Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TƯ TƯỞNG của v i LÊNIN về NHỮNG đặc TRƯNG ĐẢNG KIỂU mới của GIAI cấp CÔNG NHÂN, sự vận DỤNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.69 KB, 24 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG ĐẢNG

KIỂU

MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN, SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM

MỞ ĐÂU
V.I. Lênin vị lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga,
người thầy vĩ đại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sinh thời, V.I.
Lênin đã phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động Nga và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. V.I Lênin
không những đã bảo vệ thành công lý luận chủ nghĩa xã hội của C. Mác và Ph.
Ăngghen trong điều kiện mới, mà ông còn là người đầu tiên đưa lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen thành hiện thực trên đất nước
Nga, mở ra một thời đại mới cho nhân loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Những di sản tư tưởng mà
Người để lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là một kho tàng lý
luận có giá trị trong nhiều lĩnh vực: triết học, kinh tế chính trị, xây dựng đảng,
nhà nước, giáo dục, chiến tranh và quân đội… Cũng như các lĩnh vực khác.
Trong lĩnh vực xây dựng Đảng cộng sản của giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã có
cống hiến vô cùng to lớn về cả mặt lý luận và thực tiễn. Học thuyết của V.I.
Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân là sự kế thừa trung
thành những tư tưởng cơ bản của C. Mác và Ph. Ăngghen; đồng thời bổ sung,
phát triển hoàn chỉnh những đặc trưng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng cộng sản trong điều kiện mới. Những đặc trưng về Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân theo tư tưởng của V.I.Lênin là tổng hợp những luận điểm về cơ
sở nền tảng tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng cách mạng chân chính của
giai cấp công nhân. Đó cũng chính là những cơ sở nền tảng để phân biệt giữa
Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân với những đảng phái chính
trị khác.


1


Học thuyết xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ra đời, đã
đánh bại trào lưu tư tưởng cơ hội ở Nga và chủ nghĩa cơ hội trong Quốc tế II,
tạo cơ sở chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Bônsêvích Nga một Đảng cách mạng chân chính thực sự của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động Nga. Đồng thời tạo cơ sở cho sự ra đời, phát triển của các Đảng cộng sản ở
các nước trên thế giới sau này.
Ngày nay nghiên cứu học thuyết xây dựng đảng nói chung, những đặc
trưng về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của V.I.Lênin nói riêng có ý
nghĩa rất quan trọng, giúp cho các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định đúng đắn phương hướng, nội dung, biện pháp xây
dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
NỘI DUNG
1. Tư tưởng của V.I.Lênin về những đặc trưng của Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân.
1.1. Sự cần thiết phải xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Khi C.Mác và Ph.Ăngghen còn sống bằng uy tín và sự tích cực hoạt động
thực tiễn của mình trong phong trào công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có
công lao to lớn trong việc đưa lý luận chủ nghĩa xã hội vào phong trào công
nhân, dẫn đến sự ra đời hàng loạt các đảng dân chủ xã hội - đảng cách mạng của
giai cấp công nhân. Đó là những chính đảng Mác xít của giai cấp công nhân; là
lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, mang bản chất của giai
cấp công nhân. Trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa
tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai đoạn mà cách mạng vô sản
đã trở thành trực tiếp. Giai đoạn này, giai cấp công nhân cũng đã lớn mạnh về số
lượng, về tổ chức và về chính trị; ý thức giác ngộ giai cấp và vai trò của các
Đảng cộng sản cũng được nâng cao, Trước tình hình ấy, chủ nghĩa đế quốc đã
tăng cường việc tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản, tìm cách chia rẽ phong trào

2


cộng sản và công nhân quốc tế, phát triển chủ nghĩa cơ hội trong hàng ngũ
những người dân chủ xã hội.
Tháng 7 năm 1889 Quốc tế II được thành lập. Trong giai đoạn khi
Ăngghen còn sống và lãnh đạo, bằng uy tín và sự cương quyết đấu tranh chống
xu hướng cải lương, thoả hiệp, cơ hội xuất hiện trong nội bộ quốc tế II, Ăngghen
đã làm cho quốc tế II ổn định, giữ vững là một tổ chức cộng sản chân chính. Sau
khi Ăngghen mất (1895), bọn cơ hội xét lại trong Quốc tế II đứng đầu là
Bécstanh đã phản bội lại chủ nghĩa Mác. Bécstanh đã phủ nhận khả năng đem
lại cho chủ nghiã xã hội một cơ sở khoa học và khả năng cách mạng; phủ nhận
tình trạng bần cùng hoá, tình trạng mâu thuẫn ngày càng tăng trong lòng chủ
nghĩa tư bản, bác bỏ chuyên chính vô sản, lý luận về đấu tranh giai cấp. Bằng
thủ đoạn “tự do phê bình”, chủ nghĩa cơ hội đã xuyên tạc, phủ nhận chủ nghiã
Mác, truyền bá những tư tưởng tư sản vào phong trào công nhân và các đảng
dân chủ- xã hội ở Tây Âu, làm lũng đoạn phong trào công nhân, biến các đảng
dân chủ- xã hội Tây Âu thành những đảng cơ hội cải lương, xa rời bản chất của
giai cấp công nhân và trở thành tay sai của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Trong những điều kiện như vậy, V.I.Lênin đã đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa
cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác. Đồng thời V.I.Lênin cũng
khẳng định cần có một đảng kiểu mới, một đảng chiến đấu cách mạng đủ sức
lãnh đạo nhân dân lao động giành chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Người chỉ rõ: trong
điều kiện chủ nghĩa đế quốc và trong điều kiện cách mạng vô sản đang chín
muồi ở nhiều nước, cần phải có một đảng kiểu mới, thực sự cách mạng, thực sự
cộng sản, đảng đó phải thay thế cho những đảng kiểu cũ – các đảng nghị viện
của châu Âu.
Ở nước Nga trong thời gian đó diễn ra cuộc khủng hoảng cách mạng ngày
càng sâu sắc và gay gắt; phong trào cách mạng chống chế độ địa chủ -chuyên chế

ngày càng mang tính quần chúng. Những cuộc biểu tình và bãi công của công
nhân ở Pê- téc- bua, Rô- xtốp trên sông Đôn, Ba- tum vào tháng 2- tháng 3 năm
3


1902, những cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 ở Xa- ra- tốp, Vin-nô, Ba- cu, Ni- giơni, Nốp- gô- rốt và những thành phố khác chứng tỏ rằng tính tích cực và sự trưởng
thành về chính trị của giai cấp công nhân - đội tiền phong trong cuộc đấu tranh
của toàn dân chống chế độ chuyên chế Nga hoàng đã tăng lên. Cùng với cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân, nông dân các tỉnh Khác- cốp, Pôn- ta- va, Xa- ratốp nổi dậy chống lại bọn địa chủ; “những cuộc nổi loạn vì ruộng đất” cũng lan
sang nhiều địa phương khác, những cuộc đấu tranh của nông dân Gu- ri- a đã tỏ ra
rất ngoan cường và có tổ chức.
Do yêu cầu khách quan của phong trào công nhân Nga, nhiều tổ chức
chính trị của giai cấp công nhân Nga được thành lập. Năm 1895, V. I. Lênin đã
tổ chức thống nhất các tổ chức Mác xít ở Pêtécpua lập ra “Hội liên hợp giải
phóng giai cấp công nhân”, song tổ chức này bị chính phủ Nga hoàng đàn áp,
Lênin và những người lãnh đạo của “Hội liên hợp” bị bắt và bị đưa đi đày ở
Xibêri. Ban lãnh đạo mới của hội được thành lập do Máctưnốp đứng đầu, theo
đuổi một đường lối chính trị sai lầm cải lương, cơ hội. Cũng trong thời gian đó,
trong các nhóm Mác xít ở Nga xuất hiện phái “kinh tế”. Theo V.I.Lênin phái
“kinh tế”, thực chất là bọn cơ hội xét lại, theo đuôi chủ nghĩa cơ hội Bécstanh;
chúng tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác trong phong trào
công nhân Nga, mục đích ngăn cản phong trào đấu tranh tự giác của phong trào
công nhân và sự ra đời của chính đảng Mác xít chân chính ở Nga. Mùa xuân
năm 1898, một số nhóm Mác xít đã nhóm họp ở Minxcơ, tiến hành Đại hội lần
thứ nhất, tuyên bố thành lập Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga, bầu Ban chấp
hành Trung ương, nhưng chưa thông qua được Cương lĩnh và Điều lệ Đảng do
sự chống phá của bọn cơ hội xét lại trong những người dân chủ xã hội. Phái
“kinh tế” đã tuyên truyền tư tưởng chủ nghĩa cơ hội Bécstanh vào phong trào
công nhân và các nhóm Mác xít ở Nga. Chúng sùng bái tính tự phát của phong
trào công nhân, khuyên giai cấp công nhân Nga chỉ nên dừng lại ở đấu tranh

kinh tế trong khuôn khổ hiến pháp nhà nước quy định, không cần phải tiến hành
cách mạng vô sản lật đổ chế độ chuyên chế Nga Hoàng. Phái “kinh tế” cũng cổ
4


cũ và bảo vệ cho lối làm việc “thủ công nghiệp” trong Đảng công nhân dân chủ
xã hội Nga, tìm cách hạ thấp tính tiền phong của Đảng xuống ngang hành những
tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân. Sự chống phá của phái “kinh tế”
trong hàng ngũ những người dân chủ xã hội Nga, đã làm phân tán về tư tưởng,
tan rã về tổ chức trong Đảng dân chủ xã hội Nga.
Trước tình hình đó V.I.Lênin đã khái quát thực trạng phong trào dân chủ
xã hội Nga lúc bấy giờ như sau: “chủ nghĩa xã hội khoa học không còn là một
học thuyết cách mạng hoàn chỉnh nữa, nó đã trở thành một sự hỗn hợp, trong đó
người ta “tha hồ” pha thêm vào những điều vô bổ của bất cứ quyển sách giáo
khoa mới nào của Đức; khẩu hiệu “đấu tranh giai cấp” không còn thúc đẩy
người ta hành động ngày một rộng thêm, ngày một kiên quyết thêm, mà lại được
dùng để xoa dịu, vì “đấu tranh kinh tế không thể nào tách ra khỏi cuộc đấu tranh
chính trị được”; quan niệm về đảng không phải là lời kêu gọi thành lập ra một tổ
chức chiến đấu của những người cách mạng, mà lại biện hộ cho một thứ “chủ
nghĩa quan liêu cách mạng” và một khuynh hướng chơi cái trò những hình thức
dân chủ”1
Tình hình đó đặt ra vấn đề cấp bách cho phong trào công nhân Nga là phải
thành lập một Đảng tập trung thống nhất trên toàn lãnh thổ nước Nga, chấm dứt
tình trạng phân tán về tư tưởng, tan rã về tổ chức trong phong trào công nhân
Nga. Theo V.I.Lênin đó phải là Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, một đảng
thực sự đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga.
Đảng đó phải độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ chức so với các đảng dân chủ
xã hội kiểu cũ – các đảng dân chủ cải lương cơ hội ở châu Âu lúc đó.
Không những luận giải, chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng một đảng cách
mạng chân chính của giai cấp công nhân, V.I.Lênin còn kiên quyết đấu tranh

chống phái “kinh tế” ở Nga, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng Bônsêvích - Đảng cộng sản Nga. Việc thành lập Đảng Bônsêvích
Nga, đã đánh dấu sự mở đầu của một giai đoạn mới trong sự phát triển của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng Bônsêvích Nga đã trở thành
1

. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1975, tr 233.

5


mẫu mực để xây dựng các đảng cộng sản của giai cấp công nhân thế giới.
V.I.Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò quyết định của Đảng cộng sản đối với sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, coi đó là đòn bẩy mạnh mẽ có khả
năng “đảo lộn nước Nga”.
2.1. Những đặc trưng về tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác – Ph. Ăngghen về Đảng cộng sản,
V.I.Lênin đã chỉ rõ những đặc trưng về tư tưởng, chính trị và tổ chức Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân Nga cũng như các Đảng cộng sản trên thế giới.
* Về tư tưởng.
Theo V.I.Lênin vì Đảng là đội tiền phong, lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên Đảng cần phải
được trang bị lý luận cách mạng: “chỉ đảng nào có được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong”. 1 Trong hoàn cảnh bọn
cơ hội chủ nghĩa đang xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin khẳng định
lý luận cách mạng, khoa học của giai cấp công nhân chính là lý luận chủ nghĩa
Mác. Đảng cần lấy lý luận chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động. Bởi vì: lý luận chủ nghiã Mác là hệ thống lý luận mang bản chất
cách mạng và khoa học, chỉ ra những quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội,

tư duy, là học thuyết duy nhất đúng bàn về giải phóng triệt để con người. Bản
chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác biểu hiện ngay trong nguồn gốc lý
luận, thực tiễn hình thành nên lý luận chủ nghiã xã hội khoa học. Đó là sự kế
thừa những tư tưởng tiên tiến của nhân loại (triết học cổ điển Đức, kinh tế chính
trị Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp), là sự khái quát từ thực tiễn phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới (phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân Anh, Đức và đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân Pháp).
Lý luận chủ nghĩa Mác chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy sứ mệnh lịch sử của
mình; vạch ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp đấu tranh để lật đổ chế độ
tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động thế giới
1

. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb, Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 32.

6


khỏi bị áp bức, bóc lột và bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Trong bài “Cương lĩnh của chúng ta” V.I.Lênin viết: “Chúng ta hoàn toàn
đứng trên cơ sở lý luận của Mác: lý luận đó là lý luận đầu tiên đã biến chủ nghĩa
xã hội từ chỗ là một không tưởng, thành một khoa học; lý luận đó dựng lên
những cơ sở vững chắc cho khoa học ấy, vạch rõ con đường mà chúng ta cần
phải theo bằng cách phát triển khoa học đó thêm nữa và phát huy nó đầy đủ chi
tiết”.1
Lấy lý luận chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, không có nghĩa là áp dụng một cách máy móc chủ nghĩa Mác vào hoạch
định cương lĩnh, đường lối, sách lược của Đảng. Lấy chủ nghĩa Mác làm nền
tảng là phải trung thành với những nguyên lý cơ bản, đồng thời phải nghiên cứu
bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn mới; xuất phát từ

thực tiễn phong trào cách mạng của mỗi nước để đề ra cương lĩnh, đường lối,
sách lược cách mạng của Đảng. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý
luận Mác như là một cái gì song xuôi hẳn hoặc bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã
hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận Mác, vì
lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn áp dụng những nguyên
lý ấy thì cứ xét từng nơi, ở Anh không giống như ở Pháp, ở Pháp không giống
như ở Đức, ở Đức không giống như ở Nga”.2
Trong tác phẩm “Làm gì?”, V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh trên lĩnh
vực tư tưởng, lý luận trong Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga. Theo V.I.Lênin
phái “kinh tế” ở Nga sùng bái tính tự phát và phủ nhận tính tự giác của phong
trào công nhân, thực chất là phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác với tính cách là
yếu tố tạo lên tính tự giác trong phong trào công nhân; phủ nhận vai trò lãnh đạo
1

. V.I.Lênin bàn về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1967, tr 38.
.V.I.Lênin bàn về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1967, tr 41.

2

7


của Đảng với tư cách là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân. Để
đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, Đảng phải truyền bá lý luận chủ
nghĩa Mác vào phong trào công nhân để nâng cao giác ngộ chính trị cho quần
chúng công nhân và nhân dân lao động, làm chuyển hoá phong trào cách mạng
từ tự phát thành tự giác. Mặt khác Đảng phải tích cực đấu tranh trên mặt trận tư

tưởng, lý luận để ngăn chặn sự ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, tăng cường hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Đảng phải coi đấu tranh
trên mặt trận lý luận ngang hàng với đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế, ba
hình thức đấu tranh đó phải gắn bó chặt chẽ với nhau. V.I.Lênin yêu cầu mọi cán
bộ, đảng viên phải tích cực nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác, nắm vững bản
chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác để trở thành những nhà tuyên
truyền, cổ động chính trị giỏi trong quần chúng công – nông.
* Về chính trị.
Trước hết theo V.I.Lênin chính trị biểu hiện trong “lĩnh vực những mối
quan hệ giữa tất cả các giai cấp, các tầng lớp với nhà nước và chính phủ, lĩnh
vực những mối quan hệ tất cả các giai cấp với nhau”. 1 Như vậy, chính trị không
những chỉ là mối quan hệ giữa các giai cấp với nhau, quan trọng hơn đó là mối
quan hệ giữa các giai cấp với nhà nước và chính phủ. Dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, quan hệ giữa giai cấp tư sản và vô sản là quan hệ giữa kẻ đi áp bức, bóc
lột và những người bị áp bức, bóc lột. Nhà nước tư bản chủ nghĩa là nhà nước
của giai cấp tư sản, đem lại và bảo vệ quyền lợi kinh tế, chính trị cho giai cấp tư
sản (giai cấp chiếm số ít trong xã hội tư bản). Ngược lại giai cấp công nhân và
nhân dân lao động sống dưới chế độ tư bản bị tước hết quyền dân chủ, quyền tự
do, bình đẳng. Bởi vậy để giành được quyền dân chủ, tự do, bình đẳng cho mình,
giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải kiên quyết đấu tranh lật đổ sự thống
trị của nhà nước tư sản, xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội
mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân là đội tiên phong,
lãnh tụ chính trị của giai cấp, đại biểu cho quyền lợi của công nhân và nhân dân
1

. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 101.

8



lao động. Do đó theo V.I.Lênin mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân phải rõ ràng, phải nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế
giới của giai cấp công nhân: “Đảng dân chủ xã hội lãnh đạo cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân, không những là để đạt được những điều kiện có lợi cho việc
bán sức lao động, mà còn là để thủ tiêu cái chế độ xã hội bắt nó buộc những
người tay trắng phải bán mình cho bọn nhà giàu. Đảng dân chủ xã hội đại diện
cho giai cấp công nhân không phải trong mối quan hệ của họ đối với một nhóm
chủ cho thuê nhất định, mà trong mối quan hệ với tất cả các giai cấp trong xã hội
hiện đại, với nhà nước, một lực lượng chính trị có tổ chức”. 1 Theo đó, mục tiêu
nhiệm vụ của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo giai cấp
công nhân- liên minh với giai cấp nông dân, tiến hành cách mạng vô sản, lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập nền chuyên chính vô sản, tiến hành xoá
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đó, Đảng phải có cương lĩnh,
sách lược chính trị đúng đắn; cương lĩnh, sách lược đó phải trên cơ sở nền tảng
của lý luận chủ nghĩa Mác và xuất phát từ thực tiễn phong trào cách mạng của
từng nước. Phải tìm mọi cách nâng cao giác ngộ chính trị cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải tích cực tiến hành giáo
dục chính trị cho giai cấp công nhân, cố gắng phát triển ý thức chính trị của giai
cấp công nhân”,2 tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân đấu tranh chính trị
nhằm lật đổ chế độ chuyên chế, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống phái “kinh tế” – phái cơ hội xét
lại trong Đảng dân chủ xã hội Nga trong lĩnh vực chính trị. Phái “kinh tế”
khuyên công nhân chỉ dừng lại ở đấu tranh kinh tế và hô hào khẩu hiệu “đem lại
cho cuộc đấu tranh hoàn toàn kinh tế một tính chất chính trị”. Người chỉ rõ:
“Như vậy là dưới một hình thái sâu xa và cách mạng “một cách ghê gớm”, cái
câu nghe rất kêu: “đem lại cho cuộc đấu tranh hoàn toàn kinh tế một tính chất
1


. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 71- 72.
. Sđd tr. 72.

2

9


chính trị”, thực ra đã che dấu cái khuynh hướng cổ truyền nhằm hạ thấp chính trị
dân chủ xã hội xuống ngang với chính trị công liên chủ nghĩa. Thực ra, câu
“đem lại cho cuộc đấu tranh hoàn toàn kinh tế một tính chất chính trị” không
bao hàm cái gì khác hơn là cuộc đấu tranh đòi những cải cách kinh tế”. 1
V.I.Lênin cũng chỉ rõ: cuộc đấu tranh kinh tế chống chính phủ, đó là chính trị
công liên chủ nghĩa, từ đó đến chính trị dân chủ xã hội thì còn rất xa. V.I.Lênin
không phủ nhận hoàn toàn việc lãnh đạo giai cấp công nhân đấu tranh trong lĩnh
vực kinh tế, nhưng chỉ coi đó là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh chính
trị và phải phụ thuộc vào đấu tranh chính trị: “Đảng dân chủ xã hội cách mạng
đặt cuộc đấu tranh đòi những cải cách – coi đó là bộ phận của toàn bộ - phụ
thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng cho tự do và chủ nghĩa xã hội”.2
* Về tổ chức.
V.I.Lênin không những đã đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội
trong các vấn đề cương lĩnh và sách lược, mà cả trong lĩnh vực tổ chức.
V.I.Lênin đã vạch rõ sai lầm cơ bản của phái “kinh tế” là phạm phải chủ nghĩa
cơ hội về vấn đề tổ chức, đánh giá thấp ý nghĩa quan trọng của tổ chức trong
cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản. Theo V.I.Lênin Đảng tồn tại
không thể với những sự thống nhất về cương lĩnh và sách lược, mà còn ở sự
thống nhất về tổ chức: “Sự thống nhất trong những vấn đề cương lĩnh và sách
lược là tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để đảm bảo sự thống nhất của Đảng và tập
trung hoá công tác của Đảng. Muốn đạt được sự thống nhất trên đây, thì phải có

sự thống nhất về tổ chức nữa.” 3 Những nguyên tắc tổ chức của Đảng được
V.I.Lênin trình bày trong nhiều tác phẩm và bài viết của mình. Trong đó tập
trung chủ yếu ở tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi”, được viết vào năm
1904. Những nguyên tắc cơ bản đó là:
- Đảng cộng sản là đội tiền phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ
chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân.

1

. Sách đã dẫn, tr 78.
. Sách đã dẫn, tr 79.
3
. V.I.Lênin TT, Tập 8, Nxb Tiến bộ Mátxcơva 1979, tr 289.
2

10


- Đảng phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có kỷ luật
nghiêm minh.
- Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiền phong với giai cấp và
quần chúng.
- Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
- Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động vào Đảng, đồng thời phải thường xuyên đưa những người
không đủ tiêu chuẩn và những và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
V.I.Lênin nhận thấy ở tổ chức một nguồn sức mạnh to lớn của giai cấp
công nhân. Người chỉ rõ: “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp
vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức”.1 Cuộc đấu tranh của
V.I.Lênin chống phái “kinh tế” ở Nga, cũng chính là cuộc đấu tranh chống chủ

nghĩa cơ hội trong Quốc tế II trong vấn đề tổ chức và đã đặt cơ sở lý luận vững
chắc cho việc xây dựng Đảng cộng sản về tổ chức.
Tư tưởng của V.I.Lênin về cơ sở tư tưởng, chính trị và tổ chức đã đặt nền
móng cho sự ra đời của Đảng Bônsêvích Nga, đồng thời cũng là cơ sở nền tảng
để dẫn đến sự ra đời của các Đảng cộng sản chân chính của giai cấp công nhân
trên thế giới. V.I.Lênin không có một bài viết, một tác phẩm riêng nào về mối
quan hệ của ba yếu tố đó, nhưng xuyên suốt các bài viết, các tác phẩm viết về
Đảng cách mạng của giai cấp công nhân đều toát nên tư tưởng: ba yếu tố tư
tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng có mối liên hệ thống nhất biện chứng với
nhau hình thành nên Đảng, thiếu một trong ba yếu tố đó Đảng sẽ không trở
thành một chỉnh thể thống nhất. Những cơ sở về tư tưởng, chính chị và tổ chức
của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân theo tư tưởng của V.I.Lênin, cũng
chính là những tiêu chuẩn để xem xét tư cách của Đảng cách mạng của giai cấp
công nhân. Đảng nào không được xây dựng và hoạt động theo theo những tiêu
chuẩn đó, không phải là Đảng cách mạng của giai cấp công nhân.

1

. V.I.Lênin TT, Tập 8, Nxb Tiến bộ Mátxcơva 1979, tr 490.

11


2. Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức theo những nguyên tắc của V.I.Lênin
về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, được
xây dựng trên cơ sở tư tưởng của V.I.Lênin về những đặc trưng Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân.
Đảng cộng sản Việt Nam được chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện,

ngay từ đầu đã chứng tỏ là một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Căn cứ vào những tiêu chuẩn về tư tưởng,
chính trị và tổ chức của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân theo tư tưởng của
V.I.Lênin. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được biểu hiện ở những nội
dung sau:
* Về chính trị.
Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, trong cương lĩnh chính
trị của mình đã khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là:
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành tự do cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu, nhiệm vụ đó đã khẳng định rõ lập trường, quan điểm của giai cấp công
nhân Việt Nam- đó là lập trường, quan điểm chính trị của một đảng cách mạng
chân chính của giai cấp công nhân. Cương lĩnh chính trị của Đảng đã xác định
nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là đấu tranh để đánh đổ đế quốc,
phong kiến, thành lập chính phủ công- nông để tiến hành cải tạo xã hội cũ xây
dựng chế độ xã hội mới. Cương lĩnh chính trị của Đảng đồng thời cũng xác định
giai cấp công nhân phải liên hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân Việt Nam để tiến
hành cách mạng vô sản. Nhờ có cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn
Đảng ta đã tập hợp được lực lượng cách mạng hùng hậu trong cách mạng tháng
8 năm 1945, đánh đuổi đế quốc, phong kiến, đưa Việt Nam chính thức trở thành
một quốc gia độc lập trên thế giới.

12


Tiếp tục tinh thần của cương lĩnh chính trị năm 1930, Đảng cộng sản Việt
Nam đã trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin trong hoạch
định các cương lĩnh, đường lối chính trị của mình trong tiến trình cách mạng
Việt Nam. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc,
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xây dựng “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã khẳng định: “nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng
nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ
với nhau. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.”1 Như vậy Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, đã thể hiện rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là:
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đó chính là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiện, hoàn cảnh mới của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là
sự thể hiện lập trường trước, sau như một của Đảng ta là: không chấp nhận chế
độ tư bản chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, nhiệm vụ giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột; quyết tâm xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa, tiến tới cộng sản chủ nghĩa. Sự vững vàng về
lập trường chính trị của Đảng trong điều kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào đã một lần nữa đã
chứng tỏ bản lĩnh chính trị giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam
đã luôn luôn giải quyết hài hoà lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, xây dựng mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhân dân lao động Việt Nam; thực hiện chuyên
chính với những kẻ phản bội lại lợi ích quốc gia, dân tộc; phản bội lợi ích giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Quá trình xây dựng Đảng luôn gắn với quá
1

. Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr 110.

13



trình xây dựng và thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ
thống chính trị của nhà nước, phát huy vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng trong
hệ thống chính trị. Đó cũng là cơ sở để mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng
được quán triệt và trở thành mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của các tổ chức trong
hệ thống chính trị.
* Về tư tưởng.
Đảng cộng sản việt Nam ngay từ khi ra đời đã khẳng định Đảng lấy chủ
nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Điều
đó được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 10 năm
1930): “Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và
Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chính và lâu dài”.1 Thực tiễn lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin đã trở thành cơ sở nền tảng của phong trào cách mạng Việt
Nam từ những năm 1925, khi mà chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của
dân tộc, của Đảng ta khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Lênin”.2 Tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin đã thấm đẫm trong các văn kiện
thành lập Đảng, trong các cương lĩnh, đường lối, sách lược của Đảng từ khi
thành lập đến nay. Thông qua Đảng cộng sản Việt Nam lý luận chủ nghĩa MácLênin đã đi sâu vào tâm hồn, tình cảm, ý chí của những người Việt Nam yêu
nước, thôi thúc họ chiến đấu quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác- Lênin Đảng cộng sản Việt
Nam đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam giành được những thành tựu vĩ đại trong
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần
đây, khi bọn phản động trong và ngoài nước lớn tiếng phủ nhận tính chất cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng ta đã kiên quyết đấu tranh
không khoan nhượng với những những tư tưởng, quan điểm sai trái đó. Trước sự
biến động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều Đảng cộng sản
1


. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998, tr 100.
. Hồ Chí Minh TT, Tập 2, Nxb CTQG, Hà nội, 1994, tr 268.

2

14


trên thế giới đã xa rời, từ bỏ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Trái lại Đảng ta vẫn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào
hoạch cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng. Đảng thường xuyên chăm lo
công tác giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân
dân nhằm làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin trở thành nền tảng tư tưởng của toàn
Đảng và toàn xã hội. Từ Đại hội lần thứ VII của Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam
chính thức khẳng định trong văn kiện của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành
động”. Quan điểm đó hoàn toàn đúng với bản chất cách mạng, khoa học của chủ
nghĩa Mác- Lênin, vì các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác- Lênin đều đã nhắc nhở
những người cộng sản rằng: không được coi lý luận của các ông là “tuyệt đỉnh”,
mà phải tiếp tục nghiên cứu, phát triển, bổ sung, hoàn chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn cách mạng của mỗi nước. Mặt khác tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính
là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
* Về tổ chức.
Xác định lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hành động, điều đó cũng có nghĩa rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
không chỉ trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin trong
xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, mà cả trong lĩnh vực tổ chức. Điều đó
được thể hiện trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
Trước hết, Đảng ta khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao

động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” 1. Khẳng định như vậy hoàn toàn
không trái với lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin. Bởi vì, một mặt vẫn thể hiện rõ
Đảng là của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân; mặt khác
cũng thể hiện được mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân lao động và với dân tộc
Việt Nam. Ở Việt Nam lợi ích của giai cấp công nhân, thống nhất với lợi ích cơ
1

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà nội 2006, tr 3,4

15


bản của nhân dân lao động và lợi ích của dân tộc. Quy luật ra đời của Đảng cũng
đã cho thấy, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn là
đội tiên phong của các tầng lớp nhân dân yêu nước Việt Nam. Hơn thế nữa toàn
thể nhân dân Việt Nam đều thừa nhận vị trí, vai trò tiên phong của Đảng cộng
sản Việt Nam.
Thứ hai, trong các văn kiện của Đảng đều khẳng định: Đảng cộng sản Việt
Nam “là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách”1, tự phê bình và phê bình kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rõ rằng: Đảng cộng sản Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân; đồng thời
mang tính nhân và dân tính dân tộc sâu sắc. Đảng cộng sản Việt Nam thực sự là
một Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
2.2. Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức trong giai đoạn hiện nay.

Ba mặt xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong công tác
xây dựng Đảng gắn liền với nhau, quyết định lẫn nhau. Xây dựng Đảng về tư
tưởng và tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với nhau, xuất phát từ đường lối và
nhiệm vụ chính trị, đồng thời bảo đảm cho đường lối và nhiệm vụ chính trị được
xác định đúng, được thấu suốt và thực hiện đầy đủ.
Xây dựng Đảng về chính trị có nghĩa là bảo đảm cho Đảng có cương lĩnh,
đường lối chính trị đúng đắn trong từng giai đoạn, thời kỳ phát triển của cách
mạng. Trong đó Đảng phải đề ra những nhiệm vụ, bước đi cho từng thời kỳ cụ
thể, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa các nhiệm vụ chiến lược, giữa
nhiệm vụ lâu dài và nhiệm vụ trước mắt, giữa các mặt hoạt động kinh tế và quốc
phòng, kinh tế và văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại; phải cụ thể hoá đường
lối thành các chính sách cụ thể về mọi mặt, thành phương hướng, mục tiêu, kế
1

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà nội 2006, tr 5.

16


hoạch hành động của từng ngành, từng đơn vị ở trung ương, địa phương và cơ
sở, thành chủ trương, biện pháp để chỉ đạo thực hiện.
Xây dựng Đảng về chính trị có tầm quan trọng quyết định đối với mọi
hoạt động của Đảng. Bởi vì, có đường lối chính trị đúng mới xác định được
phương hướng hành động đúng, mới có phương hướng tư tưởng và tổ chức
đúng. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức bao giờ cũng phải dựa
vào đường lối, nhiệm vụ chính trị; xa rời đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng
sẽ dẫn đến mất phương hướng, mục tiêu, không có sức sống và sẽ thất bại, thậm
chí gây trở ngại cho việc thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị. Có đường lối
đúng là một điều kiện cơ bản để xây dựng và củng cố sự đoàn kết, thống nhất và
kỷ luật của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Song, như

thế không có nghĩa là công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức chỉ đóng
vai trò thụ động. Công tác tư tưởng và tổ chức, một mặt đảm bảo cho đường lối,
nhiệm vụ chính trị, chủ trương của Đảng được thông suốt; mặt khác có tác dụng
tích cực vào việc xây dựng và phát triển đường lối, nhiệm vụ chính trị, bảo đảm
cho đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng được xác định đúng đắn.
Xây dựng Đảng về tư tưởng bao gồm việc giáo dục đường lối, chính sách
của Đảng, chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ lý
luận của chủ nghiã Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên. Đồng thời kiên quyết đấu tranh
chống mọi biểu hiện tư tưởng sai trái, phản động bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng.
Xây dựng Đảng về tư tưởng không những dựa vào đường lối, nhiệm vụ chính trị
và phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, mà phải gắn liền với xây Đảng về tổ
chức. Tư tưởng có thông suốt thì tổ chức mới chặt chẽ, nội bộ mới đoàn kết thật
sự, kỷ luật mới nghiêm minh, hành động mới tự giác, thống nhất.
Công tác tư tưởng có vị trí hết sức quan trọng, nhưng không tuyệt đối hoá,
xem nó như một biện pháp vạn năng quyết định hết thảy. Tư tưởng thuộc lĩnh vực
tinh thần nên có giới hạn của nó, bởi vậy nó không thể thay thế được công tác tổ
17


chức. Muốn biến tư tưởng thành hành động, thành hiện thực phải thông qua công
tác tổ chức.
Công tác tổ chức có vị trí quan trọng của nó. Tổ chức là điều kiện vật chất
bảo đảm cho tư tưởng được củng cố, biến thành hàng động, thành hiện thực.
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội, công tác tổ chức càng có vai trò hết sức quan trọng. V.I.Lênin đã từng khẳng
định: lĩnh vực trọng yếu và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ tổ chức. Khi đã có đường lối thì tất cả vấn đề là ở tổ chức thực hiện,
tổ chức là biện pháp cơ bản để bảo đảm thực hiện đường lối. Tổ chức đúng hay

sai, điều đó quyết định thành công hay thất bại của đường lối. Đảng ta đã chỉ rõ:
“Trong nhiều năm qua, Đảng ta đã từng đấu tranh chống nhận thức duy tâm xem
thường vai trò của tổ chức, cũng như xu hướng chỉ thiên về những biện pháp tổ
chức và hành chính đơn thuần, coi nhẹ vai trò của công tác tư tưởng. Tư tưởng
tách khỏi tổ chức sẽ dừng lại ở nhận thức, không thể biến thành hành động cách
mạng. Tổ chức tách rời tư tưởng sẽ biến thành hành động mù quáng, sẽ dẫn đến
độc đoán, mệnh lệnh, hạ thấp vai trò của yếu tố tự giác, của tính năng động chủ
quan”.1
Như vậy xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức phải đặt trong
mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa ba yếu tố đó, tuyệt đối không được
xem nhẹ một yếu tố nào.
Từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta đã luôn coi trọng công tác xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức và coi đó là một trong những
nguyên tắc xây dựng Đảng. Thực tế chúng ta thấy, từ sau Đại hội lần thứ VI,
nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị đã được Đảng ta tập trung vào việc hoàn
chỉnh đường lối đổ mới, hoạch định những chủ trương chính sách lớn nhằm cụ
thể hoá đường lối đổi mới trên từng lĩnh vực của hoạt động kinh tế- xã hội của
đất nước. Nhiều nghị quyết của Đảng có giá trị làm chuyển biến căn bản tình
hình kinh tế xã hội, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Công tác tư tưởng của Đảng đã tập trung nghiên cứu nắm vững
1

. Góp phần tìm hiểu học thuyết Mác- Lênin về xây dựng Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr 126.

18


những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; coi
trọng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, làm sáng tỏ con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, giải đáp được những vấn đề lý luận mà thực tiễn công

cuộc đổi mới xây dựng đất nước đòi hỏi như: kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề đảng
viên có được làm kinh tế hay không…Đảng ta cũng đã coi trọng công tác giáo
dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời Đảng kiên quyết đấu tranh
chống những tư tưởng cơ hội, giáo điều dưới mọi màu sắc, đấu tranh có hiệu quả
với âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên mặt trận tư tưởng của các thế lực thù
địch, tăng cường sự nhất trí tư tưởng chính trị trong toàn Đảng, sự đồng thuận
trong nhân dân. Nhiệm vụ xây dựng Đảng về tổ chức cũng được coi trọng. Đảng
đã luôn tập trung củng cố tổ chức đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh; cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đặc biệt trong công tác cán bộ, Đảng đã kiên
quyết đưa những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất ra khỏi Đảng. Cùng với
xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, Đảng đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đổi
mới xây dựng hệ thống chính trị, trong đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới
xây dựng Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức Đoàn thanh niên, công
đoàn…Tuy vậy trong công tác xây dựng Đảng cũng còn nhiều mặt chưa đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới. Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: Năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới; nhiều vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng chậm được
làm sáng tỏ; một số quan điểm lớn, đúng đắn về sự lãnh đạo của Đảng và công
tác xây dựng Đảng được đề ra trong Cương lĩnh và các Nghị quyết Đại hội Đảng
chậm được cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện. Một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên tính chiến đấu, tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng còn yếu, có biểu hiện thờ ơ, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng;
19


một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, thậm chí chống đối, nói và làm trái

với quan điểm, đường lối của Đảng; tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, chủ
nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng. Tình trạng thoái hoá, biến chất về chính
trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân
dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi.
Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, trước sự biến động
phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, đòi hỏi Đảng phải không ngừng củng
cố, xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ Đảng cầm quyền trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Thực hiện chủ
trương đó, Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra phương hướng xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức trong những năm tiếp theo như sau.
* Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng Đảng về chính trị.
Đại hội lần thứ X của Đảng xác định: nhiệm vụ quan trọng nhất là cụ thể
hoá, pháp luật hoá và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, phấn đấu hoàn thành Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001- 2010), đưa nước ta sớm ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống nhân dân, để đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ và bản lĩnh chính
trị; kết hợp chặt chẽ sự kiên định về nguyên tắc, chiến lược với sự vận dụng linh
hoạt, sáng tạo về sách lược, phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc
chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc. Bám sát thực tiễn, tổng kết thực
tiễn, coi trọng nghiên cứu, phát triển lý luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và
thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề mới. Đặc biệt phải coi trọng nghiên cứu,
học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện đường lối, coi trọng việc cụ
thể hoá, thể chế hoá, tổ chức quản lý điều hành; tăng cường kiểm tra, giám sát,
kịp thời sơ, tổng kết, bổ sung phát triển hoàn thiện đường lối.
20



* Nhiệm vụ, giải pháp công tác tư tưởng.
Kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận giải đáp cho được những vấn đề thực
tiễn đặt ra. Nâng cao tính chiến đấu, tính thiết thực, tính thuyết phục của công
tác tư tưởng; củng cố niềm tin với công cuộc đổi mới; giữ vững và tăng cường
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tăng cường
giáo dục mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống
cách mạng, nêu cao chủ nghĩa yêu nước; chống mọi biểu hiện cơ hội, chạy theo
lợi ích cá nhân. Chủ động, tích cực đấu tranh ngăn ngừa những quan điểm và
luận điệu sai trái, phản động, làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch.
* Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về tổ chức.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, tăng
cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết
định công việc của Đảng, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các
nghị quyết của Đảng. Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của
đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết
hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên, làm cho mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ
chức và quy tụ được sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị
được giao, mỗi đảng viên thật sự tiên phong gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức
cách mạng, có ý thức chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; gắn việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên với nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng.
Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ. Sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ
máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ khối ở
trung ương và cấp uỷ các địa phương, gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy của cơ

21


quan nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả; khắc phục tình
trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
các cơ quan và người đứng đầu không rõ. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có
cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng.
Cụ thể hoá nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu
tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Chúng ta thấy rằng, Đảng ta đã trung thành và vận dụng sáng tạo những
đặc trưng về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào xây dựng Đảng cộng
sản Việt Nam. Do thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức nên Đảng ta đã luôn xứng đáng là đội tiên phong, lãnh tụ
chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam. Nhờ đó mà Đảng có đủ năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam suốt hơn 70 năm qua. Đại hội lần thứ
X của Đảng đã khẳng định: xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạng cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết thống nhát cao, gắn bó mật thiết với
nhân dân là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa sống còn với Đảng và sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.
KẾT LUẬN
Tư tưởng của V.I.Lênin về cơ sở tư tưởng, chính trị, tổ chức của Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân là một mẫu mực về lý luận xây dựng Đảng
cách mạng chân chính của giai cấp công nhân; là cơ sở chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Nga và các Đảng cộng sản khác trên thế
giới. Theo V.I.Lênin Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải độc lập về
chính trị, tư tưởng và tổ chức so với các đảng dân chủ cải lương, cơ hội trong
quốc tế II. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho

mọi hành động, phải có cương lĩnh, điều lệ thống nhất, có những nguyên tắc tổ
22


chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh. Đồng thời V.I.Lênin cũng chỉ rõ: xây dựng
đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng phải gắn liền với xây dựng Đảng về tổ
chức, không được tách rời ba mặt công tác đó.
Đảng cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản
Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng kim chỉ nam cho hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chặt chẽ của giai cấp
công nhân. Những biểu hiện đó đã chứng tỏ Đảng cộng sản Việt Nam là một
Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam, là một đội quân kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Ngày nay xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạng về chính trị, tư tưởng
và tổ chức là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa quyết định sống còn đối với Đảng
và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bởi vậy mỗi cán bộ, đảng viên của
Đảng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, chủ động,
tích cực tham gia xây dựng Đảng bằng những hành động thiết thực trong hoạt
động và công tác. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tích cực học tập, nắm vững
bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ mình. Tích cực tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng; chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ động, tích cực đấu tranh chống tham nhũng,
chống những nhận thức, biểu hiện tư tưởng cơ hội chủ nghĩa, bè phái, cục bộ…
trong đảng bộ, chi bộ. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải tự giác chấp
hành nghiêm Điều lệ của Đảng, những quy định của Bộ chính trị, Ban bí thư;

chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Dù ở cương vị, chức trách gì
cũng phải cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ mà cấp uỷ, chi bộ

23


giao cho, tích cực góp phần tham gia xây dựng cấp uỷ, chi bộ mình trong sạch
vững mạnh thực sự là hạt nhân lãnh đạo mọi mặt hoạt động của đơn vị./.

24



×