Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp ba học tốt phân môn luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.12 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Thứ tự

Tên mục

Trang

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2

Mở đầu

1
1
2
2
2
3
3
3

2.3
2.4
3
3.1


3.2
-

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội Dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng trong giảng dạy phân môn Luyện từ và
câu lớp 3
Các biện pháp thực hiện
Kết quả thu được qua khảo nghiệm
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN đã được công nhận

6
13
14
14
14
15
16

0



1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chiếm
vị trí rất quan trọng trong chiến lược xây dựng con người, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của Đất nước. GD&ĐT là chìa khoá thần kỳ để phát huy nguồn
nhân lực con người, là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh, bền vững. Nghị
quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2014 của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
Để đáp ứng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay theo định
hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh, đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự
học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập của người học là
một yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục. Một trong những mục tiêu của
việc đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông là: "Đổi mới phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học, nhằm phát triển năng lực và phẩm chất học sinh".
Việc đổi mới này phải được thực hiện tất cả các bậc học, tất cả các môn học.
Trong chương trình giáo dục, môn học về tiếng phổ thông là một môn học quan
trọng, nó chiếm một vị trí chủ yếu trong chương trình. Trong các tiết dạy môn
Tiếng Việt, giáo viên cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học về ngôn
ngữ, từ các loại câu và các dấu câu, phong cách học Tiếng Việt. Phân môn
Luyện từ và câu lớp Ba có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số tri thức sơ
giản về từ, câu, và dấu câu. Học sinh được lĩnh hội kiến thức thông qua một hệ
thống bài tập. Như vậy sách giáo khoa tạo điều kiện để giáo viên và học sinh
thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học. Trong đó, giáo
viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều
được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển.
Phân môn Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, nó có vị
trí quan trọng như các phân môn khác: Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn,... Song

ở lớp Ba tiết học dành cho phân môn này rất ít (Chỉ có một tiết /tuần). Vì vậy
giáo viên phải biết bổ sung vào một tiết buổi chiều để tăng thời lượng cho phân
môn này. Khi dạy luyện từ và câu ở tiểu học chúng ta đều phải hướng tới ba mục
tiêu chính đó là: Cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, giúp các em có thể sử dụng
từ ngữ một cách chính xác, học sinh biết sử dụng từ Tiếng Việt để giao tiếp văn
hóa. Ở lớp Ba kiến thức truyền thụ cho học sinh có nhiều phần liên quan tới lớp
Hai nên giáo viên phải nắm chắc kiến thức Luyện từ và câu lớp Hai. Các bài tập
thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn mẫu một phần bài
tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần bài tập còn lại. Đây là phân
môn cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như khi
lĩnh hội. Giáo viên ngại dạy phân môn này bởi đây là phân môn có nhiều tình
huống sư phạm nhất. Đôi khi tình huống năm ngoài dự đoán của người dạy. Học
sinh cũng thấy khi tìm từ và làm các bài tập khó, vì lượng kiến thức của phân
1


môn rộng. Muốn làm được các bài tập của phân môn này học sinh không chỉ học
thuộc những kiến thức trong sách giáo khoa mà còn phải hiểu biết rộng, phải
nhớ được kiến thức cũ mà lớp Hai đã học thì mới làm tốt được các bài tập.
Xuất phát từ lí do trên, tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu để đưa ra
"Một số biện pháp giúp học sinh lớp Ba học tốt phân môn Luyện từ và câu ".
Rất mong sự quan tâm góp ý của quý thầy cô.
1.2. Mục đích nghiên cứu
-Đề xuất một số giải pháp giúp học sinh lớp Ba học tốt phân môn Luyện từ
và câu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
-Một số biện pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu .
- Học sinh lớp 3A (lớp thực nghiệm) và lớp 3B (lớp đối chứng), Trường
Tiểu học Thị trấn Quán Lào, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện SKKN này chủ yếu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy môn
Tiếng Việt, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp khảo sát điều tra thực tế.
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp phân tích số liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

2


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
Đối với học sinh lớp 3 phân môn Luyện từ và câu nó không còn mới, song
nó lại hết sức phức tạp, dùng từ và câu để nói, viết thế nào cho đúng, cho hay là
một việc không phải dễ. Chính vì điều này nên Luyện từ và câu được đánh giá là
phân môn khó trong môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Khi học Luyện từ và câu
người học phải vận dụng tổng hợp rất nhiều kiến thức và kĩ năng đã có ở những
lĩnh vực, những phạm vi khác nhau vào thực hiện các nhiệm vụ học tập. Dạy
Luyện từ và câu ở lớp Ba, người giáo viên phải thực hiện được các nhiệm vụ
như sau:
Mở rộng vốn từ theo các chủ điểm trong Sách giáo khoa. Đây là vốn từ cần
thiết và thường dùng mỗi chủ điểm. Dạng bài mở rộng vốn từ với một lượng bài
khá lớn. Các bài tập về mở rộng vốn từ vừa giúp học sinh lớp Ba hình thành
kiến thức cần thiết về từ qua các chủ điểm, vừa rèn kĩ năng giao tiếp một cách
sinh động. Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là giúp học sinh biết sử dụng từ một cách phù hợp
trong các bài viết, đặc biệt trong Tập làm văn. Dùng từ đúng, phù hợp với nội

dung văn cảnh, giúp các em thể hiện ý văn trong sáng, rõ ràng, mặt khác giúp
người đọc hiểu nội dung bài văn, câu văn một cách dễ dàng, chính xác.
- Ôn luyện để nắm chắc hơn một số kiến thức và kĩ năng đã học ở lớp 2
+ Về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ đặc điểm,
+ Về các loại câu Ai (con gì, cái gì) là gì? ( làm gì?, thế nào?)
+ Về một số thành phần trong câu (trả lời câu hỏi Khi nào? ở đâu? Như thế
nào? Vì sao? Để làm gì? Bằng gì?)
+ Về các các dấu câu như dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi...
+ Hình thành kiến thức sơ giản về biện pháp so sánh và biện pháp nhân
hóa, về các dấu hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, đồng thời luyện tập để bước
đầu có các kĩ năng về:
+ Phân tích và cảm nhận được tác dụng, hiệu quả của các biện pháp so
sánh, nhân hóa.
+ Bước đầu biết dùng các biện pháp so sánh và nhân hóa.
+ Biết dùng các dấu câu như dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm.
- Bồi dưỡng tình cảm quý trọng Tiếng Việt, thói quen dùng từ và câu đúng,
có ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp đạt được phẩm chất văn hóa.
2.2. Thực trạng trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 3
Năm học 2017-2018 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 3A
trường tiểu học thị trấn Quán Lào huyện Yên Định. Lớp có 30 em, trong đó có
10 em nữ và 20 em nam (Có 10 em là con em của các xã ven thị trấn )
Bằng thực tế công tác và khảo sát tình hình dạy - học của các giáo viên
trong khối 3 của trường, tôi đã nắm được thực trạng việc dạy - học phân môn
Luyện từ và câu như sau :
2.2.1. Thuận lợi
+ Tình hình cơ sở vật chất
3


Nhìn chung đáp ứng được cho việc dạy và học của phân môn Luyện từ và

câu
+ Về phía giáo viên
- Giáo viên tận tụy, luôn tìm tòi những phương pháp phù hợp với đối tượng
học sinh để giảng dạy.
- Giáo viên có kế hoạch rèn cho học sinh có thói quen dùng từ, đặt câu
trong học tập cũng như trong giao tiếp ngay từ đầu năm học.
+ Về phía học sinh
- Học sinh nằm trên địa bàn gần trường, phần lớn các em có ý thức học tập
tốt. Học sinh đều chăm ngoan.
- Học sinh có đủ sách giáo khoa và vở bài tập Tiếng Việt ghi đầy đủ nội
dung bài tập Luyện từ và câu.
- Các em đã được làm quen với phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 và có
nhiều kiến thức liên quan ở lớp 2 nên các em học tập có phần tự tin hơn.
+ Về phía gia đình
Đa số các gia đình đã quan tâm đến việc học tập của con em mình.
2.2.2.Khó khăn
+ Về phía giáo viên
- Hình thức để dạy một tiết Luyện từ và câu còn đơn điệu, thiếu sáng tạo,
chưa thực sự sinh động cuốn hút học sinh.
- Trình độ của giáo viên chưa đồng đều, lượng kiến thức của phân môn
trong một tiết dạy còn nhiều bài tập. Khiến người dạy đôi lúc không muốn sử
dụng nhiều phương pháp như vấn đáp, gợi mở... Vì mất nhiều thời gian, giáo
viên phải nói nhiều, làm việc nhiều dẫn đến hoạt động của cô, trò đôi lúc chưa
nhịp nhàng. Học sinh chưa phát huy hết tính tích cực trong học tập.
- Thời lượng dành cho phân môn Luyện từ và câu còn ít, một tiết / tuần
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, sách giáo khoa còn
hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của đồ dùng dạy học, chưa xử lý hết các
tình huống trong tiết dạy một cách phù hợp.
- Việc tổ chức các hoạt động dạy học còn mang tính hình thức chưa phù
hợp. Phương pháp giảng dạy của một số giáo viên còn máy móc, năng lực tổ

chức giờ học theo nhóm, theo đối tượng còn hạn chế. Giáo viên ít động viên
tuyên dương kịp thời khi HS có biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
+ Về phía học sinh
- Đa số học sinh tiểu học khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo
viên không bền, dễ thích, chóng chán. Một số học sinh chưa coi việc học là
chính, trong giờ học còn làm việc riêng không chú ý nghe giảng. Một bộ phận
học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tậpvốn kiến thức cơ bản còn hạn
chế.
- Tình hình thực tế học sinh lớp Ba ở đây vốn từ các em còn hạn chế. Các
em chỉ hiểu nghĩa của từ ở mức độ đơn giản trong khi từ ngữ Tiếng Việt vô cùng
phong phú. Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập
còn chậm.
4


- Các từ cần giải nghĩa đa số là từ Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải
nghĩa.
- Các từ, các thành ngữ, tục ngữ cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống
nhau, khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng.
- Ranh giới giữa các từ hoặc từ trong Tiếng Việt không mang tính xác định,
không dễ nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này.
+ Về phía gia đình
- Không ít gia đình do có hoàn cảnh khó khăn , đi làm ăn xa, bận công việc
làm ăn chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em , thậm trí cưng chiều con
em mình và đôi khi ỉ lại việc học cho nhà trường cho thầy cô giáo.
2.2.3.Đánh giá chung về thực trạng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 3
- Giáo viên chưa nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa, phương
pháp dạy học đặc trưng của phân môn.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên sử dụng các phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học chưa linh hoạt, chưa tạo ra được các tình huống để gây hứng thú

học tập cho học sinh, chưa tạo cho học sinh có thói quen sử dụng từ điển Tiếng
Việt.
- Trong quá trình dạy - học giáo viên chưa tạo được bầu không khí học mà
chơi, chơi mà học để học sinh tiếp thu bài một cách chủ động.
Để xác định được kế hoạch thực hiện nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát
tình hình thực tế việc dùng từ, đặt câu của học sinh ngay từ đầu năm học, tôi
thống kê học sinh còn mắc lỗi dùng từ, đặt câu còn rất nhiều, có một số học sinh
dùng từ chưa chính xác, chưa hiểu nghĩa từ, đặt câu chưa đúng ngữ pháp, chưa
dùng từ có hình ảnh so sánh (đã học ở lớp Hai). Kết quả khảo sát như sau:
Chất lượng khảo sát đầu năm

Lớp
3A(Lớp thực nghiệm)
3B (Lớp đối chứng)

Sĩ số
30
30

Hoàn thành tốt Hoàn thành
SL
2
2

TL
6,6
6,9

SL
18

20

TL
60,1
65,5

Chưa hoàn
thành
SL
TL
10
33,3
8
27,6

2.2.4. Các nguyên nhân, yếu tố tác động
- Đối với học sinh tiểu học, các em ở lứa tuổi chưa có được vốn từ ngữ
dồi dào trong khi đó các bài tập trong sách giáo khoa lại khá phong phú, đa dạng
nên so với đối tượng học sinh là khó. Mặt khác giáo viên cũng có nhiều khó
khăn trong việc giúp học sinh nắm vững được các kiến thức cơ bản của từng bài
để từ đó các em có thể phát triển theo hướng làm thêm được các bài tập nâng
cao.
- Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho
rằng Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó
5


hiểu, không gần gũi với học sinh. Phần lý thuyết cũng không có học sinh chỉ
được hiểu qua những bài tập làm mẫu của giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài
tập còn lại, vì thế học sinh thường ngại học phân môn này.

2.3. Các biện pháp thực hiện
2.3.1. Giáo viên nắm vững nội dung chương trình sách giáo
khoa, phương pháp giảng dạy đặc trưng bộ môn
- Từ việc phân loại đối tượng trên, tôi đề ra cho mình phương pháp dạy thật
tốt phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã nghiên cứu ở sách giáo khoa, sách tham
khảo để nắm vững chương trình và phương pháp đặc trưng của phân môn này.
Có nắm vững nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy, người giáo viên
mới đi sâu nghiên cứu, giảng dạy tốt phân môn Luyện từ và câu.
2.3.1.1. Nội dung chương trình phân môn luyện từ và câu
Trong chương trình Tiểu học môn Tiếng Việt đặt mục tiêu rèn kĩ năng lên
hàng đầu, các bài học không có tiết học lí thuyết riêng. Phân môn Luyện từ và
câu được biên soạn theo quan điểm giao tiếp, tích hợp, tích cực hóa hoạt động
của người học. Mặt khác, học sinh lớp Ba phải hoàn thành tốt kiến thức đã học ở
lớp Hai về từ loại, các kiểu câu, các thành phần câu và dấu câu. Học sinh lớp Ba
tiếp tục được trang bị những hiểu biết ban đầu về biện pháp tu từ so sánh, nhân
hóa để phục vụ việc đọc hiểu các loại văn bản và làm văn.
Như vậy, việc dạy học Luyện từ và câu để đạt được mục tiêu trên cần cho
các em tiếp xúc với các loại bài tập cụ thể, qua đó các em được rèn luyện những
kĩ năng cần thiết và bước đầu tiếp xúc với ngôn ngữ hình tượng văn học, rung
động trước cái hay, cái đẹp của cuộc sống, của con người, của thiên nhiên. Từ
đó, hình thành và phát triển nhận thức, tình cảm, thái độ đúng đắn trước cuộc
sống.
Chương trình Luyện từ và câu ở lớp Ba có những loại bài tập sau:
* Mở rộng vốn từ
- Gắn với các chủ điểm được học: Măng non, Mái ấm, Tới trường, Cộng
đồng, Bảo vệ Tổ quốc, Sáng tạo, Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao, Ngôi nhà chung,
Bầu trời và mặt đất.
- Thông qua các bài tập:
+ Tìm từ ngữ theo chủ điểm
+ Tìm hiểu, giải nghĩa từ

+ Hệ thống, phân loại vốn từ
+ Luyện cách sử dụng từ
* Ôn luyện kiến thức đã học ở lớp Hai
- Ôn vè các từ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm (chủ yếu thông
qua các bài tập có yêu cầu nhận diện).
- Ôn về các kiểu câu đã học ở lớp Hai: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? Các
thành phần trong câu đá ứng các câu hỏi Ai / là gì? Làm gì? Thế nào? ở đâu?
Bao giờ? Vì sao? Để làm gì? Thông qua các bài tập:
+ Trả lời câu hỏi
+ Tìm bộ phận câu trả lời câu hỏi
6


+ Đặt câu hỏi cho từng bộ phận câu
+ Đặt câu theo mẫu, ghép các bộ phận thành câu,.…
- Ôn về một số dấu câu cơ bản: dấu chấm, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu
chấm hỏi, dấu chấm than thông qua các bài tập:
+ Chọn dấu câu đã cho điền vào chỗ trống
+ Tìm dấu câu thích hợp điền vào chỗ trống
+ Điền dấu câu đã cho vào chỗ thích hợp
+ Tập ngắt câu
* Bước đầu làm quen với các biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa
- Về biện pháp so sánh, sách giáo khoa có nhiều loại bài tập như:
+ Nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh, các
vế so sánh, các từ so sánh, đặc điểm so sánh,…
+ Tập nhận biết tác dụng của so sánh
+ Tập đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh.
- Về biện pháp nhân hóa, sách giáo khoa có những bài tập như:
+ Nhận diện về nhân hóa: Cái gì được nhân hóa? nhân hóa bằng cách nào?
+ Tập nhận biết cái hay của nhân hóa

+ Tập viết câu hay đoạn văn có dùng biện pháp nhân hóa
2.3.1.2. Các phương pháp dạy học chủ yếu
Phân môn Luyện từ và câu rèn cho học sinh dùng từ đúng, nói viết thành
câu. Ở lớp Ba học sinh không phải học những kiến thức lí thuyết về Tiếng Việt.
Trong sách giáo khoa, các kiến thức sơ giản về từ và câu được thực hiên qua các
bài tập thực hành, luyện tập về dùng từ đặt câu, qua việc rèn kĩ năng sử dụng từ
ngữ, ngữ pháp dần dần hình thành ở học sinh một cách tự nhiên các nhận thức
ban đầu về các đơn vị kiến thức, về từ ngữ, ngữ pháp sẽ học ở lớp trên.
Cũng như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, khi dạy học Luyện từ
và câu các phương pháp thường được sử dụng rộng rãi là:
- Phương pháp luyện tập theo mẫu, đấy là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất khi dạy Luyện từ và câu lớp Ba. Thông qua việc hướng dẫn học sinh làm
mẫu một phần của bài tập, giáo viên giúp các em nhận biết cách làm bài tập để
tự mình hoàn thành bài tập.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ thường được sử dụng khi hướng dẫn học
sinh giải nghĩa từ hoặc mở rộng vốn từ theo cấu tạo.
- Phương pháp giao tiếp: Thông qua việc dạy từ dựa vào lời nói, vào những
thông báo sinh động, vào giao tiếp ngôn ngữ, giáo viên hướng dẫn học sinh vào
những tình huống để tạo ra sản phẩm giao tiếp (là việc hiểu và dùng từ đúng,
hay của học sinh).
- Phương pháp thảo luận nhóm, trò chơi học tập,...
Dạy Luyện từ và câu lớp Ba thực chất là việc tạo cho học sinh thực hiện các
bài tập. Do vậy, khi dạy Luyện từ và câu, để học sinh hứng thú học tập, tôi
thường vận dụng các phương pháp phù hợp với từng loại bài:
* Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập mổ rộng vốn từ và hệ thống
hóa vốn từ
7


Từ tồn tại trong đầu óc con người được sắp xếp theo một hệ thống liên

tưởng nhất định. Nhờ quy luật này, từ mới có thể sử dụng được trong lời nói. Vì
khi sử dụng từ, nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh sẽ nhanh chóng huy động, lựa
chọn được từ ngữ phù hợp với yêu cầu giao tiếp.
Toàn bộ bài tập mở rộng, hệ thống hóa vốn từ yêu cầu học sinh tìm những
từ theo một dấu hiệu chung nào đó. Ở Tiểu học biện pháp được dử dụng phổ
biến nhất để hệ thống hóa vốn từ là mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Các chủ
điểm này có phạm vi rộng hẹp rất khác nhau, vì thế các bài tập rất đa dạng,
phong phú. Nhóm từ theo chủ điểm bao gồm các từ thuộc những từ loại khác
nhau. Để giải các bài tập này, tôi gợi ý cho học tìm trong vốn từ của mình những
từ có mang những nét nghĩa phù hợp với chủ điểm. Cũng có thể liên tưởng theo
các lớp từ vựng: đồng nghĩa, trái nghĩa. Cuối cùng là tìm các từ có cùng cấu tạo.
Giải các bài tập mở rộng hệ thống hóa vốn từ, học sinh sẽ được xây dựng
được những nhóm từ khác nhau. Để hướng dẫn học sinh làm những bài tập này,
giáo viên cần có vốn từ cần thiết và biết phân loại vốn từ.
* Tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập giải nghĩa từ
Tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ cho học sinh đã được thừa nhận
từ lâu trong phương pháp dạy học Tiếng Việt. Nó là nhiệm vụ quan trọng trong
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc giải nghĩa từ được tiến hành trong các
giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm thì ở đó có giải
nghĩa từ.
Để dạy nghĩa của từ trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa của từ và phải
biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh.
Ở Tiểu học, tôi thường sử dụng một số phương pháp giải nghĩa sau:
+ Giải nghĩa bằng trực quan là phương pháp đưa ra các vật chất, tranh ảnh,
sơ đồ,... Để giải nghĩa từ.
Trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở tiểu học vì nó giúp
học sinh hiểu nghĩa từ một cách dễ dàng, nhưng cách giải nghĩa này đòi hỏi
giáo viên phải chuẩn bị khá công phu và không thể dùng để giải thích những từ
trừu tượng. Biện pháp này nên dùng ở các lớp đầu cấp.
Ví dụ: Bài tập yêu cầu học sinh "nhìn vào các hình ảnh xem đâu là thành

thị, đâu là nông thôn?".
+ Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ,
một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Tôi không cần giải thích nghĩa của từ
được bộc lộ nhờ ngữ cảnh.
Ví dụ: Để giải nghĩa từ "tấp nập", tôi đưa ra câu "Đường phố tấp nập xe
cộ đi lại.".
+ Giải nghĩa từ bằng đối chiếu, so sánh với từ khác.
Ví dụ: Giải nghĩa từ "Thành thị" bằng cách so sánh "Thành thị" với "Nông
thôn". thành thị là nơi dân cư đông đúc, công nghiệp và thương nghiệp phát triển
hơn nông thôn. Cách giải nghĩa này được xây dựng thành bài tập kiểu "Thành
thị khác nông thôn như thế nào?".

8


+ Giải nghĩa bằng định nghĩa là phương pháp giải nghĩa bằng cách nêu
nội dung nghĩa bằng một định nghĩa.
Ví dụ: "Cộng đồng là những người sống trong một tập thể hoặc một khu
vực, gắn bó với nhau". Đây là phương pháp giải nghĩa phổ biến nhất, là biện
pháp giải nghĩa làm cơ sở cho rất nhiều bài tập dạy nghĩa khác nhau. Hình thức
giải nghĩa này có ba dạng bài tập từ dễ đến khó:
*Mức thứ nhất: Đó là kiểu bài tập yêu cầu nối từ với nghĩa tương ứng.
Khi hướng dẫn giải bài tập này, giáo viên phải làm cho học sinh hiểu nghĩa của
từng yêu tố để thấy sự tương ứng của từng cặp.
*Mức thứ hai: Cho sẵn nội dung (nét nghĩa của từ) yêu cầu tìm tên gọi.
Ví dụ: Điền tiếp vào chỗ trống trong câu "Người sản xuất ra quần áo, làm
trong các nhà máy là...". Học sinh phải trả lời được câu hỏi: Người sản xuất ra
quần áo là ai? Để ghi vào chỗ trống từ "công nhân" cho đúng.
*Mức độ cao: Cho sẵn từ yêu cầu học sinh xác lập nội dung tương ứng.
Phổ biến nhất là kiểu bài tập đưa ra các câu hỏi trực tiếp "Theo em, thiên nhiên

là gì?". Để thực hiện loại bài tập này, học sinh phải có kĩ năng định nghĩa.
* Vận dụng phương pháp dạy thực hành giao tiếp để tổ chức dạy học
Để đảm bảo thành công cho các hoạt động thực hành, giáo viên phải dành
thời gian chuẩn bị các nội dung thực hành sao cho phù hợp với đối tượng học
sinh, phải kiểm tra được các hoạt động thực hành của học sinh để tránh học sinh
sai từ đầu đến cuối hoặc không tham gia thực hành.
Khi sử dụng phương pháp thực hành này trong dạy học phân môn Luyện
từ và câu, tôi sử dụng biện pháp và kĩ thuật sau: Liên hệ với thực tế để biết mục
đích bài học, nêu rõ nhiệm vụ của học sinh cần làm, hướng dẫn học sinh huy
động kiến thức đã học và kinh nghiệm của cá nhân để hình thành kiến thức đã
học và kinh nghiệm của cá nhân để hình thành kiến thức mới.
* Phương pháp trò chơi học tập
Trò chơi học tập là trò chơi đặc biệt không chỉ nhằm giải trí mà còn góp
phần củng cố tri thức, kĩ năng đã học.
Nội dung trò chơi học tập phải gắn với các tri thức, kĩ năng của môn học,
trò chơi cần phải có luật rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi
phải có thời gian dài cho việc huấn luyện, phù hợp với trình độ học sinh, không
quá khó.
* Phương pháp học nhóm
Dạy Luyện từ và câu theo phương pháp hợp tác nhóm nhằm hình thành ở
học sinh khả năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, thích ứng và độc lập suy nghĩ.
Dạy học Luyện từ và câu theo phương pháp hợp tác nhóm phải đáp ứng
yêu cầu: Đề tài đưa ra thảo luận có tác dụng kích thích suy nghĩ, tò mò của các
em, khuyến khích học sinh mạnh dạn tham gia thảo luận.
* Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề trong tổ chức hoạt động
Nhằm hình thành ở học sinh khả năng tư duy tự giải quyết vấn đề, khả
năng thích ứng, khả năng hợp tác trong đời sống, đặc biệt trong giao tiếp.

9



Khi dạy luyện từ và câu, tôi tạo ra tình huống có vấn đề bằng cách nêu
mục đích hình thành kiến thức, kĩ năng mới.
Tôi sử dụng những phương pháp này để tránh cảm giác nặng nề trong việc
tiếp nhận kiến thức lí thuyết ngôn ngữ của học sinh. Đối với mỗi nhóm bài học,
lựa chọn phương pháp thích hợp.
2.3.2. Thường xuyên tạo ra những tình huống có vấn đề trong tiết học,
từ đó gây cho học sinh những bất ngờ thú vị khi học phân môn này.
Ví dụ 1: Khi dạy bài so sánh trang 42, tập 1 tôi hỏi học sinh câu hỏi Cái
dấu hỏi giống như cái gì? (Học sinh trả lời: Cái dấu hỏi như vành tai nhỏ). Từ đó
tôi giới thiệu cho học sinh biết đây là câu có hình ảnh so sánh bài học hôm nay
các em sẽ được học bài “So sánh”.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Luyện từ và câu: Bài So sánh - dấu chấm trang 24 tập
1. Trước khi vào bài tập 3: Đặt dấu chấm thích hợp trong đoạn văn và viết hoa
những chữ đầu câu, tôi nói: Trong bài kiểm tra bạn Diệp Anh không biết dùng
dấu chấm câu có đoạn bạn viết thế này: Tôi gắn bảng phụ đoạn văn bạn Diệp
Anh viết trên bảng và cho học sinh đọc “Ông tôi chính là thợ hàn. Giỏi có lần,
chính mắt tôi đã thấy ông tán đinh. Đồng chiếc búa trong tay ông hoa. Lên, nhát
nghiêng, nhát thẳng, nhanh đến mức tôi chỉ cảm thấy trước mặt ông phất phơ
những sợi tơ mỏng ông là niềm tự hào của cả gia đình tôi.” Cho học sinh nhận
xét đoạn văn bạn Diệp Anh viết, bạn dùng dấu chấm đúng hay sai? (Học sinh trả
lời ‘Sai’) Giáo viên nói vậy bây giờ chúng ta sẽ giúp bạn Diệp Anh sửa lại dấu
chấm câu cho đúng .
Tôi cho học sinh sửa dấu chấm câu cho đúng, học sinh sẽ sửa được và cho
học sinh đọc đoạn văn vừa sửa rồi so sánh với đoạn văn chưa sửa .
Khi học sinh đã sửa xong giáo viên hỏi: Nếu dùng dấu chấm không thích
hợp thì nghĩa của câu văn thế nào? (Nghĩa của câu văn sẽ khác đi làm cho người
đọc cảm thấy buồn cười). Từ đó học sinh sẽ thận trọng đặt dấu câu, dấu chấm
câu cho đúng ở các bài tập cùng dạng và vân dụng khi viết văn. Những tiết học
như thế sẽ sinh động hơn, học sinh cảm thấy hứng thú học tập hơn. Như vậy tôi

đã dùng phương pháp dạy học nêu vấn đề và đòi hỏi học sinh phải giải quyết
vấn đề cho những tình huống đặt ra. Tình huống có vấn đề đóng vai trò quan
trọng trong dạy học nêu vấn đề. Việc giải quyết vấn đề trong tình huống cụ thể,
học sinh nắm tri thức và phát triển tư duy sáng tạo. Phương pháp này nhằm phát
huy tính độc lập suy nghĩ và tính sáng tạo của học sinh.
2.3.3. Tạo thói quen sử dụng Từ điển Tiếng Việt cho các em trong một
số tiết Luyện từ và câu
Đây là một tài liệu không thể thiếu trong tiết dạy phân môn Luyện từ và
câu, việc tra từ điển các em sẽ có thêm vốn từ Tiếng Việt phong phú hơn, nó
giảm bớt khó khăn cho các em khi học phân môn này, các em sẽ tự tin và không
còn tâm lí ngại tìm từ.
2.3.4. Thay đổi hình thức tổ chức dạy học thường xuyên
Nếu giáo viên và học sinh chuẩn bị bài rất kĩ mà không có sự thay đổi
hình thức tổ chức dạy học thì các tiết học sẽ trở nên nhàm chán và hiệu quả tiết
10


dạy không cao.Vì thế tôi thường thay đổi các hình thức tổ chức học tập. Khi thì
hoạt động nhóm đôi, nhóm 4, khi hoạt động cá nhân. Khi tổ chức trò chơi học
tập.
Ví dụ: thi đua giữa các nhóm xem nhóm nào tìm được nhiều từ đúng và
nhanh. Khi hoạt động nhóm 4 các nhóm thường được thay đổi vị trí : 2 em bàn
trước và 2 em bàn sau quay mặt về nhau, khi thì phát ra những bông hoa có 4
màu (Xanh, đỏ, tím, vàng hoặc hình các con vật nuôi trong nhà) giáo viên yêu
cầu những em có cùng màu hoa với nhau vào cùng một nhóm và học sinh sẽ rất
hứng thú thi đua học tập khi được ghép nhóm theo hình thức này.
Hoạt động nhóm đôi: Khi thì cho 2 em ngồi cùng bàn, khi thì cho em bàn
trên ngồi quay mặt với em bàn dưới, khi thì đánh số theo em số 1 và số 2 theo
từng tổ và những em số 1 ở tổ này ghép với em số 1 ở tổ kia, làm tương tự với
các em số 2.3.4..

Ví dụ : Để học sinh học tốt dạng bài tu từ so sánh, giáo viên phát phiếu
học tập nhóm đôi. Các nhóm điền vào phiếu.
Câu
Sự vật 1
a)
Hai bàn tay
b)
Mặt biển
c)
Cánh diều
d)
Dấu hỏi

Từ so sánh
như
như
như
như

Sự vật 2
hoa đầu cành
tấm thảm khổng lồ
dấu “ á”
vành tai nhỏ

Học sinh trình bày :
+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ".

Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với
"Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó
giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào
giống nhau, chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
+ "Dấu hỏi" và "vành tai nhỏ" đều có hình cong nhỏ dần xuống.
2.3.5. Thường xuyên sử dụng phương pháp trò chơi học tập
- Học tập thông qua trò chơi là phương pháp có hiệu quả cao trong dạy
học phân môn Luyện từ và câu. Trò chơi học tập không chỉ nhằm vui chơi giải
trí mà còn góp phần củng cố kiến thức, kĩ năng học tập cho học sinh
- Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động hấp dẫn học
sinh, nó tạo cho các em ghi nhớ sâu hơn kiến thức vừa được học.

11


- Trò chơi học tập là hình thức tổng hợp trí tuệ giữa các đội chơi, đã tổ
chức chơi thì đội nào cũng muốn giành chiến thắng nên các em đều cố gắng hết
mình vì vậy kết quả học tập sẽ được nâng cao.
- Việc sử dụng trò chơi học tập làm cho tiết học giảm bớt phần khô khan
tăng thêm phần sinh động, hấp dẫn. Những bài tập tổ chức chơi trò chơi thường
là các bài tập cuối tiết hoặc các bài tập dưới dạng củng cố mở rộng kiến thức nó
thường diễn ra khoảng 5 đến 6 phút.
Ví dụ :
CHỦ ĐIỂM CỘNG ĐỒNG
Ô chữ: CỘNG ĐỒNG
Mục đích:
- Rèn kĩ năng đoán nhanh từ khi biết nghĩa;

- Củng cố nghĩa từ và mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh đồng thời rèn trí
thông minh và khả năng phản ứng nhanh.
Hãy tìm từ hàng dọc trong ô chữ với những gợi ý về các từ hàng ngang
theo thứ tự. Các từ hàng ngang là những từ có tiếng cộng hoặc tiếng đồng có
nghĩa chung là những người trong cộng đồng.
1. Những người cùng chí hướng
2. Những người cùng làm một việc
3. Những người cùng tuổi
4. Những người cùng học một khoá
5. Những người cùng đội ngũ
6. Những người cùng độ tuổi từ 6 đến 9 tuổi.
7. Cùng nghĩa với đồng niên
8. Những người cùng nghề
1
2
3
4
5
6
7
8

C

N
G
Đ

N
G


Đáp án: Các từ hàng ngang lần lượt là: Đồng chí, cộng sự, đồng niên,
đồng khoá, đồng đội, nhi đồng, đồng nghiệp.
2.3.6. Tạo tâm thế thoải mái cho các em trong học tập
Tiết học được coi là thành công nếu tiết học đó học sinh có thể lĩnh hội
kiến thức không chỉ nội dung trong sách giáo khoa mà còn mở rộng được kiến
thức ngoài sách giáo khoa. Trong tiết dạy Luyện từ và câu tôi thường lấy thêm
các bài tập nâng cao ngoài sách giáo khoa cho học sinh làm với hình thưc
khuyến khích học sinh chứ không áp đặt nên các em rất thoải mái tiếp nhận
12


những bài tập làm thêm và làm có hiệu quả. Tôi luôn gần gũi giúp đỡ các em
làm tốt các bài tập từ đó học sinh đã hứng thú học phân môn này. Việc giao tiếp
với thầy cô, bạn bè của các em có phần tự tin rất nhiều. Các em áp dụng vào viết
văn cũng tốt hơn.
2.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm
Sau một thời gian áp dụng những kinh nghiệm của bản thân vào các tiết
dạy phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã nhận thấy hiệu quả các tiết dạy có
chuyển biến tốt. Các em đã có hứng thú học phân môn Luyện từ và câu hơn, giờ
học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng, không khí học tập sôi nổi. Việc sử dụng từ ngữ
trong văn nói và viết của học sinh đã có nhiều tiến bộ. Các em tự tin trong giao
tiếp, học sinh dám bộc lộ những suy nghĩ của bản thân về những điều mình đang
thắc mắc trong các tiết học. Đó là những thành công ban đầu của đề tài. Kết quả
đạt được sau khi áp dụng các biện pháp trên:
2.4.1.Chất lượng cuối học kì I như sau:

Lớp
3A(Lớp thực nghiệm)
3B (Lớp đối chứng)


Sĩ số
30
30

Hoàn thành tốt Hoàn thành
SL
8
5

TL
26,7
16,7

SL
19
21

TL
63,3
70

Chưa hoàn
thành
SL
TL
3
10
4
13,3


2.4.2. Chất lượng giữa học kì II như sau:

Lớp
3A(Lớp thực nghiệm)
3B (Lớp đối chứng)

Sĩ số
30
30

Hoàn thành tốt Hoàn thành
SL
16
7

TL
53,3
23,3

SL
14
22

TL
46,6
73,4

Chưa hoàn
thành

SL
TL
0
0
1
3,3

Kết quả trên đã chứng minh các biện pháp tôi áp dụng là có hiệu quả.
Hiện nay tôi vẫn tiếp tục thực hiện và phát huy những mặt đã đạt được và khắc
phục những mặt còn tồn đọng để chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu
ngày một tốt hơn.

13


3. Kết luận và kiến nghị
3.1 Kết luận
Trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm, tôi tự thấy để dạy tốt phân
môn Luyện từ và câu, hạn chế được những khó khăn của học sinh khi học phân
môn này và kích thích hứng thú học tập, nâng cao chất lượng học, người giáo
viên cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy theo chuẩn kiến thức kĩ
năng, kết hợp cùng tài liệu tham khảo để hướng dẫn học sinh làm bài tập một
cách tốt nhất.
Thường xuyên tạo ra những tình huống có vấn đề trong tiết học từ đó gây
sự bất ngờ, thú vị khi học phân môn này.
Trong các tiết dạy, giáo viên cần phân loại các dạng bài tập để lựa chọn
phương pháp phù hợp với từng bài để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Tạo tâm thế thoải mái trong học tập cho học sinh.
Thường xuyên tổ chức phương pháp trò chơi học tập.

Là một giáo viên nhiều năm giảng dạy ở khối 3, tôi cũng đã có một số
biện pháp để tích góp chuyên môn cho bản thân trong quá trình giảng dạy phân
môn Luyện từ và câu. Song tôi tự thấy mình cần phải cố gắng học hỏi nhiều hơn
nữa. Vì thời gian và điều kiện nghiên cứu có hạn nên đề tài của tôi không tránh
khỏi thiếu sót. Rất mong hội đồng khoa học nhà trường, Phòng Giáo dục và các
bạn đồng nghiệp đọc và góp ý cho đề tài được hoàn thiện hơn, tôi xin chân thành
cảm ơn.
3.2. Kiến nghị
- Đối với nhà trường: Thường xuyên bổ sung tài liệu tham khảo. Khi tổ
chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động câu lạc bộ nên xen những câu hỏi
có liên quan đến phân môn Luyện từ và câu để học sinh có thêm vốn kiến thức
về cách dùng từ và đặt câu.
- Đối Phòng Giáo dục và Đào tạo: Hàng năm tổ chức hội thảo nâng cao
hiệu quả viết sáng kiến kinh nghiệm cũng như các chuyên đề về phân môn luyện
từ và câu theo chủ đề cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
XÁC NHẬN CỦA
Quán Lào, ngày 15 tháng 3 năm 2018
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
...........................................................
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
........................................................... kinh nghiệm của mình viết, không sao
........................................................... chép nội dung của người khác.
...........................................................
...........................................................

Dương Thị Vinh
14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT Tên tài liệu

Tên tác giả hoặc nhà xuất bản

1

Sách Tiếng Việt lớp 3

NXB Giáo dục

2

Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3

NXB Giáo dục

3

Sách nâng cao Tiếng Việt 3

NXB Giáo dục

4

Luyện từ và câu Tiếng Việt 3

Nhà xuất bản Đại học Sư phạm

5


Dạy học từ ngữ ở tiểu học

NXB Giáo dục

6

Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến NXB Giáo dục
thức, kĩ năng các môn học ở tiểu
học – Lớp 3

7

Từ điển : từ và ngữ Việt Nam

8

Nghị quyết
4/11/2014

29-NQ/TW

NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh
ngày Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI

15


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Dương Thị Vinh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Thị Trấn Quán Lào

TT
1.
2.
3.

Tên đề tài SKKN
Giải các bài toán hợp có lời văn
cho học sinh lớp 3
Củng cố kiến thức về từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa lớp 5
Một số biện pháp rèn kĩ năng
đọc cho học sinh lớp 2.

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá

xếp loại

Phòng GD&ĐT

B

2011-2012

Phòng GD&ĐT

C

2013-2014

Phòng GD&ĐT

B

2016-2017

16



×