Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích các quy định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.67 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) là một trong những chế
định pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự trong TTDS. Chế định pháp lý này ghi nhận về biện pháp tố tụng tương
đối đặc biệt, được tòa án sử dụng kết hợp với các biện pháp tố tụng khác như chứng
minh hòa giải ...nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân
sự. Như vậy có thể thấy chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong TTDS là một
bước tiến mới phản ánh một nền tố tụng dân chủ, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
giải quyết tranh chấp dân sự là tính nhanh chóng và sự bảo đảm an toàn pháp lý cho
các bên đương sự trong việc bảo vệ quyền lợi của họ. Vì vậy có thể thấy hiểu các quy
định của pháp luật về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm có ý nghĩa rất lớn đến việc giải quyết vụ án một cách
nhanh chóng, chính xác, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

NỘI DUNG
I.BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI-MỘT CHẾ ĐỊNH QUAN TRỌNG TRONG
PHÁP LUẬT TTDS
1. Khái niệm, ý nghĩa của chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong TTDS
a. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình giải quyết một vụ án dân sự nói chung, phía nguyên đơn (cá
nhân, tổ chức) có quyền yêu cầu tòa án, nơi đang giải quyết vụ án đó áp dụng một
hoặc nhiều biện pháp gọi là “biện pháp khẩn cấp tạm thời” – theo thủ tục, trình tự mà
BLTTDS đã quy định để giải quyết tạm thời yêu cầu cấp bách của mình, bảo vệ
chứng cứ, bảo vệ tình trạng hiện có của đối tượng đang tranh chấp, tránh việc có thể
gây ra những thiệt hại không đáng có và không thể khắc phục được hoặc bảo đảm
cho việc thi hành án khi phiên tòa xét xử kết thúc xét xử. Thậm chí, trong trường hợp
do tình thế khẩn cấp cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm
trọng có thể xảy ra, nguyên đơn có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án ra quyết định áp
dụng ngay BPKCTT đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện. Giải thích một cách cụ
thể hơn, chế định BPKCTT trong PLTTDS ghi nhận cách thức giải quyết tạm thời
của tòa án khi vụ việc dân sự có tính khẩn cấp, theo đó tòa án sẽ nhanh chóng quyết


định áp dụng ngay giải pháp trước mắt theo quy định của pháp luật trên cơ sở có yêu
cầu khẩn cấp của chủ thể có quyền, lợi ích theo pháp luật hoặc do chính tòa án xét
1


thấy cần thiết để tạm thời giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, để bảo vệ ngay
bằng chứng, tài sản, bảo đảm cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ việc dân sự. Quyết định áp dụng BPKCTT không phải là quyết
định cuối cùng giải quyết về nội dung vụ việc dân sự mà chỉ nhằm quyết định tạm
thời cho tình trạng khẩn cấp của vụ việc dân sự. Quyết định này sẽ hết hiệu lực pháp
luật khi tòa án ra bản án, quyết định chính thức giải quyết nội dung vụ việc dân sự
BPKCTT có những đặc điểm khác với các biện pháp khác mà tòa án áp dụng trong
quá trình giải quyết vụ án đó là:
- BPKCTT có thể được áp dụng trước khi thụ lý vụ việc dân sự, còn tất cả các
biện pháp, quyết định khác chỉ có thể được áp dụng sau khi tòa án đã thụ lý.
- BPKCTT luôn mang trong nó hai tính chất, đó là tính khẩn cấp và tính tạm
thời. Tính khẩn cấp của biện pháp này thể hiện ở chỗ tòa án phải ra quyết định áp
dụng ngay BPKCTT và được thực hiện ngay sau khi tòa án ra quyết định áp dụng,
nếu không sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế. Tính tạm thời của biện pháp này thể
hiện ở chỗ: nó không phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự, nó
chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi ra quyết định áp dụng
BPKCTT, nếu có lý do của việc áp dụng không còn nữa thì tòa án có thể hủy bỏ
quyết định này ngay trong quá trình chuẩn bị xét xử, hoặc khi tòa án ra quyết định
cuối cùng sẽ phải có phán quyết về BPKCTT mà tòa án đã áp dụng.
Vì vậy có thể định nghĩa BPKCTT là biện pháp tòa án quyết định áp dụng
trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu
cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây
thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Việc áp dụng
BPKCTT có thể gây ra thiệt hại về quyền và lợi ích cho bên bị áp dụng và người
khác. Do đó, khi áp dụng BPKCTT phải rất thận trọng, phải thực hiện đúng quy định

của pháp luật.
b. Ý nghĩa và vai trò của chế định BPKCTT
Việc áp dụng BPKCTT với mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự,
bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng để đảm bảo việc thi hành án. Do đó,
việc áp dụng BPKCTT có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời các quyền
và lợi ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự
sớm ổn định được cuộc sống của bản thân cũng như những người sống phụ thuộc vào
họ.
Mặt khác, do những xung đột về lợi ích nên có những vụ việc đương sự đã tẩu
tán tài sản, hủy hoại chứng cứ ... nhằm gây khó khăn cho phía đương sự bên kia trong
2


việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời tạo ra các trở ngại cho
tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Vì thế việc áp dụng BPKCTT trong
trường hợp này góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ chứng cứ, giữ nguyên
được giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được
chính xác. Khi lý do áp dụng BPKCTT không còn thì tòa án có quyền hủy bỏ việc áp
dụng BPKCTT, nó thể hiện sự linh hoạt trong tố tụng sẽ góp phần nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật của công dân.
Các pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự kinh tế, lao động chỉ cho phép
tòa án áp dụng BPKCTT sau khi đã thụ lý vụ án. BLTTDS đã có những quy định mới
cho phép tòa án áp dụng BPKCTT trước khi thụ lý vụ việc dân sự. Sự đổi mới này
trong công tác lập pháp tạo điều kiện cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích của đương
sự được kịp thời, có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cầu của thực tế cuộc sống
2. Các BPKCTT cụ thể được quy định trong pháp luật TTDS
Điều 102 BLTTDS năm 2004 quy định cụ thể 12 biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
tòa án được áp dụng, bao gồm:
- Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục: Đây là trường hợp nếu vụ việc giải quyết vụ án có liên

quan đến người chưa thành niên chưa có người giám hộ
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng: Nếu giải quyết vụ án có
liên quan đến yêu cấu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không
thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, đời
sống của người cấp dưỡng.
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng ,
sức khỏe bị xâm phạm: Được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu
cầu đòi bồi thường thiệc hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm và xét thấy yêu cầu
đó là có căn cứ và cần thiết.
- Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ
cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động: Được áp dụng
nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu trả tiền lương, tiền công, tiền bồi
thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và xét thấy yêu cầu đó là có
căn cứ và cần thiết
-Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động: Được áp dụng nếu
việc giải quyết vụ án có liên quan đến việc sa thải người lao động và xét thấy quyết
định sa thải của người lao động là trái pháp luật hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của người lao động
3


- Kê biên tài sản đang tranh chấp: Được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ
án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại
tài sản. Tài sản bị kê biên có thể được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc
lập biên bản bàn giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi
có quyết định của tòa án. Một điều cần lưu ý là, biện pháp này chỉ áp dụng cho tài sản
đang tranh chấp chứ không phải là tài sản không liên quan
- Cấm dịch chuyển về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp: Được áp dụng nếu
trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ
tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch về tài sản đang tranh chấp cho người

khác
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp: Được áp dụng nếu trong quá
trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang
tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng them hoặc có hành vi khác làm
thay đổi hiện trạng tài sản đó.
- Cho thu hoạch, cho bán rau màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác: được áp dụng
nếu trong quá trình giải quyết vụ án có tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến
tranh chấp mà có hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác ở thời kỳ thu hoạch hoặc
không thể bảo quản lâu dài được
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước;
phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ: Việc phong tỏa tài sản tại ngân hàng, tổ chức tín
dụng khác, kho bạc nhà nước được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án, có
căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác,
kho bạc nhà nước và biện pháp áp dụng này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Còn việc phong tỏa tài sản ở nơi gửi
giữ được áp dụng nếu trong trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người
có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo
đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án
- Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ: Được áp dụng nếu trong quá trình giải
quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thực
hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án
- Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định: Được áp dụng nếu trong
quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng
đến việc giải quyết vụ án hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan
trong vụ án mà tòa đang được tòa án giải quyết
4



Ngoài ra thì tại khoản 13, điều 102, BLTTDS còn có quy định: “Các biện pháp
khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật quy định”, đây là một quy định mở của pháp
luật, nhằm tạo điều kiện để có thể hoàn thiện được pháp luật
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VỀ ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM
1. Ở TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM
1.1 - Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
a . Đối tượng có quyền yêu cầu và điều kiện áp dụng BPKCTT
Đối tượng có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT được quy định tại khoản 1 điều 99
BLTTDS và được hướng dẫn cụ thể tại nghị quyết 02/2005 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC thì những chủ thể này bao gồm đương sự, người đại diện hợp pháp của
đương sự; cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án
về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định;
công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tập thể người lao động do Bộ luật lao động và các văn
bản quy phạm pháp luật khác có liên quan quy định. Việc mở rộng hơn các chủ thể có
quyền yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT đã góp phần bảo vệ kịp thời, đầy đủ hơn các
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS, toà án chỉ xem xét để ra quyết định áp dụng
BPKCTT nếu các chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT đề đạt yêu cầu đó với
toà án. Vì thế thông thường toà án sẽ không tự mình chủ động ra quyết định áp dụng
BPKCTT. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT trong 5 trường hợp quy
định tại Điều 119 BLTTDS. Đây cũng là một quy định mới của BLTTDS bởi theo các
văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây, toà án chủ động tự mình áp dụng tất cả
các biện pháp mà pháp luật có quy định. Chính quy định này của Pháp lệnh đã hạn
chế quyền yêu cầu của đương sự, hạn chế sự nỗ lực của họ trong việc bảo vệ quyền
lợi của mình. BLTTDS quy định toà án ra quyết định áp dụng BPKCTT nếu có yêu
cầu và toà án chỉ chủ động ra quyết định áp dụng BPKCTT trong một số trường hợp
cần thiết đã khắc phục được những hạn chế đó.
b. Về điều kiện áp dụng

- Theo quy định tại nghị quyết số 02/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì chỉ
khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện (đơn khởi
kiện phải được làm theo đúng quy định tại Điều 164 của BLTTDS), thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức mới có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng
BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS: Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải
5


được giải quyết ngay, không chậm trễ; cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong
trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó
có thể thu thập được; ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể là hậu
quả về vật chất hoặc phi vật chất).
- Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể khi có đầy đủ các
điều kiện do BLTTDS quy định đối với BPKCTT đó.
Ví dụ: Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT "Buộc thực hiện trước một
phần nghĩa vụ cấp dưỡng" quy định tại Điều 104 của BLTTDS khi có đầy đủ các điều
kiện sau đây: việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng; xét thấy yêu
cầu cấp dưỡng đó là có căn cứ; nếu không buộc thực hiện trước ngay một phần
nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được cấp
dưỡng; đương sự, người thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự
chưa có điều kiện thực hiện được quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT. Khi tự
mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể, ngoài việc thực hiện đúng quy định
tại điều luật tương ứng của BLTTDS, Toà án cần phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật liên quan để có quyết định đúng.
Tóm lại: Điều kiện để áp dụng BPKCTT chính là do tình thế khẩn cấp, cấp bách cần
phải được giải quyết ngay, nếu không chậm chễ sẽ không đáp ứng được các yêu cầu,
các “đối tượng” cần được bảo vệ nói trên.
c – Thời điểm và thẩm quyền áp dụng BPKCTT
Việc toà án áp dụng BPKCTT có tác dụng giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự,
giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, bảo vệ được bằng chứng, bảo vệ được tài

sản…Vì vậy, việc xác định thời điểm toà án được áp dụng BPKCTT là rất quan
trọng. Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS, BPKCTT có thể được áp dụng trong suốt
quá trình toà án giải quyết vụ việc dân sự. Điều này có nghĩa toà án có thể áp dụng
BPKCTT vào bất cứ thời điểm nào trước và trong khi xét xử. Thậm chí, theo quy
định tại khoản 2 Điều 99, trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần bảo vệ ngay
bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền yêu cầu toà án áp dụng ngay BPKCTT vào cùng thời điểm nộp đơn khởi
kiện. Quy định này của BLTTDS đã tạo ra sự năng động, kịp thời trong việc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho đương sự, đồng thời khắc phục được hạn chế của pháp luật tố
tụng trước đây chỉ cho phép áp dụng các BPKCTT vào thời điểm trước khi xét xử.
Thẩm quyền áp dụng: Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT là tòa
án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án theo quy định tại các điều
33, 34,35 và 36 BLTTDS. Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ

6


BPKCTT do một thẩm phán xem xét quyết định. Tại phiên tòa do Hội đồng xét xử
xem xét quyết định.
d. Thủ tục áp dụng BPKCTT
Người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn gửi đến tòa án giải quyết vụ án dân
sự. Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung được quy định tại khoản 1
điều 117 BLTTDS. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu còn phải cung cấp cho tòa
án các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho sợ cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó.
Chính quy định này sẽ hạn chế tình trạng đưa ra yêu cầu không có căn cứ từ phía
những người có quyền yêu cầu áp dụng các BPKCTT. Đồng thời quy định này cũng
giúp toà án có cơ sở rõ ràng để nhanh chóng ra được quyết định về việc áp dụng
BPKCTT.
Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT trước phiên tòa, thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án phải xem xét quyết định trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu

người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Trong trường hợp người yêu
cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp
bảo đảm, thẩm phán phải ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử xem xét quyết
định áp dụng BPKCTT ngay khi nhận được yêu cầu nếu người yêu cầu không phải
thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc sau khi người yêu cầu thực hiện xong biện pháp
bảo đảm.
Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện cùng với khởi kiện thì sau khi nhận đơn
Chánh án tòa án chỉ định ngay một thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong
thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, thẩm phán phải xem xét và ra
quyết định áp dụng BPKCTT.Trong trường hợp tòa án quyết định áp dụng BPKCTT
là phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước, phong
tỏa tài khoản ở nơi gửi giữ, phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ thì tài khoản, tài
sản được phong tỏa phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp
dụng BPKCTT có nghĩa vụ phải thực hiện.
Đối với những trường hợp thẩm phán không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT thì
phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu biết và trong đó phải nêu rõ lý do của
việc không chấp nhận. Như vậy, so với các quy định trước đây, thủ tục áp dụng các
BPKCTT trong BLTTDS đã được quy định cụ thể và phù hợp hơn. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của đương sự.
1.2 – Việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT
Trước đây do các văn bản pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định việc thay đổi, hủy
bỏ BPKCTT nên trong thực tiễn áp dụng đã có những trường hợp toà án áp dụng
7


BPKCTT sai, không phù hợp, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của bên
đương sự bị áp dụng nhưng vẫn không thay đổi, hủy bỏ được BPKCTT đó. Hiện nay,
BLTTDS đã quy định việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT mà toà án áp dụng để bảo vệ
quyền lợi cho đương sự. Thẩm quyền xem xét để ra quyết định thay đổi, hủy bỏ

BPKCTT được quy định cụ thể tại Điều 100 BLTTDS. Theo điều luật này nếu yêu
cầu thay đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT được đưa ra vào thời điểm trước khi mở phiên toà
thì thẩm quyền quyết định sẽ do một thẩm phán thực hiện. Nếu yêu cầu đó đưa ra vào
thời điểm tại phiên toà thì thẩm quyền xem xét, quyết định sẽ do hội đồng xét xử.
Các quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, toà án phải thông báo quyết định này
tới các chủ thể liên quan.
a. Về thay đổi
Theo quy định tại điều 121 BLTTDS và theo mục 10 Nghị quyết số 02/2005/NQHĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thì thủ tục
thay đổi BPKCTT cũng tương tự như thủ tục áp dụng BPKCTT đã nêu ở trên ( trong
Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao là các mục 5,6,7) tuy nhiên cần lưu ý:
- Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn yêu cầu tòa án thay đổi
BPKCTT có lợi cho bị đơn thì tòa án cần chấp nhận ngay đơn yêu cầu của họ. Trong
trường hợp này nếu xét thấy yêu cầu áp dụng BPKCTT của họ là đúng không gây
thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì khi quyết định
thay đổi BPKCTT tòa án quyết định cho họ được nhận lại một phần hoặc toàn bộ kim
khí quý, đá quý, giấy tờ có giá hoặc số tiền đảm bảo mà họ đã gửi giữ tại ngân hàng
theo quyết định của tòa án ( đối với trường hợp khi thay đổi BPKCTT họ phải thực
hiện biện pháp bảo đảm ít hơn biện pháp bảo đảm mà họ đã thực hiện ).
- Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn xin thay đổi BPKCTT
mà việc thay đổi đó không có lợi cho bị đơn hoặc có đơn xin tòa án áp dụng bổ sung
BPKCTT khác, thì tòa án yêu cầu họ phải trình bày rõ trong đơn lý do xin thay đổi
hoặc áp dụng bổ sung BPKCTT khác và cũng phải cung cấp các tài liệu cần thiết
chứng minh cho yêu cầu của mình là chính đáng.
b. Về hủy bỏ ( điều 122)
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn đề nghị tòa án hủy bỏ
- Người phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có người khác
thực hiện BPBĐ thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu.
- Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của BLDS
Khi thi hành quy định tại điều 122 của BLTTDS cần lưu ý:


8


- Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn yêu cầu tòa án hủy bỏ
BPKCTT thì tòa án phải chấp nhận ngay đơn yêu cầu của họ. Trong trường hợp này,
nếu xét thấy yêu cầu áp dụng BPKCTT của họ là đúng thì khi quyết định hủy bỏ
BPKCTT tòa án quyết định cho họ được nhận lại toàn bộ số tiền bảo đảm mà họ đã
gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của tòa án.
- Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho
người bị áp dụng BPKCTT, cho người thứ ba nhưng người bị thiệt hại không có yêu
cầu bồi thường thì tòa án quyết định cho người yêu cầu được lấy lại toàn bộ số tiền
bảo đảm mà họ gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của tòa án.
- Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, có gây thiệt hại
cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba mà người bị gây thiệt hại có
đơn yêu cầu bồi thường với số tiền thấp hơn số tiền bảo đảm được gửi giữ tại ngân
hàng theo quyết định của tòa án thì tòa án quyết định cho người yêu cầu được lấy lại
số tiền vượt quá mức người bị gây thiệt hại yêu cầu bồi thường.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT có hiệu lực thi hành ngay. Khi ban
hành quyết định này, tòa án gửi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quan
thi hành án dân sự có thẩm quyền và viện kiểm sát cùng cấp. Cơ quan thi hành án
chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
2 - Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở tòa án cấp phúc thẩm
Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở tòa án cấp phúc thẩm được quy định tại
điều 261 BLTTDS như sau: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Toà án cấp
phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại Chương VIII của Bộ luật này”.
Về cơ bản các quy định tại chương VIII BLTTDS là những quy định nhằm áp dụng
cho các giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Do đó trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên toà phúc thẩm nếu có yêu cầu tòa án cấp phúc

thẩm áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT thì việc xem xét, giải quyết được thực hiện
theo quy định tại các điều tương ứng của chương VIII “các BPKCTT” của BLTTDS
và hướng dẫn tại nghị quyết 02/2005 của HĐTP TANDTC như đã được trình bày ở
trên.
Trong trường hợp đương sự kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm mà trong đơn
kháng cáo hoặc kèm theo đơn kháng cáo, đương sự khiếu nại quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của tòa án sơ thẩm thì tòa án phúc thẩm thông báo ngay
cho họ biết là tòa án phúc thẩm không có quyền giải quyết khiếu nại và giải thích cho
họ biết họ có quyền yêu cầu tòa án phúc thẩm thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT,

9


hủy bỏ BPKCTT đa được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy
định chung của BLTTDS và hướng dẫn tại nghị quyết nêu trên.
III.THỰC TIỀN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY
BỎ BIỆN PHÁP PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM,
SƠ THẨM
1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở
TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM
Như đã phân tích ở trên thì có thể thấy được rõ vai trò to lớn của chế định
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án cũng như bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông kê cho thấy những năm vừa qua, từ khi
BLTTDS năm 2004 chính thức có hiệu lực thì việc thực hiện áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã phát huy được
những giá trị và ý nghĩa của nó. Nhiều vụ án dân sự mà khi thực hiện chế định biện
pháp khẩn cấp tạm thời một cách hợp lý đã giúp cho thẩm phán cũng như hội đồng
xét xử làm đúng chức năng và bổn phẩn của mình, việc thực thi pháp luật cũng có
hiệu quả, và hơn ai hết đương sự được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì thực tiễn áp dụng chế định biện pháp

khẩn cấp tạm thời cũng có những hạn chế nhất định, xuất phát từ những mặt hạn chế
của pháp luật và cũng có một phần từ những người thực thi pháp luật. Có nhiều
trường hợp mà việc thực hiện chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời gặp nhiều khó
khăn do quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ, gây ra những ảnh hưởng nhất định
đến việc giải quyết vụ án. Mặt khác, do sai lầm chủ quan của một số thẩm phán và
hội đồng xét xử mà việc thực hiện chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa phát
huy được hết những ý nghĩa của nó, cá biệt còn có trường hợp gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính vì vậy mà việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật về vấn đề này cũng như nâng cao trình độ chuyên môn của đội
ngũ thực thi pháp luật là một đòi hỏi tất yếu và cấp bách hiện nay
2. Hướng hoàn thiện của pháp luật về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
BPKCTT là công cụ quan trọng của tòa án giải quyết các vụ việc dân sự, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. So với các quy
định trước đây, BPKCTT thời trong BLTTDS 2004 đã bổ sung nhiều biện pháp mới;
mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng, thời điểm áp dụng, trình tự thủ tục áp
dụng, ....Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì các quy định về BPKCTT đã
nảy sinh nhiều bất cập, không phù hợp dẫn đến việc giải quyết không hiệu quả các vụ
10


án dân sự. Sau đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về vấn đề này
Thứ nhất, cần có những quy định phân nhóm các BPKCTT được quy định trong điều
102, BLTTDS để thuận tiện hơn trong việc áp dụng. Việc phân nhóm các biện pháp
khẩn cấp tạm thời có thể dựa vào những tiêu chí khác nhau để phân thành nhóm
BPKCTT. Tuy nhiên, thiết nghĩ nên phân nhóm các BPKCTT dựa theo tiêu chí xác
định mục đích của biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Có như vây, thì
các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được quy định một cách khoa học, đầy đủ và cụ
thể. Mặt khác, khoản 13, điều 102 của BLTTDS quy định một cách tương đối mở

nhưng lại chưa cụ thể, vì vậy nên quy định theo hướng toà án có quyền áp dụng các
BPKCTT khác mà pháp luật có quy định và cả những BPKCTT khác mà pháp luật
chưa có quy định nếu không trái với các quy định của Bộ luật này.
Thứ hai, điều 99, BLTTDS quy định, đương sự chỉ có quyền yêu cầu tòa án áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu họ khởi kiện dân sự. Trong thực tế thì có nhiều
trường hợp, đương sự chỉ muốn yêu cầu tòa án áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm
thời để bảo toàn tài sản, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình mà không muốn khởi
kiện vì những lý do nhất định. Trên thế giới thì hầu hết các nước đều quy định cho
phép đương sự có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ trước
khi khởi kiện và độc lập với việc khởi kiện vụ án dân sự. Thiết nghĩ BLTTDS nên có
quy định cho phép đương sự có quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT trước khi tòa
án khởi kiện, phải coi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một loại việc dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa
Thứ ba, theo quy định tại khoản 3, điều 117 BLTTDS, thì trong thời gian ba ngày
hoặc 48 giờ tùy từng trường hợp cụ thể thẩm phán ra quyết định áp dụng BPKCTT
vẫn là quá dài, không đáp ứng được tính khẩn cấp. Bởi đối với những biện pháp
phong tỏa về tài khoản, tài sản thì đương sự có khả năng bị áp dụng BPKCTT này chỉ
cần một thời gian rất ngắn để rút tiền hoặc tẩu tán tài sản. Vì vậy trong trường hợp
này BLTTDS nên quy định ngắn hơn về thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Đặc biệt nên quy định trong những trường hợp cấp bách đương sự có thể yêu cầu toà
án ra ngay quyết định áp dụng các BPKCTT. Kể cả trong ngày lễ, ngày nghỉ đương
sự vẫn có quyền yêu cầu toà án áp dụng các BPKCTT. Dựa vào yêu cầu của đương
sự, thẩm phán sẽ ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT nếu xét thấy cần thiết.
Thứ tư, cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều kiện áp dụng của một số
BPKCTT cụ thể:
- Khoản 1 Điều 102 BLTTDS quy định BPKCTT áp dụng đối với người chưa thành
niên. Dễ thấy, ngoài đối tượng là người chưa thành niên thì người mắc bệnh tâm thần
11



và mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình cũng
rất cần được toà án áp dụng biện pháp này. Vậy cần bổ sung vào khoản 1 Điều 102
BLTTDS quy định giao người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình cho cá nhân,tổ chức trông nom nuôi
dưỡng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến họ mà chưa có người giám hộ.
- Về BPKCTT kê biên tài sản đang tranh chấp: thực tế cho thấy nếu kê biên tài sản
chỉ được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp như quy định tại điều 108 thì phạm
vi áp dụng quá hẹp, dẫn đến hiệu quả của biện pháp này còn hạn chế. Vì vậy, để bảo
đảm hiệu quả thi hành án của đương sự có nghĩa vụ, BPKCTT kê biên cần được áp
dụng cho một số tài sản nữa hợp lý của đương sự chứ không chỉ riêng có tài sản đang
tranh chấp
Thứ năm, khoản 1, điều 122 BLTTDS chỉ quy định ra 3 trường hợp tòa án ran gay
quyết định hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng nhưng trên thực tiễn xét xử có những
trường hợp phải hủy bỏ ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng, nhưng
các thẩm phán không có căn cứ pháp luật để thực hiện, như trường hợp sau khi áp
dụng BPKCTT, tòa án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định
tại các điểm c, d, e, g khoản 1 điều 192 BLTTDS mà người yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đề nghị hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng. Bởi vậy, cần bổ sụng
thêm vào khoản 1, điều 122 BLTTDS các trường hợp này
Thứ sáu, cần có những quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của tòa án. Căn cứ để
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của toà án được quy định tại khoản 2 Điều
102 BLTTDS, nhưng các căn cứ này mới chỉ đề cập đến trách nhiệm của toà án khi
áp dụng không đúng BPKCTT mà chưa đề cập đến trách nhiệm của toà án trong
trường hợp toà án đã không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trong
thực tế, việc toà án đã không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT có thể
gây thiệt hại không nhỏ cho đương sự. Vì vậy, để xác định được đầy đủ hơn trách
nhiệm của toà án, cần bổ sung vào khoản 2 Điều 102 BLTTDS thêm một căn cứ nữa,
đó là toà án phải bồi thường thiệt hại cho người đưa ra yêu cầu nếu toà án có lỗi trong
việc không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho người bị
áp dụng hoặc người thứ ba.

Thứ bảy, theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật TTDS thì tại phiên tòa, nếu Hội
đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT mà thuộc trường hợp bắt buộc
phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì HĐXX chỉ ra quyết định áp dụng BPKCTT khi
người yêu cầu xuất trình chứng cứ đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm. Nhưng việc
dự kiến và tạm tính thiệt hại có thể phát sinh không hề đơn giản như đã nói trên. Mặt
khác, để đương sự thực hiện biện pháp bảo đảm thì cũng cần đòi hỏi phải có một
12


khoảng thời gian nhất định nên không thể tiếp tục việc xét xử được. Bộ luật TTDS
không có quy định trong trường hợp này, do đó, cần quy định cụ thể các căn cứ để
ngừng việc xét xử, trong đó có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu áp dụng
BPKKTT tại phiên tòa.
Thứ tám, Điều 121 BLTTDS về thay đổi, áp dụng BPKCTT quy định rằng: “Khi xét
thấy biện BPKCTT đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải thay
đổi hoặc áp dụng bổ sung BPKCTT khác thì thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung
BPKCTT khác được thực hiện theo quy định tại Ðiều 117 của Bộ luật này”. Tuy
nhiên , điều 117 lại không đặt ra trường hợp nào là thay đổi, trường hợp nào là bổ
sung BPKCTT, ngay cả nghị quyết 02/2005 cũng vẫn chưa hướng dẫn về vấn đề này.
Thay đổi BPKCTT theo tinh thần điều 121 cần được hiểu là bằng một hoặc nhiều
BPKCTT khác thay cho BPKCTT đã áp dụng không còn hiệu lực, như vậy sẽ tránh
sự nhầm lẫn hay tùy tiện trong việc ra quyết định thay đổi và quyết định bổ sung
BPKCTT
Thứ chín, Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật TTDS thì tại phiên tòa, nếu
Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT mà thuộc trường hợp bắt
buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì HĐXX chỉ ra quyết định áp dụng
BPKCTT khi người yêu cầu xuất trình chứng cứ đã thực hiện xong biện pháp bảo
đảm. Nhưng việc dự kiến và tạm tính thiệt hại có thể phát sinh không hề đơn giản
như đã nói trên. Mặt khác, để đương sự thực hiện biện pháp bảo đảm thì cũng cần đòi
hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định nên không thể tiếp tục việc xét xử được.

Bộ luật TTDS không có quy định trong trường hợp này, do đó, cần quy định cụ thể
các căn cứ để ngừng việc xét xử, trong đó có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu áp dụng BPKKTT tại phiên tòa.

KẾT LUẬN
Như đã phân tích ở trên thì có thể thấy được vị trí và vai trò rất quan trọng
của chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật TTDS. Thực tiễn áp dụng
chế định này tại hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đã nói lên điều đó. Tuy nhiên,
cùng với sự thay đổi của xã hội cũng như điều kiện khách quan thh́ một số quy định
của pháp luật TTDS về vấn đề này còn có những hạn chế và bất cập nhất định. Thiết
nghĩ trong thời gian tới, pháp luật TTDS sẽ có những thay đổi nhằm hoàn thiện và
nâng cao hơn nữa hiệu quả của pháp luật về vấn đề này

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
3. Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một ố quy định tại chương VIII "Các biện pháp
khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
4. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự : Nguyễn Thanh Mai Khoá luận
tốt nghiệp trường đại học luật Hà Nội, 2011
5. Bàn về các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật tố tụng dân
sự / Trần Phương Thảo // Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 5/2011
6. Kiến nghị đối với các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân
sự / Nguyễn Văn Lin, Nguyễn Thị Hạnh // Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng
Quốc hội, Số 6/2011

7. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng / Lê Vĩnh
Châu // Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 3/2011
Cùng một số trang thông tin điện tử:
/> /> />
14


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI-MỘT CHẾ ĐỊNH QUAN TRỌNG
TRONG PHÁP LUẬT TTDS....................................................................................1
1. Khái niệm, ý nghĩa của chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong TTDS.....1
a. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời..............................................................1
b. Ý nghĩa và vai trò của chế định BPKCTT.........................................................2
2. Các BPKCTT cụ thể được quy định trong pháp luật TTDS...............................3
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VỀ ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY
BỎ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC
THẨM.......................................................................................................................5
1. Ở TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM.........................................................................5
1.1 - Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời................................................5
a . Đối tượng có quyền yêu cầu và điều kiện áp dụng BPKCTT...............................5
b. Về điều kiện áp dụng.............................................................................................5
c – Thời điểm và thẩm quyền áp dụng BPKCTT.......................................................6
1.2 – Việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.....................................................................7
a. Về thay đổi...........................................................................................................8
b. Về hủy bỏ ( điều 122)..........................................................................................8
2 - Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở tòa án cấp phúc thẩm..............9
III. THỰC TIỀN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI,

HỦY BỎ BIỆN PHÁP PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI Ở TÒA ÁN CẤP PHÚC
THẨM, SƠ THẨM.................................................................................................10
1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
Ở TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM..........................................................10
2. Hướng hoàn thiện của pháp luật về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ở
tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm................................................................................10
KẾT LUẬN.............................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

15



×