Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Luận văn Nghiên cứu xây dựng phương án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp Quy Nhơn Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.71 KB, 120 trang )

1

MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC................................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT.............................................1
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU.............................................................................2
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ........................................................................................3
ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................4
TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP LÂM NGHIỆP..................6
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....39
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU......................................................................................43
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................113
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................116
PHỤ BIỂU.............................................................................................................119
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................Error: Reference source not found
PHỤ BIỂU ………………………………………………………………………..
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BH&CCDV
BVR
CBCNV
CBCNVC-LĐ
CNVC
CSH
CTCP
CPH
DN
DNNN
DT
ĐTDH


ĐTNH
HĐKD
HĐSXKD
HĐQT
KD
KN.XTTS
LN
LTQD
NDT

Bán hàng và cung cấp dịch vụ
Bảo vệ rừng
Cán bộ công nhân viên
Cán bộ công nhân viên chức và lao động
Công nhân viên chức
Chủ sở hữu
Công ty cổ phần
Cổ phần hóa
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh thu
Đầu tư dài hạn
Đầu tư ngắn hạn
Hoạt động kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh
Hội đồng Quản trị
Kinh doanh
Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh
Lợi nhuận
Lâm trường quốc doanh

Nhân dân tệ


2

NG
NN
QLBV
QLBVR
QSDĐ
PCCR
SX
SXKD
TNR
TSCĐ
TSLĐ
TSNH
TNDN
TNHH
UBND
USD
VNĐ
VNN
XTTS

Nguyên giá
Nhà nước
Quản lý bảo vệ
Quản lý bảo vệ rừng
Quyền sử dụng đất

Phòng chống cháy rừng
Sản xuất
Sản xuất kinh doanh
Tài nguyên rừng
Tài sản cố định
Tài sản lưu động
Tài sản ngắn hạn
Thu nhập doanh nghiệp
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Đô la Mỹ
Việt nam đồng
Vốn nhà nước
Xúc tiến tái sinh
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Trang

Biểu 3.01: Hiện trạng sử dụng đất và tài nguyên rừng của công ty TNHH một
thành viên lâm nghiệp Quy Nhơn – Bình Định …………………………
Biểu 3.02: Tình hình lao động của công ty lâm nghiệp Quy Nhơn tính đến

52

31/12/2010 ……………………………………………………………....
Biểu 3.03: Tình hình vốn SXKD của Công ty qua 3 năm 2008-2010 ………..
Biểu 3.04: Hệ số cấu trúc nguồn vốn phản ánh tình hình tài chính của công ty
Biểu 3.05: Kết quả SXKD của công ty lâm nghiệp Quy Nhơn trong 3 năm

53
55

57

2008-2010 ……………………………………………………………….
Biểu 3.06: Khả năng về nguồn vốn công ty tính đến 31/12/2010 …………….
Biểu 3.07: Tình hình TSCĐ của công ty lâm nghiệp Quy Nhơn năm 2010 ….
Biểu 3.08: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả SXKD của Công ty ………………
Biểu 3.09: Tình hình TSLĐ và ĐTNH tại công ty lâm nghiệp Quy Nhơn tính

59
62
64
68

đến ngày 31/12/2010 …………………………………………………….
Biểu 3.10: Tình hình TSCĐ của công ty lâm nghiệp Quy Nhơn đánh giá lại

70

năm 2010 ………………………………………………………………...
Biểu 3.11: Một số chỉ tiêu xác định giá trị lợi thế kinh doanh của công ty …..
Biểu 3.12: Bảng đơn giá các loại đất theo khung giá Nhà nước và của tỉnh

71
73

Bình Định năm 2010 …………………………………………………….

74



3

Biểu 3.13: Diện tích đất đưa vào tính giá trị doanh nghiệp …………………..
Biểu 3.14: Giá trị đất của công ty tính theo khung giá nhà nước và theo khung

74

giá tỉnh Bình Định ……………………………………………………….
Biểu 3.15: Tổng hợp các nguồn vốn vay từ năm 2004 đến năm 2010 ……….
Biểu 3.16: Tập hợp giá trị rừng đến ngày 31/12/2010 ………………………..
Biểu 3.17: Giá trị thực tế của công ty và xác định giá trị phần vốn góp của

75
78
79

Nhà nước tại công ty …………………………………………………….
Biểu 3.18: Diện tích trồng mới dự án rừng sản xuất năm 2010-2018 ………..

80
82

Biểu 3.19: Vốn đầu tư theo khoản mục của dự án trồng rừng sản xuất giai

83

đoạn 2010-2018 ………………………………………………………….
Biểu3.20: Nhu cầu vốn đầu tư cho dự án trồng rừng sản xuất 2010-2018 ……
Biểu 3.21: Nhu cầu vốn cho dự án trồng rừng sản xuất nguyên liệu giấy


84

2011-2017 ...……………………………………………………………..
Biểu 3.22: Nhu cầu vốn cho dự án bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ cảnh

86

quan Quy Nhơn giai đoạn 2011-2015 …………………………………...
Biểu 3.23: Nhu cầu cho dự án trồng và chăm sóc rừng trồng cảnh quan thành

88

phố Quy Nhơn 2010-2013 ………………………………………………
Biểu 3.24: Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư cho cả giai đoạn để đảm bảo 4 dự án
Biểu 3.25: Kế hoạch đáp ứng nhu cầu vốn của dự án trồng rừng sản xuất giai

90
91

đoạn 2010-2018 ………………………………………………………….
Biểu 3.26: Kế hoạch đáp ứng nhu cầu vốn cho dự án trồng rừng sản xuất làm

93

nguyên liệu giấy năm 2011-2017 ………………………………………..
Biểu 3.27: Nhu cầu vốn cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty ……...
Biểu 3.28: Kế hoạch đáp ứng nhu cầu vốn cho phương án sản xuất kinh

94
96


doanh của công ty ……………………………………………………….
Biểu 3.29: Biểu tổng hợp số cổ phần dành cho các đối tượng ………………..

99
104

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.01: Cơ cấu tổ chức quản lí công ty cổ phần ……………………….......
Sơ đồ 3.01: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí của công ty TNHH một thành viên
lâm nghiệp Quy Nhơn – Bình Định ………………………………………


4

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nước ta chuyển sang phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm khai thác mọi tiềm năng sản xuất
xã hội, nâng cao hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh ấy, khu vực
doanh nghiệp nhà nước, bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước bộc lộ rất nhiều bất
cập. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, cổ phần hóa và đa dạng hóa hình thức sở hữu của một số doanh nghiệp
nhà nước.
Mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động để sử dụng
có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển
sản xuất kinh doanh. Tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu
quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực thụ của người lao

động, của cổ đông.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì tập trung tiến hành
công tác sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và đã đạt được một
số kết quả nhất định như giảm mạnh số lượng DNNN, nâng quy mô vốn bình quân,
giảm bớt được sự tài trợ ngân sách, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, bước đầu đã phát huy được quyền chủ
động kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở, giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, do đặc điểm và thực trạng DNNN của nước ta quá trình này vẫn
còn phải tiến hành một cách thận trọng, lâu dài vì phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn
đề phức tạp trong cả lĩnh vực kinh tế và trong lĩnh vực đời sống xã hội mới đạt được
kết quả mong muốn.


5

Hiện nay, bên cạnh các khó khăn chủ quan xuất phát từ nơi bị nền kinh tế, thì
biến động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đang tiếp tục lan rộng và
theo chiều sâu cũng sẽ đồng thời ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đến nền kinh tế
nước ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn định,
vững chắc không những cho những năm trước mắt mà cả tương lai lâu dài.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một quá trình phức tạp, khi quan điểm
nhận thức chưa thống nhất, kinh nghiệm chưa đủ thì việc cổ phần hóa gặp phải rất
nhiều khó khăn trở ngại. Tuy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được tiến hành từ
5/1990 nhưng cho đến nay tiến độ cổ phần hóa diễn ra chậm, mục tiêu của cổ phần
hóa chưa đạt được như mong muốn. Đặc biệt đối với các công ty lâm nghiệp, ngoài
những khó khăn về vốn, năng lực quản lý yếu kém, việc chưa xác định được giá trị
vườn cây lâu năm, giá trị rừng trồng nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
trong việc giao khoán giá trị vườn cây, rừng trồng theo quy định mới. Chính vì thế,

nhiều đơn vị chưa thực hiện được việc cổ phần hoá cơ sở chế biến gắn với vườn
cây, rừng trồng, các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc vay vốn khi có yêu cầu
thế chấp tài sản. Việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp lâm nghiệp lâm
nghiệp lại càng khó khăn hơn khi phương pháp xác định giá trị tài sản doanh nghiệp
còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Qua thực tế nghiên cứu tại công ty TNHH một
thành viên lâm nghiệp Quy Nhơn - Bình Định, tôi nhận thấy việc xây dựng phương
án cổ phần hóa là hết sức cần thiết và cấp bách. Nhận thức rõ tầm quan trọng của
vấn đề trên, tôi đã thực hiện luận văn tốt nghiệp:
“Nghiên cứu xây dựng phương án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại
công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp Quy Nhơn - Bình Định”.


6

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP LÂM NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận về cổ phần hóa DNNN
1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp Nhà nước
Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước được Quốc hội khoá XI, kì họp thứ 4
thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7
năm 2004 thì Doanh nghiệp Nhà nước được hiểu như sau:
“Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” [28].
Một doanh nghiệp được coi là DNNN khi có đủ 3 điều kiện:
 Nhà nước là cổ đông chính.
 Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá dịch vụ để bán.
 Có hạch toán lãi, lỗ.
Đến thời điểm ngày 01/7/2010, Luật DNNN đã hết hiệu lực, hệ thống các

DNNN về mặt pháp lý đã chuyển đổi sang các loại hình khác và hoạt động theo luật
Doanh nghiệp nói chung. Tuy nhiên về mặt bản chất kinh tế, quá trình chuyển đổi
các DNNN sang các loại hình khác còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.
1.1.2. Khái niệm về CPH DNNN
Cổ phần hóa thực chất là chuyển đổi sở hữu của doanh nghiệp, từ sở hữu Nhà nước
sang đa dạng hóa các hình thức sở hữu nhằm thu hút các nguồn vốn và kinh nghiệm tổ
chức sản xuất từ các nhà đầu tư và người lao động, tạo cơ sở cho cho việc đổi mới các
quan hệ quản lý và phân phối sản phẩm, tạo động lực mới, phát huy quyền làm chủ kinh
doanh nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế [20].
1.1.3. Công ty cổ phần
+ Khái niệm công ty cổ phần


7

Theo Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005 – Chương IV
Công ty cổ phần, CTCP là doanh nghiệp, trong đó:
(1) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
(2) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa;
(3) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
(4) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác;
(5) CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh;
(6) CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn [30].
+ Các loại cổ phần
- Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ
thông là cổ đông phổ thông.

- Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi
là cổ đông ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết; cổ phần ưu đãi
cổ tức; cổ phần ưu đãi hoàn lại; cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền
nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có
hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi
thành cổ phần phổ thông. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu
đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội
đồng cổ đông quyết định. Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần
ưu đãi. Cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định
của Đại hội đồng cổ đông.
+ CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái
phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty [30].


8

+ Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần
Sơ đồ 1.01: Cơ cấu tổ chức quản lí công ty cổ phần
Đaị hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát

Chủ tịch hội đồng quản trị
TGĐ, Giám đốc điều hành hành
Bộ máy điều hành

CTCP có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng

giám đốc. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ
đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm
soát. Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại
diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty.
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan
quyết định cao nhất của CTCP.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công
ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm
quyền của Đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu
Chủ tịch Hội đồng quản trị theo quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp Hội đồng
quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị thì Chủ tịch được bầu trong số thành viên
Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.
Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ


9

tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Ban kiểm soát: Ban kiểm soát có từ ba đến năm thành viên nếu Điều lệ công
ty không có quy định khác; nhiệm kỳ của Ban kiểm soát không quá năm năm; thành
viên Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Các thành viên Ban kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng ban kiểm
soát. Quyền và nhiệm vụ của Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định.
Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có
ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên. Trong trường hợp vào
thời điểm kết thúc nhiệm kỳ mà Ban kiểm soát nhiệm kỳ mới chưa được bầu thì
Ban kiểm soát đã hết nhiệm kỳ vẫn tiếp tục thực hiện quyền và nhiệm vụ cho đến

khi Ban kiểm soát nhiệm kỳ mới được bầu và nhận nhiệm vụ [30].
1.1.4. Mục đích cổ phần hoá DNNN
- Góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, tạo động
lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.
- Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động của các cổ đông, tăng
cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động [22].
1.1.5. Yêu cầu của việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần
- Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn
sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi
mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người
lao động trong doanh nghiệp.


10

- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường
vốn, thị trường chứng khoán.
1.2. Kinh nghiệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên Thế giới
1.2.1. Cổ phần hóa ở một số nước tư bản phát triển
Quá trình CPH ở hầu hết các nước tư bản phát triển được thực hiện chủ yếu
dưới hình thức bán cổ phiếu của các Công ty quốc doanh hay DNNN qua sở giao
dịch chứng khoán, bán đấu giá có giới hạn người mua hoặc bán trực tiếp cho những
người mua được lựa chọn một hay phần hay toàn bộ cổ phần của doanh nghiệp.

Việc bán đấu giá hay bán trực tiếp chỉ áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
còn đối với các công ty lớn thì phổ biến là CPH thông qua thị trường chứng khoán [20].
Mức độ CPH ở mỗi Công ty phụ thuộc vào ý đồ của Chính phủ muốn duy trì
ảnh hưởng đến mức độ nào trong việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp.
Quá trình CPH đó mang lại hiệu quả hết sức điển hình, ở các nước phát triển
hình thành hàng loạt các Công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước – tư nhân, trong đó
một số lĩnh vực Nhà nước giữ cổ phần khống chế, còn một số lĩnh vực khác Nhà
nước chỉ giữ ở một mức có thể kiểm soát hoạt động của chúng [6].
Chính phủ dùng số tiền thu được từ CPH các DNNN không chỉ để giảm thâm
hụt ngân sách mà còn mua cổ phiếu của các Công ty tư nhân trên thị trường chứng
khoán, để đảm bảo cho mình những khoản thu nhập bổ sung, thâm nhập và mở rộng
quyền chi phối của mình trong các lĩnh vực cần kiểm soát và chống độc quyền.
Như vậy, đồng thời với quá trình chuyển đổi sở hữu trong khu vực kinh tế nhà
nước là quá trình “Nhà nước hóa” trở lại các Công ty tư nhân trong chiến lược cơ
cấu lại nền kinh tế thị trường hỗn hợp, đảm bảo mức tăng trưởng ổn định cho đất
nước và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động [6].
1.2.2. Cổ phần hóa á một số nước ASEAN
Hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam á (các nước ASEAN) có truyền
thống nông nghiệp (trừ hai nước Singapo và Brunây) và trong những năm gần đây
đều có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định.


11

Các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường là chính, chỉ có một số bộ
phận nhỏ là hoạt động công ích. Chính vì vậy hiệu quả kinh doanh được đặt lên
hàng đầu, nếu các DNNN mà hoạt động không hiệu quả thì sẽ bị giải thể hoặc phá sản.
Mục đích chính của CPH ở các nước ASEAN là nâng cao tính tự chủ của
doanh nghiệp, xây dựng lại cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên kinh tế tư nhân, tạo
môi trường kinh doanh tích cực đảm bảo cân bằng giữa các thành phần kinh tế xóa

bỏ lối kinh doanh độc quyền kém hiệu quả của kinh tế nhà nước, giảm gánh nặng
cho ngân sách.
Trong các nước ASEAN hai nước Singapo và Malaysia là hai nước tương đối
thành công trong công tác CPH.
Tại Singapo, Nhà nước đã sớm soạn thảo một chương trình CPH có hệ thống
phù hợp với đặc điểm tình hình trong nước, một ủy ban tư nhân hóa khu vực kinh tế
Nhà nước được thành lập để đề ra chương trình CPH hoàn chỉnh dự định kéo dài
trong 10 năm. Các DNNN làm ăn có lãi được chọn là đối tượng CPH trước tiên.
Thành công nhất trong công tác CPH ở Singapo là đã không để ra tình trạng thâm
hụt ngân sách, vẫn duy trì được mức tăng trưởng và tích lũy cao. Do vậy mà hầu hết
các mục tiêu CPH ở Singapo đề ra đã đạt được [12].
Còn ở Malaysia đã thay đổi các chính sách kinh tế theo đó lấy cải cách khu vực
kinh tế Nhà nước làm trọng tâm. Chuyển khoảng 20% số DNNN hiện có sang
CTCP hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm cơ cấu lại DNNN theo hướng hoạt
động có hiệu quả, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, giảm mức nợ của
Chính phủ [27].
Tháng 5/1995 Malaysia đã CPH thành công 120 DNNN trong đó có những
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt như: Hàng không, điện lực, bưu chính viễn
thông…. Malaysia đã chấp nhận một phần sở hữu Nhà nước theo quan niệm DNNN
trong một số ngành thuộc hạ tầng cơ sở hoặc dịch vụ trước đây tư nhân không đầu
tư nên Nhà nước phải đầu tư để tạo ra hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho người dân
bảo đảm an ninh xã hội.


12

1.2.3. Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc
Trung Quốc và Việt Nam có nhiều nét văn hóa tương đồng, Việt Nam với
mong muốn tìm kiếm kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc thúc đẩy CPH DNNN
ở nước ta.

Đầu những năm 80, Trung quốc có 384.000 DNNN, sản xuất 423,8 tỷ NDT giá
trị sản phẩm chiếm 80,3% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc [25]. Căn
cứ vào yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận thấy hoạt động của DNNN có
nhiều vấn đề đáng lo ngại trong đó, nổi lên:
- Hiệu quả kinh tế thấp, không ít doanh nghiệp bị thua lỗ và thua lỗ ngày càng lớn.
- Gánh nặng nợ nần trong các DNNN càng lớn.
- Các DNNN phải gánh chịu quá nhiều chức năng xã hội.
- Tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước quá nghiêm trọng
- Thiết bị của doanh nghiệp cũ kỹ lạc hậu.
Trước tình trạng đó, Trung Quốc chủ trương đổi mới DNNN, trong đó có việc
chuyển đại bộ phận DNNN thành Công ty cổ phần (CTCP) [42].
* Về quan niệm
Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác để tiến hành
CPH DNNN. Họ nhận thức rằng, kinh tế cổ phần là sự vận động của mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, gắn liền với kinh tế hàng hóa và hoạt
động tín dụng, là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, CTCP đó từng
thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế các nước TBCN. Trung Quốc đó vận dụng những
nhận thức nói trên vào việc xây dựng CTCP trong nền kinh tế [25].
Trung Quốc đặt vấn đề CPH một bộ phận DNNN là một phần hữu cơ trong
tổng thể các đổi mới DNNN, mà đổi mới DNNN là khâu then chốt của cải cách
kinh tế. Trung Quốc nhấn mạnh: Cải cách kinh tế bao gồm cấu trúc lại cơ cấu ngành
và cơ cấu sản xuất vĩ mô và vi mô, đổi mới quản lý sản xuất kinh doanh nhằm đạt
hiệu quả kinh tế cao. Muốn vậy, một mặt phải chuyển đổi DNNN thành doanh
nghiệp hiện đại, trong đó có sự tách biệt giữa sở hữu và kinh doanh, giữa Nhà nước


13

và doanh nghiệp; mặt khác, phải đẩy mạnh CPH một bộ phận DNNN. Đồng thời,

coi tiền đề cải cách doanh nghiệp là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường. Trong
tổng thể đó, mỗi khâu đều có vị trí quan trọng của nó, không cô lập và không tách
rời nhau [42].
* Về tiến trình CPH
Năm 1991, Trung Quốc mới chính thức triển khai CPH DNNN. Khi đó, cả
nước có 3.200 doanh nghiệp cổ phần hóa thí điểm, không kể các doanh nghiệp cổ
phần hợp tác thuộc kinh tế Hương Trấn. Năm 1993, 10.300 CTCP phát hành cổ
phiếu trị giá 400 tỷ nhân dân tệ. Năm 1994 có 47% cổ phiếu được bán cho các công
nhân viên trong doanh nghiệp, 46% thuộc quyền sá hữu của pháp nhân có trách
nhiệm hữu hạn, chỉ có 7% cổ phiếu phát hành ra ngoài xó hội. Năm 1995, cả nước
có trên 12.000 CTCP có sở hữu hỗn hợp trong đó Nhà nước sở hữu 40%, các pháp
nhân 40%, cá nhân 20% [12].
* Hình thức tiến hành CPH DNNN
Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc được tiến hành dưới ba hình thức:
Thứ nhất: DNNN cùng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm
giữ cổ phiếu hình thành CTCP. Hình thức góp vốn cổ phần của các doanh nghiệp
giữ cổ phiếu hình thành CTCP. Hình thức góp cổ phần của các doanh nghiệp có thể
là: Lấy tài sản cố định như nhà xưởng, thiết bị quy ra giá trị để góp cổ phần; lấy
vốn dự trữ để đầu tư vào các doanh nghiệp khác; lấy tài sản vô hình như khách
hàng, bản quyền, nhãn mác để tham gia cổ phần. Các CTCP kiểu này có lợi cho
việc hợp tác kinh tế theo chiều ngang, có lợi cho việc di chuyển hợp lý và kết hợp
tối ưu các yếu tố sản xuất nên được phát triển rất nhanh.
Thứ hai: Hình thức bán cổ phần cho công nhân viên chức trong nội bộ doanh
nghiệp. Thông qua hai hình thức này, CNVC có cổ phần, trở thành cổ đông tại
doanh nghiệp mình làm việc. Lợi ích của họ và doanh nghiệp gắn liền với nhau làm
tăng tính làm chủ của người lao động đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, hình thức
CTCP này nảy sinh mâu thuẫn giữa thu nhập trước mắt của công nhân viên chức


14


với sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp và thường xuất hiện tình trạng phân phối
chênh lệch về phía CNVC.
Thứ ba: CPH DNNN bằng cách phát hành cổ phiếu công khai ra thị trường,
trong đó có doanh nghiệp trực tiếp phát hành cổ phiếu trên thị trường để tập trung
vốn, mở rộng, xây dựng mới doanh nghiệp hoặc phát triển các mặt hàng hiện có
của doanh nghiệp; các doanh nghiệp lớn đóng góp cổ phần, phát hành cổ phiếu ra
ngoài xã hội. Hiện nay hình thức cổ phần hóa này không nhiều [42].
* Những kết quả đạt được của CPH DNNN ở Trung Quốc
Thứ nhất: Thúc đẩy tập trung vốn, góp phần tích cực giải quyết vấn đề thiếu
vốn của doanh nghiệp. Trong hơn 10.000 DNNN đó chuyển sang CTCP có hơn 700
đã bán cổ phiếu trên thị trường với giá trị lưu thông trên 500 NDT. Đã có trên
100.000 người làm việc trên thị trường chứng khoán, 31 triệu người đã mua cổ
phiếu tại lục địa, số vốn tập trung của cả hai loại công ty này gộp lại là 13 tỷ USD.
Đó là một nguồn vốn quan trọng giúp ích cho nhiều việc đầu tư các công trình trọng
điểm và các dự án cải tạo ở Trung Quốc.
Thứ hai: CPH DNNN tạo thuận lợi cho chuyển đổi cơ chế kinh doanh của
doanh nghiệp, xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Đây là mục tiêu quan trọng
nhất tại Trung Quốc, thông qua quá trình này, doanh nghiệp được tách rời ra với
chính quyền, quyền sở hữu tách rời quyền kinh doanh, phát huy vai trò tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, khi DNNN chuyển sang CTCP thì doanh
nghiệp không còn đơn thuần thuộc sở hữu Nhà nước nữa, nên chính quyền không
còn chổ dựa để can thiệp trực tiếp vào doanh nghiệp [16].
Thứ ba: Với tư cách là đơn vị sản xuất kinh doanh (SXKD) thuộc kinh doanh
nghiệp độc lập trong khuôn khổ pháp luật và chính sách của Nhà nước, dưới sự
giám sát của cổ đông và toàn xã hội, các CTCP phải trực tiếp đi vào thị trường,
tham gia cạnh tranh, tự tìm tòi để tồn tại và phát triển. Do vậy, các CTCP sẽ phải
vừa thận trọng, vừa phải năng động trong hoạt động SXKD phù hợp với đòi hỏi của
cơ chế thị trường [15].



15

Thứ tư: chuyển DNNN thành CTCP đó tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc
có thể thiết lập và phát triển những tập đoàn doanh nghiệp quy mô lớn, có sức cạnh
tranh, rất cần thiết cho công cuộc phát triển đất nước và vươn ra thị trường thế giới
[41].
1.2.4. Bài học kinh nghiệm từ việc cổ phần hoá ở các nước trên thế giới đối với
Việt Nam
1.2.4.1. Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá
Sự triển khai có tính chất toàn cầu của quá trình này tạo ra một tương quan
hợp lý giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân giữa sự điều tiết của nhà nước và
của thị trường. Vì vậy tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam là một vấn đề
không thể bỏ qua, một đòi hỏi khách quan để chuyển nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước và khai thác các động lực của thị trường.
1.2.4.2. Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá DNNN
Đó là sự phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách thức tổ chức, bước
đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm về điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội
của mỗi nước quy định. Ở nước ta cũng không thể không chú ý đến tính đặc thù về
các điều kiện quy định quá trình này để có sự sàng lọc kinh nghiệm các nước và
chuẩn bị kỹ càng các điều kiện vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
1.2.4.3. Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá
Hầu hết các nước đều coi cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách
toàn bộ nền kinh tế, do đó nó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính
chiến lược cao khi xác định các mục tiêu về cơ cấu và tương quan giữa các lĩnh vực
và khu vực kinh tế để dịch chuyển, phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các
nhóm người sở hữu và quản lý khác nhau. Vì vậy, ở hầu hết các nước đều lập ra một
cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm thực hiện quá trình này theo những quan điểm
chiến lược đề ra. ở nước ta, với quy mô và tính chất quan trọng của chương trình cổ
phần hoá, nhà nước không thể suy xét nó ở tầm chiến lược trong quá trình đổi mới

toàn diện để phát triển nền kinh tế, đồng thời cũng cần phải thành lập một cơ quan


16

nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết toàn bộ những vấn đề liên
quan đến chương trình này [22].
1.2.4.4. Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá
Thực tiễn và nhiều công trình nghiên cứu ở các nước đều chỉ ra rằng việc thực
hiện cổ phần hoá gồm nhiều giai đoạn: chuẩn bị điều kiện về tổ chức, lựa chọn các
mục tiêu, phương thức thực hiện, kiểm soát và điều chỉnh. Tuy các giai đoạn không
có sự phân định rõ rệt nhưng nó có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiễn: khuyến khích
tính thận trọng với những giải pháp phù hợp dựa trên những điều kiện thực tế. Tính
quá trình tỏ ra thích hợp với cả chính phủ, đang cần thời gian nắm bắt và kiểm soát,
cũng như công chúng đang cần thời gian để tìm vào sự ổn định, lâu dài về chính
sách của chính phủ. ở Việt Nam chúng ta, trong hoàn cảnh thiếu nhiều điều kiện
quan trọng để thực hiện cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm quá trình trong cổ
phần hoá các DNNN là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội,
chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này một lần trong thời gian ngắn [21].
1.3. Thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
1.3.1. Cổ phần hoá DNNN ở nước ta tiến hành chậm
Cổ phần hoá một bộ phận DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta từ sau quyết định 217-HĐBT (11-1987) và được đưa vào thí điểm vào năm
1992. Tuy nhiên, tính từ khi chuẩn bị cho đến nay, mặc dù đã trải qua một thời gian
khá dài nhưng kết quả đạt được là không lớn. Các doanh nghiệp được cổ phần đều
có quy mô vừa và nhỏ, trị giá doanh nghiệp chỉ từ 2 tới 16 tỷ đồng, chủ yếu tập
trung ở hầu hết các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh [21]. Rất
nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vẫn đứng ngoài công cuộc thực chủ
trương cổ phần hoá DNNN. Chính vì vậy, việc tìm ra các nguyên nhân chủ quan
cũng như khách quan làm công tác này dậm chân tại chỗ là hết sức cần thiết. Qua

thực tiễn triển khai công tác cổ phần hoá, nổi lên một số nguyên nhân sau:
* Về nhận thức và hành động từ các cơ quan quản lý đến các doanh nghiệp
chưa đầy đủ, hoạt động chưa thường xuyên liên tục. Các cán bộ các cấp còn rất dè
dặt trong công tác cổ phần hoá, nhiều người muốn thế thủ, tốt nhất là không hăng


17

hái trong công tác này để tránh đi chệch hướng XHCN; các doanh nghiệp cũng
không muốn cổ phần hoá, tư tưởng trông chờ vào nhà nước bao cấp việc làm, thu
nhập, phúc lợi,...,tư tưởng các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp cũng không muốn cổ
phần hoá, sợ mất chức vụ, sợ trách nhiệm là phổ biến [9].
* Khung pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ: Chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước mới chỉ dừng lại ở một quyết định, một chỉ thị của Thủ tướng chính phủ,
các ngành các cấp thiếu hoặc rất chậm trong triển khai hướng dẫn thực hiện các cơ
quan chỉ đạo, tức là mới chỉ hoạt động về hành chính, tạo ra sự lúng túng trong quá
trình chỉ đạo thí điểm cổ phần hoá, đặc biệt là xử lý những vấn đề có tính kỹ thuật,
nghiệp vụ ở cơ sở [14].
* Hình thức cổ phần hoá DNNN còn quá sơ sài chưa mang tính đa dạng, trong
khi đó các loại hình doanh nghiệp ở các ngành, các vùng có tính đặc thù riêng [23].
* Thói quen hùn vốn vào công ty cổ phần để kinh doanh trong nhân dân ta
chưa có, đặc biệt là nhân dân miền Bắc.
* Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong doanh nghiệp nhà
nước chuyển sang công ty cổ phần chưa hấp dẫn.
* Thủ tục hành chính quá rườm rà, tốn kém.
* Môi trường hỗ trợ cho cổ phần hoá còn thiếu, chế độ chính sách chưa đồng
bộ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán đã hình thành nhưng hoạt động chưa có
hiệu quả.
* Tổ chức chỉ đạo chưa tập trung, thiếu thống nhất giữa các bộ, các ngành,
trung ương, địa phương, các cơ quan chức năng chưa đủ thẩm quyền giải quyết các

vấn đề phát sinh, đôi khi gặp khó khăn thì chùn bước [17].
Với những vấn đề nêu trên, cho thấy việc cổ phần hoá là vấn đề không đơn
giản. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: Cổ phần hoá một bộ phận DNNN ở
nước ta là cần thiết, nhưng không thể tiến hành trong một thời gian ngắn mà cần
được chuẩn bị, tiến hành thí điểm, rút kinh nghiệm trước khi tiến hành triển khai
hành loạt.


18

1.3.2. Thành công bước đầu và vướng mắc còn tồn tại
1.3.2.1. Một số thành công bước đầu
Tính đến thời điểm cuối năm 1999, trong cả nước đã có 18 DNNN (10 doanh
nghiệp tại TP HCM và 8 doanh nghiệp tại các địa phương khác trên cả nước) thực
hiện cổ phần hoá chuyển sang hoạt động theo luật công ty [12]. Từ khi chuyển sang
công ty cổ phần, các doanh nghiệp đã đạt được một số thành công bước đầu khá rõ
rệt, có tiến bộ về mọi mặt, cả Nhà nước và doanh nghiệp đều có lợi.
Đối với doanh nghiệp:
* Lợi nhuận tăng bình quân 56,9%/năm.
* Vốn tăng bình quân 45%/năm.
* Nộp ngân sách tăng 34%/năm.
* Lao động tăng bình quân 98%/năm.
* Thu nhập người lao động tăng 20%/năm.
* Tỷ suất lợi nhuận trên vốn74,6%/năm [37].
Đối với Nhà nước: Do sản xuất phát triển, doanh thu tăng, lợi nhuận tăng nên
tiền thuế các công ty cổ phần nộp cao hơn khi còn là DNNN. Ngoài ra Nhà nước
còn thu 37.724 triệu đồng từ cá nguồn khác như: tiền bán cổ phần, lợi tức tại các
công ty cổ phần. Vốn cổ phần của nhà nước ban đầu là 28 tỷ, đến đầu năm 1998 đã
tăng lên gần 65 tỷ đồng [38].
Đối với người lao động và xã hội: Thu nhập của người lao động tăng lên từ

1,5 tới 2 lần, có công ty còn cao gấp 2,5 lần, chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần
khoảng 25%/năm; ngoài số lao động cũ các doanh nghiệp còn thu hút thêm khoảng
trên 1000 lao động ngoài xã hội vào làm việc [38].
1.3.2.2. Một số vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ để đẩy nhanh chương trình và tiến
độ cổ phân hoá DNNN
Đó là những vấn đề: Tính toán như thế nào để huy động vốn trong các thành
phần kinh tế, trong người lao động, trong nhân dân theo hướng đa dạng hoá sở hữu;
làm thế nào để tạo động lực thi đua, cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh,thúc đẩy


19

cải tiến quản lý,...Từ đó còn nhiều trăn trở từ các doanh nghiệp đã, đang hoặc đang
được chọn để cổ phần hoá.
1.3.3. Một số công trình nghiên cứu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Năm 1999, nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thơm đã bảo vệ thành công luận án
tiến sĩ: “ Cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam” [17]. Đây là công trình nghiên cứu
và tổng kết khá công phu về lí luận và thực tiễn về cổ phần hóa các DNNN ở Việt
Nam. Tuy nhiên đây là công tình nghiên cứu chung về cổ phần hóa các DNNN ở
những năm đầu của tiến trình cổ phần hóa. Những vấn đề cổ phần hóa các DNNN
trước đây chưa phát sinh, đến nay đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, chưa được
nghiên cứu trong luận án.
Năm 2003, nghiênc cứu sinh Lê Văn Hội đã bản vệ thành công luận án tiến
sĩ kinh tế chuyên ngành Kinh tế, quản lí và kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân với
đề tài: “Cổ phần hóa một số DNNN – Thực trạng và giải pháp” [12]. Đề tài tập
trung vào các vấn đề lí luận và thực tiễn của cổ phần hóa các DNNN. Còn những
vấn đề đặt ra sau cổ phần hóa các DNNN thì đề tài chưa nghiên cứu.
Đã có một số bài viết về từng mặt của vấn đề kinh tế nảy sinh sau khi doanh
nghiệp cổ phần hóa như: “Các vấn đề tồn tại và phát sinh của doanh nghiệp sau cổ
phần hóa và đa dạng hóa sở hữu” của TS. Trần Tiến Cường [32]; “ Một số vướng

mắc về tài chính đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa và đa dạng sở hữu” của Lê
Hoàng Hải – Trưởng ban cổ phần hóa Cục tài chính doanh nghiệp [9]….
Trước những biến động của quá trình cổ phần hóa các DNNN nói chung và
của ngành lâm nghiệp nói riêng, tác giả luận ăn muốn đi sâu nghiên cứu một cách
có hệ thống những vấn đề diễn ra khi cổ phần hóa, từ đó đề xuất xây dựng phương
án cổ phần hóa cho công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp Quy Nhơn – Bình
Định sẽ khả thi và có hiệu quả, tiếp nối các công trình nghiên cứu của các tác giả khác.
1.4. Cổ phần hóa doanh nghiệp lâm nghiệp
1.4.1. Hệ thống các Doanh nghiệp Lâm nghiệp nước ta hiện nay
Năm 2005, cả nước có 355 Lâm trường quốc doanh (LTQD). Trong giai đoạn
2005 - 2010, các LTQD được rà soát, sắp xếp lại trên địa bàn cả nước theo chủ trương :


20

- Tách bộ phận đất đai có nhiều diện tích rừng sản xuất của các LTQD để
thành lập các Công ty Lâm nghiệp.
- Những LTQD quản lý nhiều rừng tự nhiên được chuyển đổi thành các Ban
quản lý rừng.
- Giải thể một số LTQD có ít đất đai hoặc làm ăn kém hiệu quả kéo dài.
Đến thời điểm 2010, số LTQD trên cả nước đã giảm đáng kể, trong đó có:
- 157 LTQD đã chuyển đổi xong thành các Công ty lâm nghiệp, CTCP
- 68 LTQD được chuyển đổi xong thành các Ban quản lý rừng
- 28 Ban Quản lý rừng được thành lập mới trên cơ sở tách một phần đất đai
có nhiều rừng tự nhiên từ các LTQD trước đây.
- Đã giải thể 14 LTQD.
Diện tích đất đai do các LTQD trước đây quản lý tại thời điểm năm 2005 là
4,08 triệu ha đã được rà soát điều chỉnh lại tính đến cuối năm 2010 như sau:
- Tổng diện tích giao cho các Công ty lâm nghiệp quản lý: 2,3 triệu ha.
- Diện tích giao cho các Ban quản lý rừng : 1,14 triệu ha.

- Diện tích giao lại cho các địa phương: 0,5 triệu ha [26].
1.4.2. Lý do tiến hành CPH Doanh nghiệp Lâm nghiệp ở Việt Nam
Lý do chính của chủ trương CPH ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với
lý do thực hiện CPH doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập
trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để
nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
1.4.3. Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp lâm nghiệp
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp (công ty) lâm
nghiệp, về cơ bản, thực hiện theo quy định tại một số văn bản pháp luật sau:
- Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần [11].
- Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần [9].


21

- Thông tư số 146 /2007/TT-BTC ngày 06/12/2007 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính theo quy định tại Nghị định số
109/2007/NĐ-CP [5].
- Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về việc sửa
đổi bổ sung một số Điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá đất [10].
- Thông tư số 145/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ [4].
Ngoài ra, cần thực hiện theo quy định tại một số văn bản pháp luật sau:
- Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp
xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh [1].
- Nghị định số 48/2007/NĐ-CP, ngày 28/3/2007 của Chính phủ về nguyên

tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng [8].
- Thông tư số 65/2008/TTLT-BNN-BTC ngày 26/05/2008 của Bộ Nông
nghiệp và PTNT, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 48/2007/NĐ-CP
ngày 28/3/2007 của Chính phủ về nguyên tắc và phương pháp xác định giá các loại
rừng [2] và một văn bản pháp luật khác có liên quan.
1.4.4. Những vấn đề mang tính đặc thù cần được xem xét khi tiến hành cổ phần
hoá doanh nghiệp lâm nghiệp
1.4.4.1. Xác định tài sản của doanh nghiệp
- Theo quy định của pháp luật hiện hành, tài sản trong doanh nghiệp nhà
nước bao gồm tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản lưu động.
Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật
chất, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia nhiều lần vào chu kỳ kinh
doanh.
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất,
thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ
kinh doanh như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về sử dụng đất...


22

Ngoài ra trong doanh nghiệp còn bao gồm các loại tài sản cố định khác như:
các khoản đầu tư tài chính dài hạn (đầu tư chứng khoán dài hạn, góp vốn liên
doanh...), chi phí xây dựng dở dang..
Tài sản lưu động gồm có các loại vốn bằng tiền, nguyên, nhiên vật liệu, các
khoản phải thu, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản tạm ứng..
Tuy nhiên, các doanh nghiệp lâm nghiệp nước ta được Nhà nước giao một
diện tích rừng và đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Theo tinh thần tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính
trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, chỉ thực
hiện cổ phần hoá các nhà máy, cơ sở chế biến của nông, lâm trường theo quy định

hiện hành; thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng của nông, lâm trường gắn với
cổ phần hoá doanh nghiệp chế biến; không cổ phần hoá rừng tự nhiên và những
diện tích đất có khả năng phục hồi thành rừng tự nhiên.
1.4.4.2. Xác định giá trị doanh nghiệp lâm nghiệp
Giá trị của doanh nghiệp: bao gồm giá trị tài sản của doanh nghiệp: vốn cố
định, vốn lưu động, đất đai, rừng và các yếu tố tạo ra hiệu quả, triển vọng về sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm nghiệp, như uy tín, khả năng sinh lợi. Liên
quan đến xác định giá trị doanh nghiệp lâm nghiệp, cần làm rõ những vấn đề sau:
Xác định giá trị quyền sử dụng đất
Việc tính giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp theo quy
định tại Điều 31 Nghị định 59/2011/NĐ-CP, Điều 30 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP
và Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ
sung một số Điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương
pháp xác định giá đất và khung giá đất, trong đó:
- Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hình thức thuê đất:
Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa chọn hình thức thuê đất thì phải thực
hiện ký hợp đồng thuê đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai và
không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý khi xác định giá trị doanh nghiệp
theo quy định cụ thể như sau: (Điều 31, khoản 3)


23

a) Đối với diện tích đất thuê theo phương thức trả tiền thuê đất hàng năm thì
doanh nghiệp thực hiện trả tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện hành và
không tính tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp [11].
b) Đối với những doanh nghiệp trả tiền thuê đất một lần cho toàn bộ thời
gian thuê đất trước ngày 01/7/2004 (ngày Luật Đất đai có hiệu lực thi hành) thì phải
xác định lại trị giá tiền thuê đất theo giá thuê đất tại thời điểm cổ phần hóa cho thời
gian thuê đất còn lại để tính vào giá trị doanh nghiệp. Khoản chênh lệch tăng do xác

định lại trị giá tiền thuê đất được hạch toán tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ
phần hóa [11].
c) Trường hợp doanh nghiệp đã được giao đất nay lựa chọn hình thức thuê
đất thì phải hoàn thành thủ tục chuyển sang thuê đất gửi cơ quan quyết định cổ phần
hóa và cơ quan quản lý nhà đất tại địa phương trước khi chính thức chuyển sang
công ty cổ phần [11].
- Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa lựa chọn hình thức giao đất (kể cả
diện tích đất Nhà nước đã giao cho doanh nghiệp xây dựng nhà để bán hoặc cho
thuê kinh doanh khách sạn, kinh doanh thương mại dịch vụ; xây dựng kết cấu hạ
tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê) thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào
giá trị doanh nghiệp theo quy định sau: (Điều 31, khoản 2)
a) Đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa đang thực hiện hình thức thuê
đất nay chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thì giá đất để xác
định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất do Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện tích
đất được giao) quy định và công bố tại thời điểm tính giá đất vào giá trị doanh
nghiệp cổ phần hóa theo quy định của pháp luật về đất đai. Trường hợp giá đất chưa
sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất có mục đích sử dụng tương tự thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất
cụ thể cho phù hợp [11].


24

b) Đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa đã được giao đất và đã nộp tiền
sử dụng đất cho ngân sách nhà nước hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
hợp pháp (kể cả diện tích đã giao cho doanh nghiệp xây dựng nhà để bán hoặc cho
thuê kinh doanh khách sạn, kinh doanh thương mại dịch vụ; xây dựng kết cấu hạ
tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê) thì giá đất được xác định theo quy định tại điểm a.

Trường hợp diện tích đất doanh nghiệp được giao có bao gồm cả diện tích
đất sử dụng cho các hoạt động sản xuất cung ứng các dịch vụ, sản phẩm công ích,
phúc lợi công cộng (như công viên cây xanh, môi trường đô thị, bến bãi xe khách,
đất làm công trình thủy lợi …) không phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai thì được loại trừ những diện tích này khi xác định giá trị quyền
sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Đối với diện tích đất sử
dụng cho các công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn theo quy định của
pháp luật về đất đai cũng được xem xét, loại trừ theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ. Doanh nghiệp cổ phần hóa quản lý, sử dụng diện tích đất này theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền phù hợp với quy hoạch và pháp luật về đất đai [11].
Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn cụ thể việc xác định diện tích đất
loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp quy định tại Điều này.
c) Giá trị quyền sử dụng đất xác định tính vào giá trị doanh nghiệp theo quy
định tại điểm a được hạch toán là khoản phải nộp ngân sách nhà nước. Doanh
nghiệp cổ phần hóa phải nộp số tiền này cho ngân sách nhà nước để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trình tự và thủ tục giao đất, nộp tiền sử dụng đất và
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Luật Đất đai và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai [11].
d) Khoản chênh lệch tăng giữa giá trị quyền sử dụng đất xác định lại quy
định tại điểm b với giá trị đang hạch toán trên sổ sách kế toán (nếu có) được hạch
toán tăng vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa [9].
Trường hợp giá trị quyền sử dụng đất xác định lại thấp hơn chi phí thực tế về
quyền sử dụng đất đang hạch toán trên sổ kế toán thì tính theo giá doanh nghiệp
đang hạch toán.


25

Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất đã được
giao thì phải nộp thêm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất theo mục

đích chuyển đổi theo quy định của pháp luật về đất đai.
Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ
phần là giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định sát với giá chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường theo quy định
tại khoản 12 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất [10]. Nếu giá
trị quyền sử dụng đất xác định lại cao hơn chi phí thực tế về quyền sử dụng đất đang
hạch toán trên sổ kế toán thì khoản chênh lệch tăng được tính vào giá trị thực tế
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp [7].
Xác định giá trị lợi thế kinh doanh
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định theo 2 phương pháp sau:
- Xác định theo tỷ suất lợi nhuận và lãi suất trái phiếu Chính phủ:
Giá trị phần

Giá trị lợi

vốn nhà

thế kinh
doanh của
doanh
nghiệp

=

nước theo sổ

định giá


Lãi suất của trái phiếu

sau thuế trên vốn

Chính phủ có kỳ hạn 5

nhà nước bình

năm do Bộ Tài chính

quân 3 năm trước

kế toán tại
thời điểm

Tỷ suất lợi nhuận

x

-

công bố tại thời điểm

thời điểm xác định

gần nhất với thời điểm

giá trị doanh

xác định giá trị doanh


nghiệp

nghiệp

Trong đó:

(1.1)

Tỷ suất lợi nhuận sau

Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề

Thuế trên vốn nhà

trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp

nước bình quân 3

=

x 100%

năm trước thời điểm

Vốn nhà nước theo sổ kế toán bình quân 3

xác định giá trị DN

năm liền kề trước thời điểm xác định giá trị


doanh nghiệp
- Xác định trên cơ sở lợi thế về vị trí địa lý và giá trị thương hiệu:

(1.1.1)


×