt khác, để đương sự thực
hiện biện pháp bảo đảm thì cũng cần đòi hỏi phải có một khoảng thời gian
nhất định nên không thể tiếp tục việc xét xử được. Bộ luật TTDS không có
quy định trong trường hợp này, do đó, cần quy định cụ thể các căn cứ để
ngừng việc xét xử, trong đó có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
áp dụng BPKKTT tại phiên tòa.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như đã phân tích ở trên thì có thể thấy được vị trí và vai trò rất quan trọng
của chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật TTDS. Thực tiễn

áp dụng chế định này tại hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đã nói lên điều
đó. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của xã hội cũng như điều kiện khách
quan thh́ một số quy định của pháp luật TTDS về vấn đề này còn có những
hạn chế và bất cập nhất định. Thiết nghĩ trong thời gian tới, pháp luật TTDS
sẽ có những thay đổi nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của
pháp luật về vấn đề này

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
3. Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một ố quy định tại chương
VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
4. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự : Nguyễn Thanh Mai
Khoá luận tốt nghiệp trường đại học luật Hà Nội, 2011
5. Bàn về các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự / Trần Phương Thảo // Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 5/2011
6. Kiến nghị đối với các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng dân sự / Nguyễn Văn Lin, Nguyễn Thị Hạnh // Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp. Văn phòng Quốc hội, Số 6/2011
7. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng / Lê
Vĩnh Châu // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 3/2011
Cùng một số trang thông tin điện tử:
/> /> />
10



MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1

I, KHÁI QUÁT VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI:

1

1,Khái niệm của chế định BPKCTT trong TTDS:
2, Ý nghĩa, mục đích của biện pháp khẩn cấp tạm thời:

1
1

2
3, Các BPKCTT cụ thể được quy định trong pháp luật TTDS:
II, VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BPKCTT Ở TÒA ÁN Ở CẤP 2
SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM

1.1 – Ở tòa án cấp sơ thẩm
1.1 - Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
a . Đối tượng có quyền yêu cầu và điều kiện áp dụng BPKCTT
b. Về điều kiện áp dụng
c . Thời điểm và thẩm quyền áp dụng BPKCTT
d .Thủ tục áp dụng BPKCTT
1.2 – Việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT

a .Về thay đổi
b .Về hủy bỏ ( điều 122)

2
2
2
3
3
3
4
4
5

III, NHỮNG HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG,
6
THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở TÒA ÁN
CẤP PHÚC THẨM, SƠ THẨM

11


12



×