Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo luật ngân sách nhà nước và thực tế áp dụng ( 8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.57 KB, 14 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ- MÔN LUẬT TÀI CHÍNH.
Câu hỏi:
Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo luật
ngân sách nhà nước và thực tế áp dụng.
Bài làm:
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong đời sống xã hội, mỗi chủ thể ( cá nhân, tổ chức) đều có những nhu cầu chi
tiêu khác nhau dựa trên cơ sở những khoản thu nhập của mình. Nhà nước cũng
vậy để thực hiện tôt vai trò quản lí, chức năng nhiêm vụ của mình, phục vụ lợi
ích chi tiêu của nhà nước cũng như toàn xã hội nhà nước phải dựa trên cơ sở
nguồn ngân sách của nhà nước, Tuy nhiên nếu không kiểm soát chặt chẽ nguồn
ngân sách này thì nó sẽ gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đồi sống kinh tế
chính trị của xã hội cho nên nguyên tắc Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước là một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với mỗi nhà nước. với ý nghĩa
giúp cho nhà nước kiểm soát tốt nền kinh tế tài chính của đất nước. Vậy nguyên
tắc cân đối trong hoặt động ngân sách nhà nước hiện nay được quy định cụ thể
như nào và thực tế áp dụng ra sao. Hãy cùng phân tích và tìm hiểu vấn đề đó
trong bài viết sau đây.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I - Khái quát chung.
1. Khái niệm ngân sách nhà nước.
Về phương diện kinh tế:
Thứ nhất: Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một
quốc gia, thông qua hành vi kinh tế là xác lập nội dung thu - chi liên quan đến
ngân quỹ của nhà nước. Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện
cho toàn thể nhân dân trong quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra
thi hành trên thực tế để đảm bảo cho việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù
hợp với người dân. Ngoài ra, Quốc hội còn là người giám sát chính phủ trong
quá trình thi hành ngân sách và có quyền phê chuẩn bảng quyết toán ngân sách
hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc.
Thứ hai: Ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc


dự toán thu, chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ
ngày 01/01 đến ngày 31/12 hàng năm. Đây là khoảng thời gian mà pháp luật quy
định nhằm giới hạn rõ việc thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Khoảng thời
gian này có thể trùng hoặc không trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán
của mỗi nước. Việc quy định rõ thời gian này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động của ngân sách nhà nước, tránh sự tùy tiện, độc đoán của nhà nước
trong việc thu nộp và chi tiêu ngân sách.
Về phương diện pháp lý:
- Theo quy định tại Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước thì: “Ngân sách nhà nước
là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Ta có thể hiểu ngân sách nhà nước chính
1


là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu, chi
thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó đây còn là công cụ tài
chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết các hoạt động kinh tế- xã
hội của đất nước.
2.Khái niệm nguyên tắc Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước .
-Xét về bản chất: cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là cân đối giữa
các nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước
trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước trong năm đó;
- Xét về góc độ tổng thể: cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phản ánh
mối tương quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong một tài khóa. Nó
không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân
bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà
nước do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện;
- Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước: cân đối trong hoạt động

ngân sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các
cấp ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau
để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Vậy cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một bộ phận quan
trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác
giữa hoạt động thu và hoạt động chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế- xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ
thể.
II -Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân
sách Nhà nước.
1. Nội dung của Nguyên tắc cân đối.
Theo Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước như sau:
1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao
vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số
chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách;
Từ quy định trên của pháp luật ta có thể hiểu số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn
hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư
phát triển, trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát
triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối
đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện
sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu
thường xuyên được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một phần thu
thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát triển, trong
đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể làm tăng khả năng thu
hồi vốn cho ngân sách nhà nước, nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ
2



thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh
vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước, nhưng phải đảm bảo được
sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo
đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi ngân sách là
không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi ngân sách
nhà nước là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong
các cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt động ngân sách nhà nước trong dài hạn,
đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát triển và ổn định. bội chi ngân sách nhà
nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước ngoài. Vay bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng,
chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ
động trả hết nợ khi đến hạn và đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận
dụng được nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động
chi không mang tính chất thu hồi vốn và không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay
bù đắp bội chi chỉ được để dành cho mục đích phát triển.
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi
không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách
cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân
sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân
đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư
nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản
trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh”.
Nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có được nhiều
ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp tỉnh

vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong
việc tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và
đảm bảo các vấn đề xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này
lại được tính vào thu trong cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách
tổng thể thì ngân sách địa phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi
theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách
địa phương có bội chi và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội chi ngân
sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách
nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra, việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa
phương là 30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý vì mỗi địa

3


phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng
quản lý nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Tuy nhiên ngoài những quy định ở trên thì cân đối trong ngân sách nhà
nước còn phải dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi
tiêu công. Để đánh giá đúng nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ
thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề
ra, khi cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước thì những quyết định về chi
đầu tư phát triển và chi thường xuyên cần phải được gắn kết với nhau, trong chi
tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi vào những khoản cần thiết, chi tiêu
tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược mà chính phủ đề ra.
Tiếp đến phải trao quyền cho người quản lý trong việc ra quyết định phân
bổ nguồn lực tài chính đã thu được từ các nguồn thu khác nhau đòi hỏi nguyên
tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phải chú ý đến sự cân đối trong
ngắn hạn và dài hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều
chỉnh mất cân đối ngân sách nhà nước và dựa vào những dự toán đã được lập từ
thực tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước mà không có sự tiên vị về vấn đề

thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Đảm bảo được những chiến lược, chính sách
mà Nhà nước đã đề ra do ngân sách nhà nước bảo đảm cân đối trong quá trình
hoạt động khi chưa đưa ra những kế hoạch cụ thể.
Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm, đây là vấn đề rất cần thiết trong
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính
trung thực và giúp người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý.
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước.

-Thứ nhất: Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các khoản thu và nhiệm vụ chi
ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước, đồng thời
các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân
sách nhà nước. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước với
những đặc thù của nó được nhà nước xây dựng trong luật nhằm làm ổn định
chính sách tài chính tiền tệ của đất nước,
-Thứ hai: nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước tham gia điều
chỉnh sự cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản thu và các khoản chi,
tham gia cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ
thống ngân sách nhà nước, đồng thời nguyên tắc này còn có đặc điểm kiểm soát
tình trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước
với đòi hỏi của nó là nếu có bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát
triển tiến tới cân bằng thu, chi trong ngân sách.
-Thứ ba: nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn là sự bình
ổn nguồn ngân sách, làm cho số bội chi ngân sách nhà nước được cân bằng so
với các nguồn thu để hoàn thiện các nhiệm vụ chi đó chính là sự định hướng

4



được cho ngân sách nhà nước nếu có bội chi thì sẽ có cách giải quyết, bình ổn
tối ưu.
- Thứ tư: nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn đòi hỏi
nguồn vay ngân sách từ trong và ngoài nước sẽ không được sử dụng cho các
nhiệm vụ chi nào khác ngoài nhiệm vụ chi cho đầu tư phát triển vì đây là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu đỏi hỏi phải có nguồn ngân sách thật sự ổn định để thực
hiện nhiệm vụ và khi nhiệm vụ hoàn thành sẽ nhanh chóng có nguồn tài chính
để trả nợ. Do vậy, bắt buộc phải tuân theo đặc điểm này để tránh sự xáo trộn
trong hoạt động ngân sách nhà nước.
3. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước
Thứ nhất: nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có tác động làm cho
hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước của các cơ quan nhà nước được ổn định,
để thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách thì các cơ quan có thẩm quyền buộc
phải áp dụng sự cân đối được pháp luật quy định nhằm đảm bảo cho kế hoạch
của cơ quan nhà nước cấp trên được thực hiện triệt để, cho nên nguyên tắc này
vẫn có tác dụng làm ổn định hoạt động thu, chi ngân sách .
Thứ hai: nguyên tắc cân đối cũng có tác động làm cho hoạt động thu, chi
NSNN phát triển ổn định bền vững. Khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành hoạt động thu và chi NSNN mà áp dụng đúng nguyên tắc này cho hoạt
động của mình thì khả năng thu và nhiêm vụ chi ngân sách được tiến hành suôn
sẻ không những đã đáp ứng yêu cầu đặt ra mà còn có khả năng vượt yêu cầu đặt
ra, có nghĩa là khả năng thu và nhiệm vụ chi được tiến hành suôn sẻ không
những chỉ trong một năm ngân sách nhất định mà còn có khả năng được tiến
hành suôn sẻ ở những năm ngân sách tiếp theo đó nhờ áp dụng đúng nguyên tắc
cân đối này.
Thứ ba: Ngoài những tác động tích cực của mình nguyên tắc này còn có
những tác động tiêu cực đến hoạt động này, đó là nó có khả năng kiềm chế, làm
chậm đi quá trình thu, chi NSNN của Việt Nam khi các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành hoạt động thu, chi ngân sách mà không có sự áp dụng hoặc áp dụng sai
bản chất của nguyên tắc này thì khi đó hoạt động NSNN sẽ không những bị

chậm đi mà còn có khả năng mất ổn định, ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội đã có định hướng cụ thể của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phân bổ ngân sách nhà nước từ các nguồn thu đó. Hậu quả cuối
cùng tất yếu xảy ra khi áp dụng sai nguyên tắc cân đối sẽ là sự mất định hướng
cho việc phân bổ NSNN, các cơ quan có thẩm quyền sẽ không định ra được kế
hoạch sẽ sử dụng nguồn thu này cho những nhiệm vụ chi cụ thể nào. Đây là sự
tác động bất lợi cho sự giàu mạnh của một quốc gia khi nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NSNN không được quan tâm chú trọng.
III- Thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước ở Việt Nam hiện nay.

5


1. Những mặt tích cực của nguyên tắc cân đối Trong hoạt động ngân sách
nhà nước ở Việt Nam
-Thứ nhất: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân
sách nhà nước trong hoạt động của mình đã triệt để áp dụng nguyên tắc cân đối
theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho
NSNN nhằm phục vụ tốt nhất cho những nhiệm vụ quan trọng của đất nước.
- Thứ hai: Để cho việc thu, chi ngân sách được cân đối cũng như bắt buộc các
cơ quan có thẩm quyền trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách để tập
trung nguồn thu về NSNN tuân thủ triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt động
NSNN thì từ khâu dự toán- khâu đầu tiên trước khi bắt tay trực tiếp vào hoạt
động thu, chi cụ thể thì các cơ quan có thẩm quyền trong việc dự toán NSNN
cũng đã tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này để đảm bảo cho nguồn ngân sách
thực sự cân đối, ổn định tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể
về các lĩnh vực khác nhau của đất nước phải sử dụng đến ngân sách nhà nước.
- Thứ ba: quá trình áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước từ khi có Luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã làm cho nguồn ngân sách

nước ta đạt được ổn định và không ngừng tăng lượng dự trữ qua các năm bởi do
có sự cân đối trong ngân sách nhà nước cho nên những nhiệm vụ chi cụ thể đã
được thực hiện đến cùng bởi sự bảo đảm từ nguồn vật chất đầu tư trong ngân
sách. Từ đó, những nguồn thu khác do nhiệm vụ chi chưa phát sinh hoặc chưa
cần thiết nên đã được đưa vào dự trữ trong ngân sách nhà nước để đáp ứng cho
những nhiệm vụ chi mới phát sinh.
- Thứ tư: Quá trình áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước ở Việt Nam đã làm cho GDP của Việt Nam đạt được sự tăng trưởng từ năm
2002 là 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006:
8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào
hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao” (3). Sở dĩ những con số này luôn
lũy tiến theo các năm là do chúng ta biết cân đối giữa nguồn thu và những nhiệm
vụ chi cụ thể, nói cách khác chúng ta biết sử dụng nguồn thu ngân sách nhà
nước để tập trung đầu tư chi cho những công việc có lợi cho nguồn thu ngân
sách (có khả năng thu hồi nguồn ngân sách cao và nhanh nhất). Điều này hoàn
toàn phù hợp với bản chất của nguyên tắc cân đối và quy định của pháp luật là
chi đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhiệm vụ chi ngân sách.
- Thứ năm: việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước thời gian qua vào các khâu dự toán ngân sách, thu ngân sách, chi ngân
sách nhà nước và quyết toán ngân sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ở Việt Nam đã góp phần làm “tăng thu nhập bình quân đầu người ở mức 122,5
USD/người, tăng lên 400 USD/người năm 2000 và 637,3 USD/người năm 2005.
Con số này đã đạt được 820 USD/người năm 2007. Bên cạnh đó, số hộ giàu tăng
lên và số hộ nghèo giảm xuống. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh từ 58% năm 1993
giảm còn 37% năm 1998 tiếp tục giảm còn 28% năm 2004 và còn lại mức thấp
18,1% năm 2006. Đời sống của người dân được cải thiện, các vấn đề an sinh xã
hội được đảm bảo hơn”(4). Điều này do chúng ta đảm bảo được nguồn thu cân
6



đối, các nhiệm vụ chi khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau được giải quyết tốt
cho nên nguồn tài chính được sử dụng để chi cho các lĩnh vực xã hội có bước
lũy tiến, có nghĩa là trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, chúng ta đã có
sự cân bằng (giải quyết tốt mối quan hệ) giữa nhiệm vụ chi cho các công việc ở
các lĩnh vực khác với nhiệm vụ chi cho các lĩnh vực xã hội (chi thường xuyên)
và nguồn chi cho các lĩnh vực xã hội này không ngừng được tăng lên do chúng
ta bảo đảm được nguồn thu cân đối (nguồn thu tăng cộng với nguồn thu được dự
trữ trong ngân sách nhà nước) nên “việc chi cho các nhiệm vụ khác đã được dự
toán cụ thể cho nên nguồn tài chính còn lại sau khi đã dự toán cho các nhiệm vụ
chi khác nhau được dư ra với một lượng tương đối lớn mà chưa dự toán cho
nhiệm vụ chi thường xuyên trong đó có việc giải quyết các vấn đề xã hội” (iiiii),
với nguồn tài chính còn lại này đủ lớn để chúng ta có thể tập trung cung cấp cho
nhiệm vụ chi thường xuyên này được dồi dào hơn.
- Thứ Sáu: Trong những năm qua do việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quán
triệt triệt để cho nên nước ta đã kiểm soát được mức bội chi ngân sách nhà nước
ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/ năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho
đầu tư phát triển. Đây là một thành công đáng ghi nhận trong việc kiểm soát bội
chi NSNN ở nước ta khi có sự áp dụng triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước, mặc dù chịu sự tác động nghiêm trọng từ những cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính từ nền kinh tế thế giới nhưng do có sự triệt để áp
dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước cho nên
tình hình thu, chi ngân sách nhà nước của Việt Nam vẫn chuyển biến theo chiều
hướng tích cực, thu không những đủ chi cho thường xuyên mà còn dành được
một phần cho đầu tư phát triển. Vì vậy, mức thâm hụt NSNN được khống chế ở
mức thấp, đây chính là kết quả của những nỗ lực to lớn của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
- Thứ bảy: Ttrong những năm qua ở nước ta do có sự áp dụng nguyên tắc cân
đối trong hoạt động NSNN trong từng kế hoạch, từng quá trình thi hành nhiệm
vụ cụ thể của những cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện dự

toán ngân sách, thu, chi ngân sách nhà nước nói riêng và những cơ quan nhà
nước khác nói chung đã làm cho những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trước đất nước
được giải quyết một cách triệt để. Điều này không những tạo được ổn định trong
ngân sách nhà nước mà nó còn làm cho nguồn NSNN tiếp tục đạt được bội thu
vì chính khi những công việc tạo ra nguồn thu nhập này được giải quyết bởi sự
đầu tư từ nguồn ngân sách thì khi hoàn thành những công việc, những sản phẩm,
công trình được đầu tư làm ra đó sẽ được đưa vào sử dụng để phục vụ cho nhu
cầu của con người thì nó sẽ tạo ra thu nhập (lợi nhuận), những lợi nhuận này
được nộp vào NSNN và đã trở thành một nguồn thu nữa cho ngân sách ngoài
những nguồn thu đã có từ trước đến nay. Hơn nữa, việc áp dụng nguyên tắc cân
đối trong hoạt động NSNN những năm qua ở nước ta đã làm cho nguồn thu,
nhiệm vụ chi không những được ổn định trong một năm mà nguồn thu, nhiệm
vụ chi này được tiếp tục ổn định cho đến nay. Bởi lẽ, khi lên kế hoạch thực hiện
7


cân đối trong hoạt động NSNN để áp dụng trong một năm cụ thể nó sẽ tạo tiền
đề cho những năm sau đó tiếp tục áp dụng những kế hoạch của năm ngân sách
trước nhằm tạo ổn định trong hoạt động NSNN của năm đó.
- Thứ tám: việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN ở nước ta
trong những năm qua cũng đã góp phần làm cho hoạt động của các cơ quan nhà
nước được linh hoạt hơn vì khi cân đối được ngân sách thì những công việc
thuộc nhiệm vụ của các cơ quan đó cần sử dụng đến ngân sách được thực hiện
một cách nhanh chóng. Điều này góp phần tạo ra tâm lý làm việc thoải mái cho
cán bộ, công chức giúp họ giải quyết triệt để công việc thuộc thẩm quyền.
2. Những mặt hạn chế của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước ở Việt Nam
Thứ nhất: GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế và ngân
sách của Quốc hội nêu rõ: “Cân đối NSNN đã được bảo đảm bằng các quy
phạm mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật NSNN đã xuất hiện

một số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề về phạm vi cân đối và cách tính bội
chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa đúng với Luật NSNN, chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Số thu về phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định
rõ ràng, khoản nào trong cân đối, khoản nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào
hạch toán trong NSNN.”
Ta thấy việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN đã được tuân
thủ triệt để trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh
vực thu, chi và phân bổ ngân sách nhưng việc áp dụng nguyên tắc này thật sự
không đơn giản mà vẫn có những vướng mắc trong quá trình áp dụng nguyên tắc
đó vào thực tiễn hoạt động Nếu như vậy thì vấn đề cân đối trong ngân sách hoàn
toàn chưa đạt được, do vậy nguyên tắc cân đối trong trường hợp nêu trên hoàn
toàn chưa được tuân thủ, áp dụng triệt để, điều này một phần do trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, phần nữa do đặc thù của hoạt động
thu, chi ngân sách ở Việt Nam (thu từ nhiều nguồn và chi cho quá nhiều nhu cầu
khác nhau) tạo nên, chúng ta khó có thể cân đối trong mọi năm ngân sách.
Thứ hai: Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn nêu rõ cách xác định
bội chi NSNN hiện nay của Việt Nam bao gồm toàn bộ các khoản vay để bù
đắp, có nghĩa là chi ngân sách đối với các khoản vay này được thực hiện 2 lần:
“Lần thứ nhất sử dụng nguồn vay cho các mục tiêu, nhiệm vụ của NSNN; lần
thứ 2 bố trí chi ngân sách để trả nợ (gốc và lãi) khi các khoản vay đến hạn trả.
Do đó, mức bội chi ngân sách của Việt Nam thường cao hơn so với phương
pháp tính bội chi theo thông lệ quốc tế và trùng lặp khi bố trí chi ngân sách 2
lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi. Theo thông lệ quốc tế, việc xác định
bội chi chỉ bao gồm trả nợ lãi trong và ngoài nước, không bao gồm trả nợ gốc,
nhưng bao gồm cả các khoản vay về cho vay lại.”

8


Ông Lê Đình Thăng-Kiểm toán Nhà nước cho rằng: Ở Việt Nam cân đối

ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc thận trọng. Khi cân đối
NSNN quán triệt nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số
chi thường xuyên; nếu bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. “Nhưng qua
kết quả kiểm toán cho thấy một số khoản thu phí, lệ phí, học phí, viện phí…
không được tính toán cân đối ngân sách nhà nước mà để lại đơn vị chi tiêu; khi
quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán cho thấy
khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là
nguồn thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào cân đối, bố trí trong dự
toán hàng năm.”
Qua đó thấy được thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
của Việt Nam là khi thực hiện việc cân đối NSNN (cân đối các nguồn thu với
nhiệm vụ chi cụ thể của đất nước) thì chúng ta phải quán triệt nguyên tắc tổng số
thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên; nếu bội chi phải
nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm toán cho thấy một số
khoản thu nêu trên không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn vị chi
tiêu, khi quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán
cho thấy khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và
đây là nguồn thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào cân đối, bố trí trong
dự toán hàng năm.
Thứ ba: Theo quy định của Luật NSNN thì hiện nay số thu về phí, lệ phí chưa
được hạch toán đầy đủ vào cân đối NSNN cần sớm chấn chỉnh cho đúng với
Luật NSNN. Các khoản vay về để cho vay, khoản viện trợ chính thức ODA, các
khoản vay về trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục cũng chưa được phản ánh
vào cân đối NSNN và các khoản huy động vốn của chính quyền địa phương
chưa được tổng hợp vào bội chi NSNN… Đây là những vấn đề đang được Quốc
hội và Chính phủ rất quan tâm.
Ta thấy ở đây tính minh bạch trong cân đối NSNN chưa được vân dụng
triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN. Bên cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN
trong thời gian qua cũng tồn đọng một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải xem
xét, cân nhắc để có những giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi NSNN trong

những năm sắp tới như: số tiền vay, đặc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát
triển chưa được quản lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu
tư phát triển và chi thường xuyên nên tạo ra áp lực bội chi ngân sách nhà nước
(nhất là ngân sách địa phương), ngân sách địa phương vẫn có bội chi nhưng mức
bội chi này lại không được tính vào bội chi NSNN. Do tính minh bạch trong cân
đối ngân sách không được vận dụng triệt để nên mặc dù nguyên tắc cân đối này
có được áp dụng trong quá trình thu, chi NSNN nhưng vẫn không thể phát huy
được tác dụng làm cân bằng cho ngân sách để thực hiện những công việc phát
sinh trước đất nước, do vậy, không thể định hướng, lên kế hoạch cho quá trình
thu, chi ngân sách nhà nước cho những năm ngân sách sau đó.

9


Thứ tư: Phân tích đặc thù nguồn thu NSNN thời gian qua, TS. Nguyễn Thị Hải
Hà (Viện Khoa học Tài chính) cho rằng: giống như các nền kinh tế khác ở giai
đoạn đầu phát triển, thu NSNN của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu, thu từ các cơ sở kinh doanh. Bên cạnh đó, do là nước
xuất khẩu dầu thô nên thu từ dầu thô cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu
NSNN. Thu từ tài sản, từ thuế thu nhập cá nhân, các khoản phí còn tương đối
hạn chế. “Chẳng hạn năm 2008, tỷ trọng thu dầu thô và thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu vẫn chiếm tới 48% tổng thu NSNN, điều này cho thấy thu NSNN phụ
thuộc đáng kể vào thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thu từ các cơ sở kinh tế
trong năm 2008 chiếm 39% tổng thu NSNN, trong khi đó thu thuế thu nhập cá
nhân chỉ chiếm 3%, các khoản phí, lệ phí và thu từ nhà đất chiếm khoảng 10%,
do vậy nguồn thu trong nước cũng rất nhạy cảm với các biến động kinh tế.”
Về chi NSNN, cũng do nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đầu phát
triển nên cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập, thể chế tài chính chưa
hoàn thiện và do tốc độ tăng giá tương đối cao... nên áp lực tăng chi NSNN là
rất lớn. Ðặc biệt năm 2009, chi NSNN đã được điều chỉnh tăng do Chính phủ

thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Trong khi đó, nguồn thu NSNN bị giảm, nhất là
thu từ dầu thô và thu xuất nhập khẩu giảm do tác động của khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Chính vì thế, áp lực cân đối NSNN là rất
lớn. Thêm vào đó, với quy trình ngân sách nhà nước truyền thống, theo năm và
giới hạn bội chi NSNN là 5% GDP nên mức bội chi thực tế luôn tiệm cận ở giới
hạn cho phép. Như vậy, khả năng điều chỉnh ngân sách theo các biến động kinh
tế - xã hội trong và ngoài nước rất hạn chế.
Thứ năm: xuất phát từ năng lực của những cán bộ thực hiện nhiệm vụ dự toán,
quyết toán, thu, chi NSNN của Việt Nam hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất
định cho nên khi trực tiếp vận dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
thuộc nhiệm vụ của mình để làm cho nguồn thu, nhiệm vụ chi của đất nước
được bảo đảm ổn định NSNN thì vẫn còn lung túng, chưa thật sự hiểu bản chất
của nguyên tắc này. Do vậy, không thể khai thác lợi thế của nguyên tắc này để
cân đối NSNN là điều không thể tránh khỏi, hơn nữa nguyên tắc này tương đối
là khó khi vận dụng vào thực tiễn cho nên nguồn thu, nhiệm vụ chi không bảo
đảm cân đối, thậm chí bội chi trong một số năm .
3. Những đánh giá, nhận xét về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN theo Luật Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Những vấn đề về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động
NSNN ở nước ta cho thấy rằng, khi áp dụng nguyên tắc cân đối vào hoạt động
thu, chi NSNN của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam đã làm
cho các công việc đặt ra trước nhà nước trong những năm qua được thực hiện
một cách triệt để; nguồn thu và nhiệm vụ chi do áp dụng nguyên tắc này trong
quá trình thực hiện đã làm cho NSNN được điều hòa một cách ổn định; các cơ
quan nhà nước của Việt Nam đã đề cao ý thức chấp hành nguyên tắc này khi
10


thực hiện nhiệm vụ của mình, coi nguyên tắc này là mục tiêu trong hoạt động

của mình nhằm có được một nền ngân sách tốt nhất cho việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế- xã hội của đất nước, từng bước tiếp tục hoàn thiện thể chế NSNN
với sự cân đối lâu dài tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện hội nhập về kinh tế
và các lĩnh vực khác được ổn định, không bị tác động bởi những biến động của
thị trường thế giới. Nói chung, thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN trong những năm qua ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể.
Tuy nhiên, hoạt động NSNN vẫn còn một số hạn chế nhất định: nguyên
tắc này vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền tìm ra hướng mới để khai
thác công dụng, bản chất một cách triệt để do những hạn chế về năng lực của
cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện thu, chi và dự toán NSNN của Việt Nam
cho nên sự cân đối trong ngân sách chỉ đạt được một số năm cụ thể mà chưa trở
thành một điều tất yếu và lâu dài khi nguyên tắc này được pháp luật quy định và
là mục tiêu hoạt động của nền ngân sách Việt Nam. Cho nên cần có những giải
pháp để phát huy nguyên tắc này trong hoạt động NSNN nhằm thực sự thu được
cân đối trong hoạt động thu, chi NSNN ở Việt Nam để tạo nên một nền tài chính
vững mạnh lâu dài qua các năm cho dù thị trường có biến động.
IV. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc cân đối
(nguyên tắc ngân sách thăng bằng) trong hoạt động ngân sách nhà nước ở
Việt Nam.
- Thứ nhất: Cần phải hoàn thiện những quy định của pháp luật hơn nữa
trong pháp luật về cân đối ngân sách hiện nay, nhằm hướng tới một ngân sách
nhà nước bền vững, chú trọng khai thác nguồn thu nội địa, cần có những điều
chỉnh về thuế, cơ chế thu chi trong nước cũng như khi tham gia vào thị trường
thế giới
- Thứ hai: Để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
ở Việt Nam thì điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến
hành hướng dẫn cụ thể nguyên tắc này thông qua việc ban hành những văn bản
pháp luật thuộc thẩm quyền của mình để cho các cơ quan trực tiếp thực hiện thu,
chi NSNN ở trung ương và địa phương hiểu đúng bản chất từ đó áp dụng đúng

và hợp lý nguyên tắc này trong hoạt động của mình thì mới thu được sự cân đối
trong NSNN.
- Thứ ba: Chính phủ cần nâng cao vai trò trách nhiệm cỉa mình hơn nữa
trong việc kiểm soát bội chi ngân sách, nâng cao năng lực trình độ của bộ máy
nhà nước, cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa
thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu
NSNN để không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào
những hoạt động chi không cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát
chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát
triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do Quốc hội quyết định.

11


- Thứ tư: Tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá
trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước
phải cung cấp những thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết
qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự phối hợp, giám sát chặt chẽ
này giữa Nhà nước và nhân dân sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách
nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN. Từ đó, nguyên tắc cân đối sẽ được
tuân thủ triệt để làm cho NSNN thật sự đạt được cân bằng, ổn định.
Thứ năm: Chính phủ cần mở rộng cho địa phương một số nguồn thu gắn
liền với kết quả tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đó theo hướng chuyển dần một
số khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương sang khoản thi địa phương
được 100% để kích thích địa phương khai thác tốt được nguồn thu ở địa phương
mình, qua đó thì nhà nước có thể điều tiết nguồn thu nhập tạo công bằng cho xã
hội.
Thứ sáu: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục nghiên cứu về
nguyên tắc này để có những sửa đổi, bổ sung nguyên tắc này trong luật phù hợp
với những biến động của hoạt động ngân sách ở Việt Nam nhằm giúp nguyên tắc

này không lạc hậu so với những biến động của hoạt động NSNN mà luôn kiểm
soát tốt hoạt động thu, chi NSNN thông qua việc áp dụng nguyên tắc cân đối của
các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà nước.
C.KẾT LUẬN
Qua phần phân tích trên cho thấy rằng, nguyên tắc này đóng một vai trò
quan trọng đặc biệt đối với hoạt động ngân sách của nước ta. Nhờ việc áp dụng
nguyên tắc cân đối mà trong những năm qua hoạt động thu, chi NSNN ở Việt
Nam đã luôn giữ được ổn định, nguồn dự trữ ngân sách không bị thâm hụt. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn một số hạn chế xuất phát từ
bản chất của nguyên tắc này cho nên chúng ta phải hoàn thiện, bổ sung hơn nữa
những quy định của pháp luật áp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nguyên tắc
cân đối để đạt được một nền tài chính vững mạnh, ổn định, để giải quyết tốt nhất
các mục tiêu kinh tế- xã hội đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới hiện
nay.Thực hiện tốt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.

12


MỤC LỤC

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I- Khái quát chung
1. khái niệm ngân sách nhà nước
2. Khái niệm nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước

Trang
1

1
1
1
2

II- Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
luật ngân sách nhà nước

2

1.Nội dung nguyên tắc cân đối
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước

4
5

3. Tác động của nguyên tắc cấn đối với hoạt động ngân sách nhà
nước.

5

III- Thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

5

1. Những mặt tích cực của nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước ở Việt Nam


5

2. Những mặt hạn chế của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước ở Việt Nam

8

3. Những đánh giá, nhận xét về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước theo luật ngân sách nhà nước
ở Việt nam.

10

IV- Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam.

12

C. KẾT LUẬN

12

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
2. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
3. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định

số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước;
4. Cân đối ngân sách nhà nước – thực trạng và hướng hoàn thiện. Người thực
hiện: Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Phương Chinh
-www.tailieu.vn;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước. Nxb.
CAND 2010;
6. Cân đối ngân sách nhà nước - đảm bảo ổn định nền tài chính quốc gia – báo
Nhân Dân;
7. Thánh thức trong cân đối ngân sách nhà Nước – báo Nhân Dân;
8. các trang web. www.Google.com.vn
www.tapchitaichinh.vn
www.kilobooks.com
www.tailieu.vn
www.tapchiketoan.vn

14



×