MỤC LỤC
TT
1
Nội dung
Trang
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
Nội dung
3
2.1
Cơ sở lí luận
3
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3
2.3
Các giải pháp tổ chức thực hiện
5
2.4
Hiệu quả của SKKN
15
3
Kết luận, kiến nghị
16
3.1
Kết luận
16
3.2
Kiến nghị
17
2
1
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
Giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông. Thành quả giáo dục
tiểu học có tác dụng cơ bản lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi
người. Những đức tính trung thực, công bằng, cẩn thận, lễ phép, hiếu thảo và
những kĩ năng cơ bản nghe, nói, đọc viết, tính toán... nếu không được hình
thành vững chắc ở tiểu học thì sẽ khó có cơ hội hình thành và phát triển ở
những cấp học cao hơn. Để đạt được những mục tiêu trên, môn Tiếng Việt đa
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất của
con người. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ học,
trang bị cho học sinh công cụ để học tập tất cả các môn học khác trong nhà
trường. Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học các phân môn được thiết kế có một
mối quan hệ mật thiết, bổ trợ nhau nhằm từng bước giúp các em làm chủ được
công cụ ngôn ngữ để học tập, để giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự
nhiên trong các môi trường xa hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi.
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người,
ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đa đóng vai trò
biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa,
tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đa được ông
cha ta rất coi trọng:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“ Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao
tiếp hàng ngày với họ: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác
việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh
vực. Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất
nhỏ, chúng ta đa rất chú trọng. Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo
dục tiểu học nói riêng đa được xa hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo
dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc
giáo dục ở nhà trường đa áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà
dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô
2
cùng quan trọng. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học 2017- 2018 tôi được phân công
giảng dạy lớp 2B. Sau khi nhận lớp và tổ chức dạy học cho học sinh tôi nhận thấy:
Việc tổ chức luyện nói cho học sinh trong học Tiếng Việt còn gặp nhiều khó
khăn và kết quả học tập chưa cao. Giáo viên thường đưa ra, giáo viên gợi ý, đa
phần học sinh nhắc lại các câu mẫu của giáo viên chỉ có một số rất ít nói được
theo cách riêng của mình.
Trên thực tế dạy học Tiếng Việt và đánh giá học sinh theo thông tư
22/2016/TT- BGDĐT, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt
động luyện nói trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Các em chưa mạnh
dạn, tự tin khi nói hoặc chưa thể diễn đạt được nội dung cần nói (do vốn kĩ năng
ngôn ngữ còn ít). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt, phát huy
quan điểm dạy học Tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải có những
biện pháp cụ thể để tổ chức hoạt động luyện nói cho học sinh ngay trong giờ
học Tiếng Việt. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ
năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt” để trao đổi với các bạn
đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ mạnh
dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen
dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức
của bản thân. Trước những vấn đề mà các em phải tự bộc lộ qua những lời nói,
lời phát biểu, trả lời các câu hỏi theo nội dung bài học, khả năng giao tiếp với
mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:
Sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu các tài liệu nói về vấn đề dạy
học Tiếng Việt, nghiên cứu các bài viết, công trình nghiên cứu trên tập san, tạp
chí,... có liên quan đến đề tài để làm cơ sở cho việc điều tra thực trạng.
2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin bằng các câu
hỏi phỏng vấn:
- Giáo viên trực tiếp giảng dạy khối 2.
- Học sinh khối 2.
3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu:
3
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của skkn.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính
thức của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng Việt
có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của
mỗi con người. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt tiểu học ngoài việc cung
cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt còn phải giúp học sinh
giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ ngữ
đúng, nắm rõ vào hoạt động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và
hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao
đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hoá, tính
nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay
từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng
mực, lịch sự trong khi giao tiếp. Ông cha ta thường răn dạy con cháu qua các
câu ca dao, tục ngữ như: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”; “ Lời nói không
mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Hay câu: “ Chim khôn kêu
tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Ngoài ra, việc giao
tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực và trong
công việc.
2.2. Thực trạng.
2.2.1. Về giáo viên:
Trong nhiều năm qua tôi thấy đa số giáo viên đa nắm bắt được tầm quan
trọng của việc dạy Tiếng Việt cho học sinh và có sự đầu tư nghiên cứu đổi mới
phương pháp giảng dạy bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên còn gặp
nhiều khó khăn trong khi dạy. Qũy thời gian dành cho các phân môn của Tiếng
Việt còn hạn chế. Qua thực tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về
nghi thức lời nói cũng như viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều.
Một số giáo viên chưa nắm rõ ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp
dạy học còn đơn điệu, rập khuôn máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng
tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến
sửa câu, cách dùng từ đặt câu. Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ
động, ít sáng tạo. Bên cạnh đó giáo viên chưa tập chung tìm hiểu về đặc điểm
4
tâm sinh lí, môi trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những
khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học
sinh nói hay hoặc hay trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói,
nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời
gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đa làm cho những học sinh rụt rè ngày càng
trở nên nhút nhát hơn.
2.2.2. Về học sinh:
`
Những năm gần đây tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
2. Trong quá trình dạy Tiếng Việt, tôi nhận thấy đa số học sinh có hứng thú
trong giờ học, song chủ yếu tập chung vào các bài tập đọc, bài làm miệng với
các yêu cầu học sinh cần diễn đạt bằng lời nói tôi thấy học sinh còn lúng túng.
Mặc dù học sinh đa có vốn từ vựng nhất định và nắm được một số quy tắc giao
tiếp trước khi đến trường Tiểu học nhưng các em còn mắc nhiều lỗi phát âm
(thanh điệu, phụ âm đầu, phần vần, âm cuối). Lỗi dùng từ, cách thể hiện nét
mặt, cử chỉ, điệu bộ khi thể hiện lời nói. Ngôn ngữ của học sinh mang bản sắc
địa phương, nhiều em còn bỡ ngỡ, lúng túng khi thực hiện hoạt động nói. Đặc
biệt là khi nói theo chủ đề, nói về một nội dung nhất định. Các em gặp khó khăn
khi lựa chọn từ ngữ, sắp xếp từ ngữ đó thành câu và sắp xếp các ý cần nói. Vì
vậy, các em chưa chủ động nói mà chỉ nói khi được hỏi (trả lời câu hỏi). Học
sinh lớp 2 chưa có vốn từ phong phú, chưa sử dụng từ linh hoạt, việc nắm nghĩa
của từ còn hạn chế. Việc vận dụng từ ngữ để đặt câu, tạo đoạn còn chưa linh
hoạt, các ý cần nói chưa có sự chọn lọc và sắp xếp theo một trật tự từ lô gíc hợp
lí. Vì vậy, các em thường nói tự do, nói không đủ câu, đủ ý, diễn đạt chưa mạch
lạc, thường ngắc ngứ, lúng túng, bế tắc khi trình bày một vấn đề khó, cần huy
động vốn từ lớn. Các em nói tự do theo suy nghĩ của mình, không chú ý tới cách
thức nói, nghi thức nói và nội dung, mục đích của mình.
Hơn nữa tâm lý của các em học sinh lớp 2 thường nhút nhát, không tự tin,
sợ sệt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, trước những nơi đông người. Điều đó
dẫn đến hiệu quả giao tiếp bị hạn chế. Trước tình hình đó vào đầu tháng 9 năm
học 2017-2018 tôi đa tiến hành khảo sát thực trạng để tìm biện pháp khắc phục
những tồn tại trên.
5
* Kết quả khảo sát phần luyện nói trong môn Tiếng Việt:
Lớ Sĩ
p
Số
2B
HS nói đúng,
nói hay (nói có
kèm theo ngữ
điệu, có cử
chỉ, điệu bộ)
Học sinh nói
trôi trảy, rõ
ràng, diễn đạt
được nội dung
HS hiểu nội
dung câu hỏi
nhưng trả lời
còn
ngượng
ngùng
Học sinh nói
không đủ câu, đủ
ý, diễn đạt còn
ngắc ngứ, lúng
túng.
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
5
16,6
8
26.7
9
30
8
TL(%)
30
26,7
Qua khảo sát cho thấy số học sinh nói đúng, nói hay, nói trôi chảy chưa
nhiều mà số học sinh diễn đạt câu còn ngắc ngứ, lúng túng còn cao. Từ thực tế
giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tiếng Việt.
2.3 Các biện pháp thực hiện.
Biện pháp 1: Phân nhóm học sinh.
Ở biện pháp này tôi sử dụng phương pháp quan sát, thu thập thông tin, tôi
đa xử lí những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp với những biện pháp
thực hiện sau:
Tôi tiến hành phân chia học sinh theo các nhóm:
Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, khi giao tiếp biết thể hiện
lời nói biểu cảm, lịch sự. Những học sinh này tôi phân làm nhóm trưởng của các
nhóm trong lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng
Việt mà học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. Những em này là người dẫn
chương trình trong các giờ luyện nói.
Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đối rõ ràng, trôi chảy, lịch sự nhưng
chưa thể hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp.
Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp còn lúng
túng, ít khi sử dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp, nói năng cộc lốc,
chưa diễn đạt trọn ý, trọn câu.
Ví dụ: Trong tiết kể chuyện: Chuyện bốn mùa (Tiếng Việt, tập 2 - Trang 6)
- Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh:
+ Phân vai theo từng nhân vật.
- Người dẫn chuyện: Chọn học sinh nhóm 1.
6
- Các nhân vật: Xuân, Hạ, Thu, Đông chọn học sinh ở nhóm 2 hoặc
nhóm 3.
- Giáo viên gọi từng nhóm lên thực hiện nhiệm vụ của mình.
Biện pháp 2: Giúp học sinh luyện nói thông qua hệ thống bài tập.
Với biện pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện
tập “nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp
của các em ngày càng được hoàn thiện. Việc “nói” sao cho trôi chảy, mạch lạc,
lời văn thể hiện biểu cảm rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác
khả năng học tập của học sinh. Chính vì vậy tôi đa xây dựng hệ thống bài tập
rèn kĩ năng nói cho học sinh dựa trên hệ thống nguyên tắc.
Khi xây dưng hệ thống bài tập cần phải đảm bảo tính hệ thống. Bài tập
được xây dựng theo hướng chú ý khai thác phát huy vốn ngôn ngữ và kinh
nghiệm giao tiếp đa có của học sinh. Nội dung bài tập được xây dựng thể hiện
yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, tức là hệ thống bài tập được xây dựng
và sử dụng dựa trên lí luận dạy học hiện đại - dạy học hướng vào hoạt động của
người học.
Để tham gia vào hoạt động giao tiếp tốt thì học sinh cần phải nghe, nói
tốt. Trong giao tiếp cần rèn luyện kĩ năng nói phát âm chuẩn, nói trong các tình
huống giao tiếp cụ thể, nói dựa theo câu hỏi định hướng hoặc trả lời câu hỏi, nói
theo nội dung bài học.
Trường hợp 1: Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn.
Ở phần này, giáo viên chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các
từ tiếng khó cần rèn đọc trong phần luyện đọc ở tiết1. Lập danh sách những học
sinh phát âm chưa chuẩn để rèn cho các em trước hết phải phát âm đúng, chính
xác, từ đó các em mới bình tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra những ý kiến riêng
của bản thân, lời nói trong giờ luyện nói mới có thể tự nhiên, trong sáng.
Cụ thể tôi lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai
chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác.
Điều quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn
và chính xác. Đa số học sinh trong lớp 2B do tôi làm chủ nhiệm các em thường
phát âm sai ch/ tr, x/s, r/d, các nguyên âm đôi, phát âm sai thanh hỏi, thanh nga.
Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài tập đọc tôi luôn
quan tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu ch/tr, x/s, r/ d, các nguyên âm đôi
7
và từ ngữ có chứa thanh hỏi, thanh nga để học sinh luyện đọc nhiều. Bên cạnh
đó, tùy theo nội dung của bài học giáo viên đưa ra những trò chơi giúp hoạt
động vừa học vừa vui chơi thoải mái.
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Thi đọc nhanh và đúng câu có
âm đầu, vần, thanh dễ lẫn. Giáo viên tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số câu thơ,
câu văn có những âm đầu, vần, thanh dễ đọc, viết lẫn lộn (do cách phát âm của
địa phương) rồi ghi vào mảnh giấy “ làm đề bài” thi đọc trong nhóm. Lần lượt
từng học sinh lên bốc thăm và đứng lên đọc to bài trước lớp, cả lớp nghe và đại
diện một số học sinh đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh,
phát âm đúng. Giáo viên nhận xét, tuyên dương bạn đọc tốt.
Ví dụ minh họa:
1. Đọc phân biệt các âm đầu dễ lẫn:
a. Phân biệt ch/ tr.
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm.
b. Phân biệt x/s.
Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phòng lại xôn xao nhớ
đến những người thân ở quê.
c. Đọc phân biệt các tiếng có thanh dễ lẫn( thanh hỏi, thanh nga).
Kẽo cà kẽo kẹt
Bé Giang ngủ rồi
Tóc bay phơ phất
Vương vương nụ cười.
Trường hợp 2: Loại bài tập tình huống
Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngôn
ngữ nói. Trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đa tạo điều kiện cho
học sinh được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở
các bài học Tập đọc-kể chuyện và Tập làm văn, Luyện từ và câu học sinh được
chơi đóng vai, đóng kịch kể lại theo từng chủ điểm của bài học, học sinh được
tham gia chơi đóng vai ông bà, cha mẹ và các cháu nhỏ, người bán hàng, người
mua hàng... để luyện tập các nghi thức của lời nói (chào hỏi khi gặp mặt, chia
8
tay, nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu đề nghị một việc gì đó...) Hoạt động này là
một cách luyện tập phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa
phát triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Để giờ luyện
nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian nghiên cứu nội dung bài luyện
nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với nội dung bài cũng như
phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý
thái độ của học sinh khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình
hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ
thể hiện khác, tùy tình huống vui hay buồn.
Khi nói lưu ý học sinh nên thể hiện cử chỉ tình cảm để câu nói thể
hiện sự lễ phép, lịch sự.
Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp
trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc, mọi nơi trong cuộc
sống hàng ngày với một thời gian dài.
Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình
huống vì khi nói các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì bạn đa làm bẩn áo em. Các
em có thể bị lầm và nói là: - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên
nhân là do các em chưa đọc kĩ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi
vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kĩ đề bài. Đặt mình vào tình huống
của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy các em mới không bị
lầm lẫn. Và em có thể đáp lại lời xin lỗi của bạn là: "Không sao đâu, tớ sẽ
nhờ mẹ tớ giặt là sạch ngay thôi mà."
Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ
với các em, các em chỉ cần nói có hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải
thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích,
các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì không thể phát huy được
tính tích cực, chủ động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp
dạng bài tập này các em sẽ nói, đáp tốt hơn. Bởi vậy giáo viên cần cho các
em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định thể
hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói phải kết
hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi
9
đa phân ra từng dạng bài theo từng trường hợp cụ thể. Từ đó tôi hướng dẫn
cho các em thực hành về các nghi thức lời nói kết hợp cả cử chỉ, thái độ,
tình cảm.
a) Dạng bài: Chào hỏi hoặc tự giới thiệu; Đáp lại lời chào: Tôi hướng
dẫn các em khi chào hỏi hoặc tự giới thiệu lời nói, giọng nói, vẻ mặt, ánh
mắt, nụ cười,...phải tùy từng đối tượng mình gặp gỡ và những điều này cũng
chứa đựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách xưng hô phải phù hợp với
từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự nhiên, lịch sự, cử
chỉ thân mật. Khi đáp lại lời chào, tôi hướng cho học sinh cần nói thế nào để tỏ
thái độ lịch sự, thân mật. Khi đáp lại lời tự giới thiệu cần nói thế nào để tỏ thái
độ vui vẻ, phấn khởi, đón chào.
Đối với dạng bài này tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi phỏng vấn.
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, Tuần 1(Tiếng Việt 2, tập 1).
Tự giới thiệu: Câu và bài.
* Mục đích của trò chơi:
- Luyện tập cách giới thiệu về mình và về người khác với thầy cô, bạn
bè hoặc người xung quanh.
- Phân công: 1 học sinh đóng vai phóng viên truyền hình, còn 1 học sinh
đóng vai chị phụ trách, 1 học sinh đóng vai đội viên Sao Nhi Đồng... sau đó đổi
vai.
- Học sinh có thể chơi trò chơi này theo nhóm hoặc cả lớp.
- Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng
em, giáo viên cần tổ chức cho một hoặc hai cặp học sinh làm mẫu trước lớp.
* Cách chơi: - Một học sinh giới thiệu về mình (tên, quê quán, học
lớp, trường, thích môn học nào, thích làm việc gì?...)
Ví dụ1: Tên tôi là: Nguyễn Thị Mai
Quê tôi ở: xa .......
Tôi học lớp 2 Trường Tiểu học .....
Tôi thích học môn Tiếng Việt.
Tôi rất thích hát và vẽ tranh.
- Sau khi nghe bạn giới thiệu xong về mình, phóng viên phải giới thiệu lại
từng bạn với cả lớp (hoặc nhóm). Nội dung phải chính xác; cách giới thiệu càng
rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều học sinh tập làm phóng viên.
- Cuối cùng cho lớp bình chọn phóng viên giỏi nhất.
Ví dụ 2: Đáp lời chào
10
Bài tập 1: Nói lời của em (Tiếng Việt 2, tập 1- trang 20).
1. Trước khi đi học, em nói lời chào bố, chào mẹ như thế nào?
2. Khi đến trường, gặp thầy cô giáo, em nói lời chào như thế nào?
3. Khi gặp bạn bè ở trường, em nói lời chào như thế nào?
Đối với bài này tôi cho học sinh đóng vai theo cặp theo từng tình
huống đưa ra. Trước hết tôi cho cặp học sinh nói tốt làm mẫu 3 tình huống
trên, sau đó lần lượt các cặp khác lên thể hiện theo từng tình huống. Giáo
viên tuyên dương, động viên khuyến khích học sinh thể hiện tốt các tình
huống đó và đồng thời sửa chữa, uốn nắn cho học sinh còn lúng túng hoặc
đưa ra cách ứng xử chưa phù hợp. Lưu ý học sinh khi nói lời chào phải lễ
phép, lịch sự (đối với người lớn tuổi), còn đối với bạn bè thì thân mật, cởi
mở.
b) Dạng bài: Nói lời cảm ơn hay xin lỗi; Đáp lại lời cảm ơn, xin lỗi.
Tôi hướng dẫn các em khi nói lời cảm ơn hay xin lỗi lời nói phải chân
thành, lịch sự, lễ phép và đi liền với cách biểu hiện tình cảm, thái độ của
mình khiến mọi người thông cảm, bỏ qua cho lỗi của mình. Đối với dạng
bài đáp lời cảm ơn hay đáp lời xin lỗi tôi đa gợi ý để các em biết được:
+ Đáp lời cảm ơn các em cần chú ý ngữ điệu, cách xưng hô:
- Lời người lớn tuổi: chân tình
- Lời bạn bè: lễ phép, khiêm tốn.
- Với bạn bè thân quen lời đáp cần thể hiện thái độ gần gũi, quan tâm.
- Với người lạ (khách) lời đáp cần thể hiện thái độ lịch sự, lễ phép.
+ Đáp lời xin lỗi:
- Với những sự việc nhỏ, không đáng kể thì lời đáp cần thể hiện thái độ
nhẹ nhàng, vui vẻ, sẵn sàng bỏ qua.
- Với những việc đáng buồn hay đáng tiếc xảy ra, lời đáp cần thể hiện
thái độ lịch sự, nhẹ nhàng nhưng cũng có thể kèm theo ý nhắc nhở để lần sau họ
không mắc lỗi như vậy nữa.
Với dạng bài tập này tôi sử dụng trò chơi chọn lời nói đúng để các em
luyện nói.
Trò chơi này có thể áp dụng vào các dạng bài: Cảm ơn, xin lỗi (Tuần 4)
Đáp lời cảm ơn (Tuần 21); Đáp lời xin lỗi ( Tuần 22); ...
* Mục đích của trò chơi:
11
Luyện cho học sinh cách nói lịch sự khi cần cảm ơn người khác và
đáp lại lời cảm ơn của người khác, khi họ cảm ơn với mình.
Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập cảm
ơn và xin lỗi bằng những lời khác nhau.
* Chuẩn bị:
- 4 tranh minh họa (4 băng giấy ghi 4 tình huống khác nhau có xuất
hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn).
+ Một bạn trai tới xách giúp một vật nặng cho một bạn gái.
+ Một bạn bị vấp nga được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ vẽ, bạn nữ cho bạn nam mượn bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn nam đưa cho bạn nữ chai nước uống.
- Chia nhóm: 8 HS/nhóm.
- 1 túi sách to dựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước
uống.
- Cử 2 HS giúp việc cho giáo viên.
* Cách chơi: - Mỗi nhóm cử 2 học sinh tham gia trò chơi ở tình
huống 1 lên trước bảng lớp để học sinh khác theo dõi.
- Học sinh đại diện của từng nhóm lần lượt lên chơi trò chơi đóng vai
ở mỗi tình huống đa cho trong khoảng 1 phút.
Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi. Một em đóng
vai bạn gái đang xách một chiếc túi to, bước đi chậm chạp và nặng nhọc.
Một học sinh đóng vai bạn trai đến bên cạnh bạn gái và nói: " Bạn để mình
xách đỡ cho nào!" rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: "Cảm ơn
bạn, bạn tốt quá!" Bạn trai cười tươi và nói: "Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!"
- Sau khi đại diện cả 4 nhóm đa chơi xong về một tình huống, giáo
viên yêu cầu 2 học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong từng nhóm để
cả lớp cùng nghe lại và bình chọn lời nói đúng.
- Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên.
Chú ý: 2 học sinh giúp việc giáo viên ghi lại câu nói của hai bạn tham
gia chơi ở từng tình huống, mỗi học sinh giúp việc cho giáo viên chỉ chuyên
ghi lại lời nói của một vai (vai "cảm ơn" hoặc vai "đáp lại lời cảm ơn").
c) Dạng bài: Nói, đáp lời chúc mừng (chia vui), chia buồn, an ủi:
12
- Khi nói lời chia vui hướng dẫn các em cần chú ý: người mình chia
vui là ai? Chia vui về chuyện gì? Tình cảm, thái độ, cử chỉ khi nói phải như
thế nào cho phù hợp.
Hướng dẫn học sinh cần nói với thái độ chân thành, tự nhiên, vui vẻ
nhằm thể hiện sự chia vui hay khâm phục, tự hào, phấn khởi.
- Đáp lời chúc mừng (chia vui) cần nói thế nào để bày tỏ niềm vui của
mình và sự biết ơn đối với bạn.
Ví dụ: Mình rất vui và cảm ơn bạn nhé!
- Khi nói lời chia buồn, an ủi cần bày tỏ tình thương yêu, sự quan
tâm, thông cảm với nhau. Chú ý giọng hỏi thăm phải nhẹ nhàng, tình cảm.
Khi nói lời an ủi với người trên, em cần tỏ thái độ ân cần nhưng lễ phép (thể
hiện qua giọng nói và cách xưng hô).
Lời an ủi thể hiện sự động viên và lời đáp lại phải thể hiện sự chân thành,
làm cho con người thêm thông cảm, gần gũi nhau hơn.
Chú ý: Khi nói hay trả lời, cần nhìn vào người hỏi chuyện, nói to đủ nghe
với thái độ tự nhiên, nét mặt tươi vui.
Ví dụ: Bài tập 2 (Tiếng Việt 2, tập1 - trang 94):
Khi cây hoa do ông (bà) trồng bị chết. Em có thể nói lời an ủi ông (bà) như
sau:
- Bà ơi! Bà đừng buồn. Cháu sẽ cùng bà trồng lại cây khác, bà nhé!
- Bà đừng buồn nữa, cháu sẽ nhờ bố tìm cây khác trồng lại để bà vui.
Trường hợp 3: Loại bài tập rèn kĩ năng hội thoại.
Đối với dạng bài tập này tôi lựa chọn các đề bài phù hợp, xây dựng các
tình huống giao tiếp để kích thích hứng thú tham gia hoạt động của học sinh.
Khi sử dụng loại bài tập này tôi thường tổ chức lớp học theo nhiều hình thức: cả
lớp, nhóm, cá nhân.
Ví dụ: Thảo luận ý nghĩa của câu chuyện: “Quả tim Khỉ”.
( Chủ điểm: Muông thú - Tiếng Việt 2, tập 2- trang 52)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ câu chuyện sau đó thảo luận nhóm
đôi theo nội dung câu hỏi mà giáo viên đưa ra.
- HS1:Vì sao Khỉ lại mắng Cá Sấu là kẻ bội bạc, giả dối?
- HS2: Vì Cá Sấu xử tệ với Khỉ trong khi Khỉ coi Cá Sấu là bạn thân.
- HS1:Theo bạn hành động của Khỉ có đúng không?
- HS2: Theo tôi hành động của Khỉ là không đúng.
13
- HS1: Bạn đối xử như thế nào với bạn bè?
- HS2: Trong tình bạn không được dối trá.
Ví dụ : Bài tập 2, Luyện từ và câu (Tuần 21).
Đối với bài tập này tôi hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm đôi
theo hình thức một học sinh hỏi, một học sinh trả lời câu hỏi.
- HS1: Bông cúc trắng mọc ở đâu?
- HS2: Bông cúc trắng mọc ở bên bờ rào, giữa đám cỏ dại.
- HS1: Chim Sơn Ca bị nhốt ở đâu?
-HS2: Chim Sơn Ca bị nhốt ở trong lồng.
-HS1: Em làm thẻ mượn sách ở đâu?
-HS2: Em làm thẻ mượn sách ở thư viện.
Sau khi học sinh thảo luận, đại diện các nhóm lên trình bày trước lớp
theo hình thức hội thoại như trên.
Trường hợp 4: Loại bài tập kể chuyện ( kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc, kể
về bản thân và những người xung quanh ).
Kể chuyện là một biện pháp được sử dụng nhiều để rèn luyện kĩ năng
ngôn ngữ. Đặc biệt là ở lớp 2, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh.
Thông qua kể chuyện, các em được luyện tập cả về ngữ điệu nói, thể hiện thái
độ giao tiếp cụ thể. Vì vậy, bài tập kể chuyện là một biện pháp tổ chức hoạt
động giao tiếp cho học sinh lớp 2 trong giờ học Tiếng Việt.
Đối với loại bài tập này tôi thường gọi 1 học sinh học tốt kể chuyện cho cả
lớp nghe, hướng dẫn và tập cho học sinh kể từng đoạn, kể theo vai nhân vật, kể
toàn bộ câu chuyện. Học sinh tập kể các chi tiết chính, kể thay lời nhân vật… kết
hợp thể hiện thái độ tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn
ngữ hỗ trợ, đặc biệt nắm vững câu chuyện định kể.
Ở phân môn Tập đọc-kể chuyện, ngoài việc rèn cho học sinh có kĩ năng
đọc, kể tốt, còn rèn cho học sinh kĩ năng nói.
Qua các bài Tập đọc - kể chuyện chúng ta thấy ở tiết1 giáo viên rèn kĩ
năng đọc cho học sinh. Đến tiết 2 giáo viên cho học sinh kể chuyện theo một số
câu hỏi gợi ý. Học sinh kể theo cách hiểu của mình đó chính là biện pháp luyện
nói cho học sinh.
Ví dụ1: Chuyện những quả đào (Tiếng Việt 2, Tập2, Trang 91).
14
Tôi phân lớp thành các nhóm hướng dẫn các em phân vai theo các nhân
vật trong chuyện để dựng lại toàn bộ câu chuyện. Học sinh nhận vai, học thuộc
lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ,
động tác, giọng nói..) của nhân vật trong chuyện. Tôi tiếp tục hướng dẫn các
nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời, phối hợp với nhau một cách nhịp
nhàng, tự nhiên (chưa cần diễn xuất cụ thể). Sau đấy hướng dẫn cho các nhân
vật cách diễn xuất . Gọi các nhóm lên trình diễn trước lớp, học sinh khác nhận
xét, bình chọn những học sinh diễn tốt để biểu dương, khen thưởng.
Ví dụ2: Truyện: “Chuyện quả bầu” (Tiếng Việt 2, tập 2, trang 117 )
Đối với câu chuyện này tôi cho học sinh quan sát tranh, sau đó gọi 2 học
sinh dựa theo tranh và kể nối tiếp đoạn 1 và 2 của câu chuyện. Đối với đoạn 3
học sinh tự kể lại, giáo viên có thể gợi ý:
- Người vợ sinh ra quả bầu.
- Hai người thấy có tiếng lao xao trong quả bầu.
- Những con người bé nhỏ sinh ra từ quả bầu.
Cuối cùng tôi cho 1 hoặc 2 học sinh kể lại toàn bộ câu chuyện. Chú ý
học sinh trong khi kể cần thể hiện được giọng của nhân vật kết hợp với lời nói,
cử chỉ, điệu bộ.
Biện pháp 3: Đảm bảo về điều kiện, cơ sở vật chất và sự phối kết hợp giữa
gia đình, nhà trường và xã hội.
3.1. Đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, sách giáo khoa.
- Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa là điều kiện tối thiểu để giúp
các em học tốt qua các phân môn Tiếng Việt.
- Đề xuất với Ban giám hiệu để mua sắm thêm trang thiết bị giúp giáo
viên sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng này phù hợp với từng tiết dạy, các
tiết dạy sẽ nhẹ nhàng hơn, sinh động hơn, nâng cao chất lượng hiệu quả của tiết
học.
3.2. Làm tốt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo viên thường xuyên thông báo và nhận xét kết quả học tập của học
sinh tới phụ huynh học sinh thông qua phiếu nhận xét. Luôn luôn nắm bắt tình
hình học tập ở nhà của học sinh để có biện pháp phối kết hợp với gia đình phụ
đạo, bồi dưỡng học sinh kịp thời.
Giáo viên luôn phối hợp với hội khuyến học, hội phụ nữ thôn để nắm bắt
tình hình gia đình các em, tìm hiểu thêm về những nguyên nhân dẫn đến những
15
học sinh có khả năng giao tiếp còn hạn chế, chưa mạnh dạn khi nói trước đám
đông, chưa tự tin khi thực hành nói trong các phân môn của môn Tiếng Việt, từ
đó giáo viên tìm giải pháp để giúp đỡ các em tiến bộ.
Tìm ra những tồn tại của học sinh để từ đó giáo viên có biện pháp khắc
phục từng lỗi sai của học sinh qua các tiết dạy trên lớp.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
Ngay sau khi khảo sát đầu năm học 2017 - 2018 xong, tôi đa áp dụng
những biện pháp nêu ra ở trên của đề tài vào giờ học chính khóa và các giờ
luyện Tiếng Việt ở buổi 2 để luyện nói cho học sinh, nên chất lượng học tập có
nhiều chuyển biến tích cực. Kết quả đạt được cụ thể về phần luyện nói trong
môn Tiếng Việt (Tính đến Tháng 3/2018).
Lớ Sĩ
p
Số
2B
HS nói đúng,
nói hay (nói có
kèm theo ngữ
điệu, có cử
chỉ, điệu bộ)
Học sinh nói
trôi trảy, rõ
ràng, diễn đạt
được nội dung
HS hiểu nội
dung câu hỏi
nhưng trả lời
còn
ngượng
ngùng
Học sinh nói
không đủ câu,
đủ ý, diễn đạt
còn ngắc ngứ,
lúng túng.
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
15
50
13
43.3
2
6.7
0
0
30
Với kết quả đạt được trong mỗi năm học, tôi nhận thấy mình đa tìm được
hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn
Tiếng Việt. Tôi đa mạnh dạn thực hiện những biện pháp kinh nghiệm của mình
vào các tiết dạy của phân môn Tiếng Việt. Đầu năm học, khi mới bước vào học
Tiếng Việt có không ít học sinh lớp tôi rất “sợ” học môn này nhưng với sự động
viên, dìu dắt của giáo viên, dần dần các em có hứng thú học hơn. Thay vào đó
học sinh rất phấn khởi chờ đón tiết học này. Các em đa có ý thức hơn trong các
giờ học, đa tự tin và hứng thú học tập hơn. Chất lượng học tập có chuyển biến
rõ rệt. Đa số học sinh đa biết đọc đúng, đọc hay và diễn cảm, biết thể hiện sắc
thái khi đọc bài. Đặc biệt là đa bộc lộ được sắc thái riêng biệt khi giao tiếp.
Đó chính là động lực thúc đẩy tôi ngày càng nổ lực phấn đấu hơn nữa
trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.
16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Trong giai đoạn cách mạng nước ta hiện nay, trước yêu cầu đất nước ta
cần có một số nền công nghệ, khoa học hiện đại; yêu cầu về phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là nhiệm vụ
cực kì quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Nhưng trước hết, trách nhiệm lớn
lao thuộc về ngành Giáo dục và Đào tạo. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ
này, mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi người đều phải chung vai, gánh sức. Đối với
người giáo viên cần phải tìm các biện pháp cải tiến phù hợp với thực trạng cụ
thể của trường mình để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, môn học
chi phối toàn bộ các môn học khác trong nhà trường. Đặc biệt cần chú trọng đến
cách rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh.
*Theo kinh nghiệm của bản thân và qua trao đổi với đồng nghiệp, tôi
muốn nhấn mạnh một số biện pháp khi rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong
môn Tiếng Việt mà người giáo viên cần chú ý:
- Trước hết người thầy phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, phải thật sự
chịu khó, yêu nghề, yêu thích công việc thì mới đạt hiệu quả cao trong công
cuộc trồng người.
- Nắm chắc hiểu rõ những vấn đề kiến thức của môn học. Từ đó có những
sáng tạo, cải tiến về phương pháp sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ thể, từng
đối tượng học sinh.
- Sưu tầm tranh ảnh, phim tư liệu, vật thật có liên quan đến bài dạy.
- Biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng
kể, lời nhân vật, nói thành câu.
- Thông qua hệ thống bài tập trong giờ học Tiếng Việt ở lớp 2 sẽ giúp các
em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, qua đó hình thành và phát triển năng
lực tư duy ngôn ngữ cho các em: Thông qua các dạng bài tập còn giúp các em
có khả năng diễn đạt mạch lạc, chính xác và nhất là gây hứng thú học tập, tạo
niềm tin, lòng say mê học tập. Từ đó rèn đức tính chăm chỉ, tự tin, năng động,
sáng tạo góp phần rèn đức tính, phẩm chất và phong cách làm việc của người
lao động mới cho học sinh từ những ngày đi học.
- Kết hợp tốt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học làm cho tiết
học trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên đạt hiệu quả cao.
17
- Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các tiết dạy ngoại khoá, các
buổi sinh hoạt tập thể với nhiều chủ đề, nội dung phong phú, đa dạng về hình
thức tổ chức để cuốn hút các em tham gia.
- Liên hệ thực tế, thực hành vận dụng các kiến thức đa học vào thực tiễn
cuộc sống hàng ngày và luyện tập lâu dài để trở thành những thói quen tích cực
và bền vững.
3.2. Kiến nghị .
a. Đối với Ban giám hiệu:
- Thường xuyên dự giờ, góp ý để giáo viên nâng cao trình độ chuyên
môn, đặc biệt là trong các tiết dạy Tiếng Việt.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn thường xuyên và có chất lượng để giáo
viên học tập kinh nghiệm lẫn nhau về phương pháp dạy học, đặc biệt là cách rèn
kĩ năng nói đúng, chuẩn cho học sinh trong các phân môn của Tiếng Việt.
Ngoài ra nhà trường kết hợp với cô Tổng phụ trách Đội phát động các phong
trào “Nói lời hay ý đẹp”. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa để các em giao lưu
học hỏi lẫn nhau. Có tuyên dương và động viên những cá nhân, tập thể có nhiều
học sinh sáng kiến trong giao tiếp với thầy cô, bạn bè trong nhà trường và mọi
người xung quanh.
- Tổ chức các cuộc thi hùng biện trong các ngày lễ như 20/11, 26/3,
22/12… phù hợp với cấp học của các em từ tổ, khối đến nhà trường để các em
mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
b. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho nhà trường về các tình
huống giao tiếp, nâng cao kĩ năng luyện nói cho học sinh.
- Quan tâm tổ chức thường xuyên chuyên đề dạy môn Tiếng Việt để tạo
điều kiện cho giáo viên học hỏi kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân về “Một số kinh
nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn TiếngViệt” mà tôi
đa áp dụng có hiệu quả trong lớp tôi chủ nhiệm. Tuy nhiên để thành công
hơn nữa, tôi mong nhận được những góp ý chân thành từ đồng nghiệp, hội đồng
khoa học các cấp để sáng kiến này được áp dụng rộng rai và thực sự có hiệu
quả.
18
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết
Lê Thị Hoa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Phương Nga – Đỗ Xuân Thảo – Lê Hữu Tỉnh, Phương pháp dạy học
Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
19
2. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Tiếng Việt 2 Tập một, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2009.
3. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Tiếng Việt 2 Tập một, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2007.
4. Đoàn Thiện Thuật , Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003
5.Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Tiếng Việt 2 Tập một, tập 2. Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2015.
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD& ĐT, CẤP SỞ GD& ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
20
Họ và tên tác giả: Lê Thị Hoa
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bắc Lương
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá
xếp loại
Kết quả
đánh giá
xếp loại
Năm học đánh
giá xếp loại
1
Rèn kĩ năng giải một số
dạng toán bằng sơ đồ
đoạn thẳng cho học sinh
lớp 4.
Rèn kĩ năng giải một số
dạng toán bằng sơ đồ
đoạn thẳng cho học sinh
lớp 4.
Một số kinh nghiệm rèn
kỹ năng nói cho học
sinh lớp 2 trong môn
Tiếng Việt
Cấp phòng
B
2014 - 2015
Cấp tỉnh
C
2015 - 2016
Cấp phòng
B
2017 - 2018
2
3
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
21
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 2 TRONG MÔN TIẾNG VIỆT
Người thực hiện : Lê Thị Hoa
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bắc Lương - Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2018
22