Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.62 KB, 14 trang )

Phân tích các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực
hiện
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những chế định pháp lý có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng dân sự. Chế định pháp lý này ghi nhận về biện pháp tố tụng tương đối
đặc biệt, được Tòa án sử dụng kết hợp với các biện pháp tố tụng khác như chứng
minh, hòa giải... nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án
dân sự. Để tìm hiểu quy định của pháp luật về quy định của pháp luật về áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT em xin lựa chọn đề tài:“Phân tích các quy định của pháp
luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm,
phúc thẩm và thực tiễn thực hiện.”
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI.
1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình tò tòa án giải quyết vụ việc dân sự thì đôi khi tòa án phải quyết định
áp dụng một hoặc một số biện pháp cần thiết để giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm thi hành án. Các biện pháp này được
gọi là Biện pháp khẩn cấp tạm thời: “ Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp mà
tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết
nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc
bảo đảm việc thi hành án”
2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời


Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng
tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc bảo vệ kịp thời cac quyền và lợi
ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn
định được cuộc sống cũng như những người sống phụ thuộc vào họ.
Thực tế vì những xung đột lợi ích nên có những vụ việc đương sự đã tẩu tán tài sản,
hủy hại chứng cứ… nhằm gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó,


việc áp dụng BPKCTT sẽ nhằm ngăn chặn các hành vi nêu trên, bảo vệ chứng cứ,
giữ nguyên được giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc
dân sự được chính xác, bảo vệ quyền lợi của đương sự. Mặt khác qua đó còn bảo
đảm được tình trạng tài sản, tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ
được tài sản bảo đảm cho việc thi hành án sau này. Ngoài ra, áp dụng BPKCTT còn
góp phần bảo đảm an toàn, trật tự xã hội.
3. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại Điều 102 BLTTDS thì có 12 BPKCTT được áp dụng trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự đó là: Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc
tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (Điều 103 BLTTDS); Buộc
thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 104); Buộc thực hiện trước một
phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm (Điều 112);
Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án
có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án (Điều
113); Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải
quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án (Điều
114). Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định (Điều 115) và các biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.


II. Quy định của pháp luật về về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm.
1. Tòa án sơ thẩm

1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Việc áp dụng BPKCTT là nhằm bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự nên quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đối tượng có quyền yêu cầu áp dụng

BPKCTT được quy định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung
năm 2011 và Điều 1 Nghị quyết 02/2005 thì những chủ thể này bao gồm:
+ Các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự;
+ Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Như các cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; Hội liên hiệp
phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân
và gia đình quy định; Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án lao
động trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động
do Bộ luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định.
Ngoài ra, Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT trong trường hợp
đương sự không có yêu cầu áp dụng BPKCTT đối với một số biện pháp quy định tại
khoản 1,2,3,4,5 Điều 102 BLTTDS (Điều 119BLTTDS).
1.2. Thời điểm được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 99 BLTTDS thì ngoài được khởi kiện trong quá
trình giải quyết vụ án còn được nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT trong trường


hợp do tình thế khẩn cấp, cần bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm
trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng
ngay BPKCTT vào cùng thời điểm nộp đơn khởi kiện (trước khi tòa án thụ lý vụ
án). Đây chính là điểm tiến bộ và cũng là điểm mới của BLTTDS năm 2004 so với
quy định PLTTGQVADS năm 1989 trước đây.
1.3. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT được xác định theo
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 100 BLTTDS thì:
Trước khi mở phiên tòa, việc giải quyết một vụ án dân sự do một thẩm phán tiến
hành nên việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT do một thẩm phán xem xét, quyết
định. Tại phiên tòa, việc giải quyết vụ án do Hội đồng xét xử tiến hành nên việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
1.3.1. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

- Thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp phải có đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 117 BLTTDS thì người yêu cầu áp dụng BPKCTT
phải gửi đơn đến tòa án có thẩm quyền. Nội dung của đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT phải có các nội dung chính quy định tại khoản 1 Điều 117 và kèm theo
đơn yêu cầu, người yêu cầu còn phải cung cấp chứng cứ, tài liệu chứng minh cho sự
cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó. Ta thấy, chính quy định này đã hạn chế được
tình trạng đưa ra yêu cầu không có căn cứ và giúp Tòa án có cơ sở đầy đủ để ra
quyết định áp dụng BPKCTT một cách nhanh chóng nhằm đạt được hiệu quả cao
khi ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Trong trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ án (kể từ
thời điểm Toà án thụ lý vụ án). Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 BLTDS và Mục


5 Nghị quyết 02/ 2005 hướng dẫn khoản 2 Điều 117 BLTTDS thì Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Thẩm phán phải xem xét người
yêu cầu có thuộc một trong các đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 99
BLTTDS hay không. Nếu không đúng đối tượng hoặc không đúng lý do yêu cầu, thì
Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu cho họ. Nếu đúng đối tượng, đúng lý do yêu cầu, thì
Thẩm phán tiếp tục xem xét, giải quyết.
Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu:
+ Nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi
người đó thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 của BLTTDS Thẩm
phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời;
+ Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn
bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
Trong trường hợp tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận được yêu cầu áp dụng
BPKCTT theo quy định tại khoản 2 Điều 117 BLTTDS và tiểu mục 5.5 Nghị quyết
05/2005 hướng dẫn khoản 2 Điều 117 BLTTDS thì Hội đồng xét xử phải xem xét

đơn và các chứng cứ kèm theo, hỏi ý kiến của người yêu cầu và người bị yêu cầu áp
dụng BPKCTT, thảo luận và thông qua tại phòng xử án.
Trong trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT được thực hiện cùng với đơn khởi
kiện. Theo quy định của khoản 2 Điều 99 thì trong một số trường hợp chủ thể có
quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT có thể nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT đồng
thời với đơn khởi kiện như do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải giải quyết ngay,
không chậm trễ; cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng
cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được;
ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra.


Đối với các trường hợp này thì theo quy định tại khoản 3 Điều 117 BLTTDS và 6
Nghị quyết 02/2005 hướng dẫn khoản 3 Điều 117 BLTTDS thì đối với yêu cầu áp
dụng BPKCTT nộp cùng đơn khởi kiện thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với
đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo Chánh án Tòa án chỉ định một thẩm phán thủ
lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu
cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm
theo để xác định đơn khởi kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Toà án
mà họ yêu cầu áp dụng BPKCTT hay không:
+ Nếu thuộc thẩm quyền thì tiếp tục xem xét giải quyết đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT thì thủ tục được thực hiện tương tự như đối với trường hợp đơn yêu cầu
áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ án (hướng dẫn tại các tiểu mục 5.2,
5.3 và 5.4 mục 5 Nghị quyết 02/2005). Trong trường hợp tòa án ra quyết định áp
dụng BPKCTT là phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc
nhà nước, phong tỏa tài khoản phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ thì tài
khoản, tài sản được phong tỏa phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà
người bị áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện. Trường hợp thẩm phán
không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT thì phải thông báo bằng văn bản cho
người yêu cầu biết và trong đó có nêu rõ lý do của việc không chấp thuận .
+ Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng

BPKCTT và các chứng cứ kèm theo cho họ.
- Thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp tòa án tự mình ra quyết định áp dụng
BPKCTT.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 99 và Mục 3 Nghị quyết 02/2005 hướng dẫn khoản
3 Điều 99 BLTTDS và Điều 119 BLTTDS thì: Toà án tự mình ra quyết định áp dụng
BPKCTT quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 BLTTDS trong trường hợp
đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do vậy, khác với


trường hợp áp dụng BPKCTT khi có đơn yêu cầu thì trường hợp này không có bước
nhận đơn cũng như xem xét yêu cầu.
Trong quá trình xem xét giải quyết thì Tòa án phải lưu ý không được tự mình áp
dụng BPKCTT không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 119
BLTTDS; không áp dụng các BPKCTT vượt quá yêu cầu cần áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nếu thực hiện không đúng quy
định này mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì Tòa
án phải bồi thường (khoản 2 Điều 101 BLTTDS).
1.3.2. Thủ tục thay đổi, hủy bỏ BPKCTT
- Về thủ tục thay đổi: Theo quy định tại Điều 121 BLTTDS và hướng dẫn tại Mục
10 Nghị quyết 02/2005 thì thủ tục yêu cầu và xem xét quyết định về việc thay đổi
BPKCTT được thực hiện như thủ tục áp dụng BPKCTT.
Trong hợp người có đơn yêu cầu thay đổi BPKCTT mà không phải thực hiện biện
pháp bảo đảm hoặc thực hiện ít hơn biện pháp bảo đảm mà họ đã thực hiện, thì Tòa
án quyết định cho họ nhận lại toàn bộ hoặc một phần khoản tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc giấy tờ có giá mà họ đã nộp, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT
không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng và người thứ ba.
Trong trường hợp người yêu cầu có đơn xin thay đổi BPKCTT mà việc thay đổi đó
không có lợi cho người bị áp dụng thì Tòa án yêu cầu họ phải trình bày rõ trong đơn
lý do xin thay đổi hoặ áp dụng bổ sung BPKCTT khác và cũng phải cung cấp tài
liệu cần thiết chứng minh cho yêu cầu của mình là chính đáng.

- Về thủ tục hủy bỏ BPKCTT: Theo quy định tại Điều 122 BLTTDS thì Toà án ra
ngay quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi có một
trong các trường hợp sau đây: Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
đề nghị huỷ bỏ; Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm


thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ
đối với bên có yêu cầu; Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy
định của Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp hủy bỏ BPKCTT, Tòa án phải xem xét, quyết định để người yêu
cầu áp dụng BPKCTT nhận lại khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá
khi thực hiện biện pháp bảo đảm và khi áp dụng quy định quy định tại Điều 120, trừ
trường hợp: Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường (khoản
1 Điều 101 BLTTDS)
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT có hiệu lực thi hành ngay. Khi ban
hành quyết định này, Tòa án gửi ngay quyết định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan, cơ quant hi hành án dân sự có thẩm quyền và Viện Kiểm sát cùng cấp. Cơ
quan thi hàn án chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
1.4. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Theo quy định tại Điều 124 BLTTDS thì đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm
sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án giải quyết vụ án về quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc việc thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ BPKCTT. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 3 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc trả lời của Thẩm
phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 125 BLTTDS và Mục 11 Nghị quyết 02/2005

hướng dẫn 125 BLTTDS thì trong trường hợp có khiếu nại của đương sự, kiến nghị
của Viện kiểm sát thì Chánh án Tòa án phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị
trước khi mở phiên tòa trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu


nại, kiến nghị. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết
định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123
BLTTDS.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 125 BLTTDS và Mục 12 Nghị định 02/2005 thì
trong trường hợp tại phiên tòa thì việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm
quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội
đồng xét xử là quyết định cuối cùng.
+ Nếu tại phiên tòa đương sự, Viện kiểm sát có yêu cầu giải quyết khiếu nại, kiến
nghị đó, thì Hội đồng xét xử không chấp nhận và giải thích cho đương sự biết là họ
có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT; hủy bỏ
BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT.
+ Nếu đương sự có khiếu nại, Viện kiểm sát có kiến nghị về quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của Hội đồng xét xử hoặc việc Hội đồng xét xử không ra
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử
xem xét, thảo luận và thông qua tại phòng xử án.
+ Nếu không chấp nhận khiếu nại, kiến nghị thì không phải ra quyết định bằng văn
bản nhưng phải thông báo công khai tại phiên tòa việc không chấp nhận khiếu nại,
kháng cáo và nêu rõ lý do và phải ghi vào biên bản phiên tòa. Nếu chấp nhận khiếu
nại, kháng cáo thì phải ra quyết định bằng văn bản. Tóa án phải cấp hoặc gửi quyết
định này theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTDS.
1.5. Trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng.
Theo quy định tại Điều 101 BLTTDS nếu việc áp dụng BPKCTT không đúng làm
ảnh hưởng đến quyền lợi, lợi ích của người bị áp dụng thì trách nhiệm sẽ thuộc về
chính người có yêu cầu áp dụng BPKCTT. Cụ thể:



- Trường hợp người có yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho
người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì họ phải chịu trách nhiệm về việc thực
hiện quyền yêu cầu đó (khoản 1 Điều 101 BLTTDS).
- Trường hợp Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT không đúng mà gây
thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường trong
các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 101 BLTTDS và Mục 4 Nghị quyết
02/2005: Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan,
tổ chức có yêu cầu; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Tòa án chỉ bổi
thường phần vượt quá).
2. Tòa án phúc thẩm
Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở tòa án Phúc thẩm được quy định tại Điều
261 BLTTDS: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có
quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định
tại Chương VIII của Bộ luật này”. Về cơ bản các quy định tại chương VIII BLTTDS
là những quy định nhằm áp dụng cho giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.
Do đó trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nếu
có yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT thì việc xem xét, giải quyết được
thực hiện theo quy định tại các điều tương ứng của chương VIII BLTTDS về các
biện pháp khẩn cấp tạm thời và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2005 của HĐTP TANDTC như trình bày ở trên.
Trong trường hợp đương sự kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm mà trong đơn
kháng cáo hoặc kèm theo đơn kháng cáo, đương sự khiếu nại quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của tòa án sơ thẩm thì tòa án phúc thẩm thông báo ngay
cho người yêu cầu là tòa án phúc thẩm không có quyền giải quyết khiếu nại và giải
thích cho họ có quyền yêu cầu tòa án phúc thẩm thay đổi, áp dụng bổ sung


BPKCTT, hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT

theo quy định chung của BLTTDS và hướng dẫn trong Nghị quyết 02/2005.
III. Thực tiễn thực hiện quy định về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời.
1. Những thành tựu đạt được
- Phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT có sự mở rộng hơn so với
pháp lệnh trước đây. Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS thì ta thấy BLTTDS
không chỉ tạo cơ hội cho các đương sự tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình mà còn cho đương sự cơ hội được một chủ thể khác như cơ quan, tổ chức, Tòa
án bảo vệ thông qua yêu cầu áp dụng BPKCTT .
- Với quy định mới cho phép người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT được yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng với thời điểm nộp đơn khởi kiện sẽ
giúp đương sự có thêm cơ hội để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của mình.
- Thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định của BLTTDS và văn
bản hướng dẫn thì tùy vào từng thời điểm tố tụng trong giải quyết vụ án, có thể là
Chánh án phân công giải quyết vụ án dân sự (đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT sau
khi đã thụ lý nhưng trước phiên tòa xét xử), Hội đồng xét xử nếu tại phiên tòa.
2. Những bất cấp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ BPKCTT
- Về vấn đề chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT thì chưa có sự thống nhất
về quy định của pháp luật. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 99 BLTTDS quy định cơ
quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác theo luật định có quyền yêu cầu
tòa án áp dụng BPKCTT trong khi Điều 118 BLTTDS lại quy định thừa nhận cơ
quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác theo luật định có quyền kiến nghị


Tòa án áp dụng BPKCTT. Chính điều này đã làm cho các chủ thể này không nắm
được là sẽ phải làm đơn yêu cầu hay văn bản kiến nghị Tòa án áp dụng BPKCTT.
Bên cạnh đó, việc không quy định thống nhất này dẫn tới một vướng mắc về trách
nhiệm bồi thường khi yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, cụ thể là nếu cơ quan,
tổ chức gửi đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT không đúng và gây thiệt hại thì

phải bồi thường. Nhưng nếu là kiên nghị Tòa án thì cơ quan, tổ chức này không
phải bồi thường (Điều 118 không quy định trách nhiệm bồi thường trong trường
hợp này). Do đó, Điều 99 và Điều 118 BLTTDS cần phải sửa đổi để có quy định
một cách thống nhất về quyền yêu cầu của cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền
lợi và lợi ích cho người khác.
- Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ cho phép thời điểm được yêu
cầu áp dụng BPKCTT sau khi khởi kiện và sớm nhất là cùng với đơn khởi kiện
(Điều 99 BLTTDS). Thực tế có nhiều trường hợp, đương sự chỉ muốn yêu cầu tòa
án áp dụng ngay một biện pháp KCTT để bảo toàn tài sản và bảo vệ quyền và lợi
ích của mình mà không muốn khởi kiện hoặc sau đó, họ tự giải quyết được tranh
chấp nên không khởi kiện. Tuy nhiên với quy định trên để Tòa án ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ khi các đương sự phải khởi kiện, kể cả trường
hợp họ không muốn. Do đó phải chăng nên thừa nhận quyền yêu cầu tòa án áp dụng
BPKCTT của đương sự khi họ không khởi kiện và coi yêu cầu này là một loại việc
dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Thủ tục xem xét, ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định tại Điều 117
BLTTDS không có quy định về thủ tục gửi quyết định không áp dụng BPKCTT
sang cho Viện kiểm sát và khoản 2 Điều 123 BLTTDS chỉ quy định việc gửi quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT sang cho viện kiểm sát. Như vậy, nếu Tòa
án không ra quyết định áp dụng BPKCTT thì VKS sẽ không thể kiểm sát được là
việc không ra quyết định đó của Tòa án là đúng hay không. Cụ thể: khoản 2 Điều
117 chỉ quy định trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT thì
Thẩm phán phải thông báp bằng văn bản cho người yêu cầu biết nhưng lại không có
quy định phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát. Do đó, Viện kiểm sát khó


có thể thực hiện được quyền kiến nghị về việc Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
BPKCTT theo Điều 124 BLTTDS. Để đảm bảo tính minh bạch, khách quan của
việc giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT thì bộ luật tố tụng dân sự nên bổ sung
quy định về việc phải thông báo cho Viện kiểm sát biết về việc không ra quyết định

áp dụng BPKCTT.
- Về căn cứ hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thực tiễn xét
xử cho thấy có những trường hợp cần hủy bỏ ngay BPKCTT đã áp dụng nhưng các
Thẩm phán không có căn cứ pháp luật để thực hiện, như trường hợp sau: Khi đã áp
dụng BPKCTT rồi sau đó Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo
quy định tại các điểm c, d, e, g khoản 1 Điều 192 BLTTDS mà người yêu cầu áp
dụng BPKCTT không yêu cầu hủy bỏ BPKCTT đã áp dụng. Do vậy, cần bổ sung
khoản 1 Điều 122 BLTTDS về trường hợp này.
- Về trách nhiệm của Tòa án trong áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án sẽ
phải bồi thường trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 101 BLTTDS. Tuy
nhiên, các căn cứ này chỉ đề cập thới trách nhiệm của Tòa án khi áp dụng BPKCTT
không đúng gây thiệt hại, do đó, các trường hợp Tòa án không ra quyết định, chậm
ra quyết định áp dụng BPKCTT thì trách nhiệm của Tòa án trong các trường hợp
này như thế nào. Do vậy, để xác định đầy đủ trách nhiệm của Tòa án cần bổ sung
khoản 2 Điều 101 BLTTDS thêm căn cứ nữa đó là: “Tòa án phải bồi thường thiệt
hại cho người đưa ra yêu cầu, nếu tòa án có lỗi trong việc không ra quyết định hoặc
chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT
hoặc người thứ ba”.
- Việc áp dụng BPKCTT trong thời gian tạm đình chỉ vụ việc dân sự. Hiện nay đang
tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng Tòa án vẫn
được ra quyết định áp dụng BPKCTT trong thời hạn tạm đình chỉ vụ án. Quan điểm
thứ hai, Tòa án không được ra quyết định áp dụng BPKCTT trong trường hợp nêu
trên . Theo quan điểm cá nhân em cho rằng Tòa án vẫn có thể ra quyết định áp dụng


BPKCTT để đáp ứng nhu cầu cấp bách, kịp thời đối với yêu cầu của đương sự và
cho chính vụ việc đang giải quyết.
KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thự hiện.Chúng ta thấy

rằng, mặc dù BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011 quy định khá cụ thể và được hướng
dẫn trong Nghị định 02/2005, tuy nhiên thực tế khi áp dụng vẫn còn gặp một số
vướng mắc như phần bài làm phía trên em đã trình bày.



×