Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.36 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

TRANG

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Nắm vững đặc điểm tâm lí của học sinh để tìm phương pháp
dạy học phù hợp
2.3.2. Giúp học sinh xác định động cơ của việc học tốt môn Ngữ văn
2.3.3. Giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
và kiểu bài văn miêu tả
2.3.4. Cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát

2
2
2
2
3
3
3
3
4
5


2.3.5.

Hướng dẫn học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu
của đề bài để định hướng làm bài

2.3.6.

Hướng dẫn cách tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả
2.3.7. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ, đặt câu,
sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả
2.3.8. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong văn miêu tả
2.3.9. Rèn kỹ năng dựng đoạn văn miêu tả
2.3.10. Luyện lời văn chuyển ý, liên kết đoạn trong văn miêu tả
2.3.11. Hướng cho học sinh luyện cách mở bài và kết bài miêu tả
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3.
Kết luận, kiến nghị

5
5
7
8
9
13
14
15
16
17
18

18

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Mỗi tác phẩm văn học là một viên
ngọc quí, có giá trị lớn trong đời sống tinh thần của con người . Cuộc sống sẽ
buồn tẻ biết bao nếu thiếu đi những tác phẩm văn học. “Văn học giúp con người
hiểu bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con
người khát vọng hướng tới chân lí ” (1). Làm thế nào để học sinh cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, quan trọng hơn là các em có thể
sáng tạo những bài văn hay, độc đáo, có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, đó là
một vấn đề lớn đặt ra đối với mỗi giáo viên dạy Ngữ văn trong nhà trường.
Trong chương trình Ngữ văn THCS, phân môn Tập làm văn đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp tri thức về kiểu văn bản, là môn học mang tính
chất thực hành tổng hợp. Làm văn là vận dụng kết quả tổng hợp của việc học tập
hai môn Văn học và Tiếng việt. Bên cạnh cung cấp kiến thức, nhiệm vụ chủ yếu
của phân môn Tập làm văn là rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh.
Văn miêu tả là một trong những kiểu bài Tập làm văn quan trọng trong
chương trình Ngữ văn lớp 6, giúp học sinh tạo lập các đoạn, các bài văn miêu tả
sinh động, tinh tế, qua đó giúp học sinh bộc lộ tình cảm đối với những vật gần
gũi, bình dị như dòng sông quê, cánh đồng lúa, mái trường…, nói rộng hơn là
tình yêu đối với quê hương đất nước, con người. Vì vậy, việc rèn kỹ năng làm
văn miêu tả cho học sinh lớp 6 là rất thiết thực. Trong thực tế, một bộ phận học
sinh lớp 6 chưa say mê, hứng thú khi học phân môn Tập làm văn, ngại viết văn.
Bài văn các em có bố cục chưa cân đối , diễn đạt lủng củng, lan man, bài văn
khô khan, không có hồn, lệ thuộc vào văn mẫu…Điều đó làm ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng môn học. Chính vì những lí do đó, là một giáo viên nhiều

năm dạy Ngữ văn 6, tôi thật sự trăn trở, đã đúc rút và mạnh dạn trao đổi cùng
đồng nghiệp đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho
học sinh lớp 6”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Sáng kiến nhằm đúc rút kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng làm văn miêu tả
cho HS lớp 6, cụ thể là:
- Giúp học sinh nhận thức đúng đắn về môn Ngữ văn, yêu thích, chăm
chỉ, tích cực học môn học. Cùng với những môn học khác, môn Ngữ văn sẽ là
hành trang khám phá những chân trời mới, nguồn tri thức mới và thế giới xung
quanh.
- Giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng
hướng làm bài. Biết cách quan sát cảnh vật, con người…
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng tìm ý, lập dàn bài cho bài văn miêu tả.
- Rèn kỹ năng diễn đạt trong văn miêu tả cho học sinh.
- Rèn kỹ năng dựng đoạn cho bài văn.
- Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn cho bài văn.
- Luyện viết mở bài, thân bài và kết bài.
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng của đề tài này tập trung vào nghiên cứu những phương pháp,
rèn luyện kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6, góp phần nâng cao chất
lượng môn Ngữ văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu cơ sở lí thuyết: các tài liệu tham khảo.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: điều tra khảo sát chất lượng học
sinh trước và sau khi thực hiện đề tài, khảo sát thực tế giảng dạy, dự giờ đồng
nghiệp.

- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: thu thập, thống kê xử lí số liệu,
thông tin chất lượng học tập của học sinh.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: trước và sau khi vận dụng sáng kiến
kinh nghiệm vào giảng dạy.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận.
Văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung
những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong
cảnh … làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe
(2). Muốn miêu tả được, trước hết phải biết quan sát, từ đó nhận xét, liên tưởng,
ví von, so sánh…để làm nổi bật lên những đặc điểm của cảnh vật. Chúng ta hãy
tham khảo ý kiến sau đây của nhà văn Tô Hoài về văn miêu tả để định hướng
giúp học sinh nhận thức đúng về loại văn bản này: “ Nói miêu tả, dễ tưởng miêu
tả chỉ là vẽ phong cảnh, trời nắng mưa, chớp bể mưa nguồn và thiên nhiên:
vườn cây, bãi cỏ, con sông. Không, mà đầu tiên miêu tả là chú trọng sự việc,
con người. Quan sát, suy nghĩ, làm đi làm lại, lặp đi lặp lại không bao giờ
ngừng, không bao giờ xong là việc làm và phương pháp duy nhất để khám phá
con người và tâm trạng những con người…” (3).
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn, chúng ta thấy: chương trình Ngữ
văn 6 so với chương trình Tiểu học mà các em đã làm quen, có nhiều những khái
niệm trừu tượng. Riêng làm văn, đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn,
sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả phải sinh động, giàu hình ảnh,
thuyết phục người đọc. Chính vì thế, cần phải giúp các em nắm vững các bước,
các thao tác cơ bản, cần thiết cho việc viết văn miêu tả như quan sát, so sánh ,
tưởng tượng…cũng như kỹ năng tìm ý, lập dàn ý và diễn đạt. Rèn kỹ năng làm
văn miêu tả là việc làm thiết thực, giáo viên nên thực hiện một cách cặn kẽ để có
được hiệu quả tốt nhất. Điều đó cũng thể hiện sự đổi mới trong quá trình dạy
học - gắn lí thuyết với thực hành, cung cấp tri thức gắn với rèn luyện kỹ năng
cho học sinh. Nhưng điều quan trọng hơn vẫn là sự vận dụng sáng tạo của giáo
viên sau mỗi giờ lên lớp, lòng tâm huyết, say sưa nghề nghiệp, truyền cho các

em lòng say mê học tập, sáng tạo nghệ thuật.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiêm.
3


Trường THCS nơi tôi đang công tác là một trường có bề dày thành tích
trong dạy- học, nhất là thành tích bồi dưỡng HSG. Nhà trường đã có nhiều HS
đạt giải cao trong các kì thi cấp huyện, cấp tỉnh về môn Ngữ văn. Điều đó thể
hiện sự cố gắng vươn lên của thầy và trò, mặc dù ở đây đa số là con em của
những gia đình chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống còn gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, trên thực tế giảng dạy, chất lượng học tập của học sinh chưa
đồng đều, đặc biệt là đối với học sinh lớp 6 mới bước vào bậc THCS. Đối với
môn Ngữ văn, đặc biệt là phân môn Tập làm văn điều đó càng bộc lộ rõ. Các em
chưa được rèn luyện kỹ năng làm bài Tập làm văn nói chung, kiểu bài miêu tả
nói riêng. Kỹ năng quan sát, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng còn hạn chế, đa số
học sinh không có thói quen tìm ý, lập dàn ý trước khi viết bài. Lời văn của
nhiều em còn cứng nhắc, thiếu sáng tạo, ý lan man, chưa biết tập trung vào đối
tượng cần tả, chưa biết phân bố các phần hợp lí.
Một bộ phận học sinh thường có thói quen chép văn mẫu trên mạng, trong
sách tham khảo, lười suy nghĩ, tìm tòi, khám phá …Một số bộ phận phụ huynh
và học sinh có tư tưởng xem nhẹ môn Văn và các môn xã hội. Tâm lí ngại học,
ngại viết văn dẫn tới học sinh chưa đầu tư thời gian tìm tòi suy nghĩ, chưa chịu
khó học, chưa say mê, hứng thú với môn học. Kết quả các bài Tập làm văn nói
chung, kiểu bài văn miêu tả nói riêng còn thấp. Điều tra chất lượng của học sinh
lớp 6A qua năm học 2016-2017 kết quả tôi thu được như sau:
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém

32
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
1
3,2
4
12,5
22
68,7
5
15,6
Kết quả điều tra cho thấy: Tỉ lệ học sinh khá giỏi còn hết sức hạn chế, tỉ lệ
học sinh yếu kém còn khá cao. Theo tôi, nguyên nhân của thực trạng trên là:
Về phía giáo viên: Một bộ phận giáo viên chưa chú trọng đến việc rèn
luyện kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh. Chủ yếu là cung cấp kiến thức lí
thuyết về kiểu bài trong các tiết học theo phân phối chương trình mà chưa dành
thời gian cho học sinh thực hành, tập quan sát, tập tìm hiểu đề, tập dựng đoạn…
trong các tiết dạy chính khóa cũng như trong các tiết dạy bồi dưỡng, phụ đạo.
Giáo viên chưa tạo hứng thú cho học sinh khi học kiểu bài này, chưa phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi học Tập làm văn dẫn đến
tâm lí ngại học văn.
Về phía học sinh và phụ huynh: Một số bộ phận học sinh chưa thực sự
yêu thích môn học, chưa có phương pháp học đúng đắn, chưa tích cực chủ động
học tập mà có thói quen dựa dẫm văn mẫu. Khi làm bài thì lúng túng, bài văn

thiếu sáng tạo. Một bộ phận không nhỏ phụ huynh vẫn có tư tưởng xem nhẹ
môn Ngữ văn nên chưa quan tâm đến việc của con em.
Thực tế đó đặt ra một vấn đề cần thiết phải thực hiện ngay và duy trì cho
những năm học tiếp theo đối với giáo viên dạy Ngữ văn khối 6 là: cần rèn luyện
kỹ năng làm văn miêu tả cho các em.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Để rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6, tôi đã sử dụng các
giải pháp sau:
4


2.3.1. Nắm bắt tâm lí của học sinh để tìm phương pháp dạy học phù
hợp.
Mới bước vào bậc THCS, các em còn vô tư, hồn nhiên, thích khám phá,
tìm hiểu những điều mới mẻ. Vì vậy, giáo viên cần phải gây hứng thú cho học
sinh trong các giờ lên lớp bằng cách sử dụng tăng cường trực quan sinh động
như tranh ảnh, hiện vật, máy chiếu, bảng phụ…
Cần khơi gợi, bồi dưỡng tình cảm cho học sinh: tình yêu quê hương đất
nước, tình yêu gia đình, bạn bè, người thân…
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật, đòi hỏi bài viết phải
giàu cảm xúc, tạo nên cái “hồn”, chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải
luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm
lòng dễ xúc động và nuôi dưỡng cái thiện, rèn trí tưởng tượng phong phú, bay
bổng.
2.3.2 . Giúp học sinh xác định động cơ của việc học tốt môn Ngữ văn
nói chung, kiểu bài miêu tả nói riêng, từ đó các em không còn tư tưởng xem
nhẹ môn học.
Ngữ văn là môn học góp phần bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng, giáo dục
những phẩm chất đạo đức cho con người như Bác Hồ đã từng nói: “Người có tài
mà không có đức là người vô dụng”. Vì thế, giáo viên giúp cho học sinh hiểu

được động cơ để học tốt kiểu bài miêu tả:
- Rèn luyện tư tưởng, đạo đức làm người.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong quá trình nói và viết.
- Nâng cao hiệu quả giao tiếp.
- Rèn được óc quan sát, lối tư duy khoa học.
- Nâng cao chất lượng môn học.
2.3.3. Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu
tả và kiểu bài văn miêu tả:
Bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có thể trở thành đối tượng của bài văn
miêu tả. Khi miêu tả lạnh lùng, khách quan nhằm thông báo thì không phải là miêu
tả. Đối với học sinh lớp 6, giáo viên cần định hướng để học sinh nắm những đặc
điểm sau.
- Miêu tả thường hướng tới cái đẹp. Miêu tả theo ý tưởng thẩm mĩ và
mang đến cho người đọc cảm giác thẩm mĩ. Giáo viên cần định hướng cho học
sinh cách lựa chọn chi tiết miêu tả sự vật, con người làm thế nào để thể hiện đặc
điểm này của văn miêu tả.
Ví dụ: Đối với đề bài: Miêu tả dòng sông quê hương em.
Giáo viên cần định hướng cho học sinh lựa chọn những chi tiết tiêu biểu của
dòng sông để thể hiện đó là một dòng sông đẹp, thơ mộng. (Nước sông trong xanh
ngọc bích, hai bên bờ là ngô, bãi dâu xanh mướt, thuyền bè qua lại tấp nập, mặt
sông như dát vàng mỗi khi trăng lên…)(4).
- Miêu tả phải thể hiện cái riêng biệt của mỗi người. Dù miêu tả bất kì
đối tượng nào thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh lại những
sự vật, hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng
5


tượng, đánh giá sắc sảo của người viết, tạo dấu ấn cá nhân. Từng chi tiết của bài
văn đều mang ấn tượng cảm xúc chủ quan. Chính vì thế, cần khích lệ các em tạo
cho mình những nét riêng khi làm văn, sự sắc sảo trong cách viết .

- Văn miêu tả mang tính sinh động và tạo hình. Đặc điểm này là một
phẩm chất của bài văn miêu tả hay. Để tạo nên tính sinh động và tạo hình, đầu
tiên các chi tiết miêu tả cần có là cái mới, riêng. Nếu mất đi cái riêng, bài văn trở
nên công thức sáo rỗng. Miêu tả cây cối, có người thấy chúng như “ những con
ngựa đang phi, tung bờm căng ngực”. Có người lại thấy chúng như “những cái
lồng chim của thiên nhiên, trong mỗi lồng có mỗi con chim đang nhảy chuyền”.
Một yêu cầu của tính tạo hình là tính sinh động và sự hàm xúc, tả ít gợi
nhiều. Ví dụ: Đoạn văn của Nguyễn Tuân có sức gợi cảm trong tâm tưởng của
người đọc rất lớn: “Trên con đường đất cát khô cằn, nơi nước trong lành theo
bước chân mau của những người đầy tớ già đánh rõ xuống mặt đường những
hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình ngôi sao nối nhau trên một đoạn
đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của bò sát” (5). Làm nên tính sinh động tạo
hình của văn miêu tả là những chi tiết sống động, gây ấn tượng. Những chi tiết
lấy từ sự quan sát cuộc sống quanh ta. Từ kinh nghiệm sống của bản thân được
sàng lọc, gạt bỏ những chi tiết thừa không có sức gợi cảm là bài văn có sức gợi
hình.
- Trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh,
giàu nhịp điệu, âm thanh, có sức biểu cảm lớn. Cái đích của người viết văn miêu
tả là làm thế nào dễ phác họa được những bức tranh thiên nhiên, bức tranh sinh
hoạt…một cách cụ thể sinh động, có hồn như nó vẫn tồn tại trong cuộc sống. Và
làm thế nào khi qua đoạn, bài văn miêu tả, người đọc có thể hình dung ra toàn
cảnh như được thấy trước mắt. Tức là người viết phải có khả năng tác động
mạnh mẽ, sâu xa đến trí tưởng tượng và cảm nghĩ của người đọc. Muốn vậy, từ
ngữ đưa vào văn miêu tả phải giàu màu sắc, âm thanh, nhạc điệu…Thông
thường từ láy tượng thanh, tượng hình đáp ứng yêu cầu này. Chẳng hạn:
+ Tả màu sắc thường dùng các từ: vàng xuộm, vàng hoe, vàng chanh,
vàng tươi, vàng mượt, đỏ chót, xanh biếc, xanh ngắt, xanh pha vàng, tím phớt
hồng, thâm xì…
+ Tả âm thanh: tiếng mưa: lẹt đẹt, lách tách, rào rào, ồ ồ, tí tách, lộp
độp…; tiếng gió: rít, lanh lảnh, ào ào, vù vù…; tiếng lá rơi: xào xạc, xao xác…

+ Tả dáng điệu: thướt tha, thong thả, vội vàng…
Giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng những từ ngữ trên phù hợp
với đối tượng cần tả.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả là ngôn ngữ có sức liên tưởng, tức là khả
năng khơi gợi trí tưởng tượng cho người đọc. Ngôn ngữ được dùng theo cả
nghĩa đen và nghĩa bóng. Vì vậy, người viết cần sử dụng nhiều phép tu từ: so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ, nói quá…
6


Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường
mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn
lọc từ ngữ, sẽ gọt rũa kĩ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất
lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn.
- Văn miêu tả gồm các kiểu bài: Tả cảnh (cảnh thiên nhiên, cảnh sinh
hoạt, cây cối) và tả người.
2.3.4. Cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát.
Giáo viên cần xác định được tầm quan trọng của việc tổ chức cho học sinh
quan sát, hướng dẫn các em ghi chép lại những điều đã quan sát.
Quan sát văn học là tìm ra màu sắc, âm thanh, hình ảnh tiêu biểu và xúc
cảm của người đối với vật. Nhờ quan sát mà các em có thể cảm nhận được các
đặc điểm của cảnh, ý văn đa dạng, phong phú hơn.
Tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là một công việc, thuộc
về nguyên tắc trong dạy học văn miêu tả. Nhờ quan sát mà các em có thể cảm
nhận được các đặc điểm của cảnh, ý bài văn đa dạng, phong phú hơn. Nhờ quan
sát mà học sinh có sự thu nhận trực tiếp các nhận xét ấn tượng, cảm xúc của
mình, học sinh mới bắt tay vào làm bài. Khi quan sát, học sinh cần huy động
vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc giúp cho việc quan sát tốt hơn. Từ
đó, hiểu biết và kỹ năng về văn miêu tả được hình thành một cách tự giác chủ
yếu qua con đường thực hành.

Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng các cách sau:
- Sử dụng nhiều giác quan để quan sát:
+ Quan sát bằng thị giác để nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật.
+ Quan sát bằng thính giác cảm nhận âm thanh, nhịp điệu, gợi cảm xúc.
+ Quan sát bằng khứu giác cảm nhận được những mùi vị tác động đến
tình cảm, cảm xúc.
+ Quan sát bằng vị giác và xúc giác, quan sát cảm nhận.
- Học sinh cần xác định rõ vị trí, thời điểm, trình tự quan sát.
+ Để quan sát đối tượng cần tả, giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh
chọn vị trí thích hợp (gọi là vị trí đắc địa). Để tả cảnh bao quát, cần phải chọn vị
trí quan sát từ xa và trên cao (bờ đê, một mô đất cao, bờ sông…) Để tả cận cảnh
cần chọn vị trí từ gần, đi sát có thể sờ, ngửi, lắng tai nghe, nhìn kĩ từng chi tiết
nhỏ của sự vật, nếm thử để cảm nhận, thậm chí con phải lật đi, lật lại để tìm ra
đặc điểm của đối tượng.
+ Tùy thuộc vào yêu cầu của đề bài cần tả đối tượng trong thời điểm nào
để chọn thời điểm miêu tả cho phù hợp.
Ví dụ: Với đề bài: Tả cảnh đồng lúa chín vào buổi sáng ban mai. Ta cần
chọn thời điểm quan sát thích hợp như: sáng tinh mơ, khi mặt trời mới ló, khi
mặt trời lên hẳn…Có như vậy mới thấy được sự thay đổi của cánh đồng từ màu
sắc, hình ảnh theo thời gian.
Muốn miêu tả ngôi trường nơi em đang học cần quan sát ngôi trường mỗi
sáng khi em đến sớm để làm trực nhật, những buổi các bạn đến trường đông đủ
trong các ngày học, ngày hội, ngày lễ lớn… để cảm nhận được không khí, đặc

7


điểm của ngôi trường; hay khi học sinh vào lớp; học sinh ra chơi ngôi trường
cũng nhiều đặc điểm khác nhau…
+ Học sinh có thể lựa chọn những trình tự quan sát khác nhau:

Trình tự không gian: Ví dụ khi tả cảnh cánh đồng lúa có thể quan sát theo
trình tự từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, từ trái sang phải, từ ngoài vào
trong, từ gần đến xa…
Trình tự thời gian: Ví dụ khi miêu tả cây cối có thể tả quan sát theo mùa:
xuân- hạ- thu- đông, tả cảnh sinh hoạt có thể theo trình tự thời gian: sáng- trưachiều- tối. Một sự việc thì quan sát theo trình tự mở đầu - diễn biến - kết thúc…
Trình tự tâm lí: thấy nét gì nổi bật, thu hút bản thân, gây cảm xúc thì
quan sát trước.
- Cần định hướng cho học sinh lựa chọn những chi tiết tiêu biểu của đối
tượng để quan sát.
Phải tìm những nét riêng tiêu biểu cho sự vật. Không cần dàn đủ sự việc,
chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhận sâu sắc nhất, thống kê tỉ mỉ
mọi chi tiết về sự vật.
Để làm được bài văn đúng yêu cầu của đề bài, quá trình quan sát không
thể dàn đều mà phải tìm ra trọng tâm để tìm hiểu kĩ. Trọng tâm quan sát thường
là nét chính của bài, nêu bật chủ đề bài văn và dụng ý người viết. Có như vậy,
bài viết mới tránh khỏi dàn trãi, nhạt nhẽo, lan man, xa đề.
- Tạo hứng thú, cảm xúc khi quan sát.
Quan sát trong văn học cần giúp học sinh có hứng thú, say mê. Từ đó, bộc
lộ được cảm xúc của bản thân trước đối tượng quan sát. Xuất phát từ sự hứng
thú, say mê với cảnh vật là tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật, yêu con người,
lòng ham thích khám phá thế giới xung quanh. Sự hiểu biết về cảnh thông qua
bài học trên lớp hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng: mạng In-tơ-net,
báo, đài…Vì vậy, giáo viên phải giáo dục tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất
nước, con người, lòng căm ghét cái xấu, cái ác…
- Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh quan sát.
Đối tượng cần miêu tả cái gì? Trọng tâm miêu tả? Quan sát đối tượng vào
lúc nào? Quan sát theo trình tự nào? Sử dụng những giác quan nào để quan sát?
Quan sát như vậy nhìn thấy hình ảnh gì nổi bật? Nghe thấy âm thanh gì? Em có
cảm xúc gì? Từ quan sát em rút ra nhận xét gì?
3.3.5. Hướng dẫn học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài

để định hướng làm bài.
Đề tài, chủ đề của bài văn quyết định cách quan sát, tìm ý, sắp xếp ý và
cách diễn đạt của bài. Nếu không nắm vững yêu cầu của đề bài thì bài văn sẽ đi
chệch hướng, đi lạc đề. Yêu cầu của đề nằm trong toàn bộ lời văn của đề ra. Vì
thế, việc đầu tiên là tìm những từ ngữ thể hiện yêu cầu của đề bằng cách trả lời
câu hỏi: tả đối tượng nào? (đối tượng cần tả), tả như thế nào? (đặc điểm, tính
chất của đối tượng), tả lúc nào, ở đâu? (thời gian, không gian), tả để làm gì?
(mục đích miêu tả). Khi trả lời được những câu hỏi này chính là định hướng
được cái khung (bộ xương) của bài văn.

8


Ví dụ : Đề bài: Em hãy miêu tả quê hương em vào một buổi chiều nắng
đẹp.
Giáo viên yêu cầu học sinh xác định được:
+ Đối tượng miêu tả: cảnh quê hương em.
+ Thời điểm: vào một buổi chiều.
+ Không gian: cao, rộng, khoáng đạt.
+ Mục đích miêu tả: tái hiện hình ảnh quê hương với nét đặc trưng riêng
biệt, bộc lộ niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương.
Trên đây là một dạng đề bài miêu tả cảnh tổng hợp. Vậy thế nào là cảnh
tổng hợp? Đề tả cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: “ một miền
quê”, “quê hương em”, “cảnh vùng quê”, hoặc “cảnh nơi em ở” … Cảnh tổng
hợp là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ của quê hương hay
miền quê thường là cánh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa, giếng nước,
sân đình, khu vườn nhà… Sau đó, giáo viên giúp học sinh hình dung ra được cụ
thể cảnh miêu tả ở thời gian nào? (mùa nào), ở không gian nào? cảnh đó như
thế nào… Việc xác định được đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các
em rât nhiều trong việc định hình đối tượng miêu tả.

2.3.6. Hướng dẫn cách tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả.
- Hướng dẫn học sinh tìm ý:
Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối
tượng miêu tả nhưng học sinh vẫn chưa thể định hình được hướng đi cho bài
viết. Để giúp học sinh thực hiện điều này, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm ý cho
bài văn miêu tả như sau:
Cần phải tả theo trình tự: tả bao quát, sau đó tả cụ thể đối tượng.
Tả bao quát đối tượng được coi là một thao tác sơ khoáng rất quan trọng
trong việc định hình tâm thế cũng như nhãn thế cho người đọc bằng ngôn từ. Vì
vậy, học sinh cần nắm được cách tả phần bao quát như thế nào?
Với văn tả cảnh, tả bao quát cảnh trước hết phải có câu xác định vị trí
miêu tả khái quát. Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể
chụp được toàn cảnh miêu tả vào nhãn quan của người quan sát một cách tương
đối trọn vẹn. Với văn tả người, tả bao quát là tả tầm vóc, dáng điệu, tuổi tác,
cách ăn mặc … của đối tượng miêu tả.
Sau khi tả bao quát, giáo viên hướng dẫn học sinh tả cụ thể từng chi tiết
đối tượng miêu tả. Kết hợp với quá trình miêu tả chi tiết đối tượng là những lời
nhận xét đánh giá khái quát đầy nghệ thuật. Đó là những câu văn sử dụng linh
hoạt các biện pháp tu từ, sao cho đối tượng miêu tả nổi lên sống động, tự nhiên,
hồn hậu, trong sáng…sát hợp với yêu cầu của đề mà phần trên đã xác định và
mang tính biểu cảm của người quan sát.
- Rèn kỹ năng lập dàn ý cho bài văn.
Để viết bất kì một bài văn nào, người viết cũng không thể bỏ qua khâu hết sức
quan trọng là lập dàn ý. Sau khi tìm ý cho bài văn, việc sắp xếp ý theo một trình tự
hợp lí chính là bước lập dàn ý. Nếu nắm kỹ năng lập dàn ý các em sẽ tạo lập được
các bài văn có tính chất hệ thống và lôgic cao. Một thực tế, có nhiều em trước khi
viết bài, không lập dàn ý, một phần là do các em chưa hiểu được tầm quan trọng của
9



việc lập dàn ý. Nhưng nguyên nhân chính là ở đây là do các em chưa có kỹ năng lập
dàn ý. Hậu quả là bài văn có bố cục chưa hợp lí, chưa cân đối giữa các phần, các ý
sắp xếp lộn xộn…Chính vì thế, giáo viên cần phải rèn luyện kỹ năng lập dàn bài cho
học sinh trước khi diễn đạt thành đoạn, thành bài, tạo thói quen cho các em lập dàn ý
trước khi viết bài.
Dàn ý của bài văn miêu tả cũng như các bài văn khác có bố cục 3 phần:
Mở bài, thân bài và kết bài. Gồm dàn ý đại cương và dàn ý chi tiết.
Các đề mục trong dàn ý cần thể hiện được ý lớn, ý nhỏ. Mỗi dàn ý thường
bao gồm hệ thống các đề mục. Các đề mục phải sắp xếp theo từng hệ thống
tương ứng nhau và theo một trình tự chặt chẽ. Các đề mục đánh số La mã (I, II,
III…), chữ cái (A, B, C…), chữ số thường (1, 2, 3…). Khi đánh đề mục phải ghi
bằng hệ thống số thứ tự liên tiếp nhau không cách quãng. Có vậy khi làm bài
mới hình thành văn bản bao gồm những đoạn văn mạch lạc, rõ ràng theo một
trình tự hợp lí.
Ngôn ngữ trong dàn ý không đòi hỏi viết thành câu hoàn chỉnh mà chủ
yếu là viết theo lối thông báo văn tắt, có thể dùng các câu rút gọn.
a. Tả cảnh thiên nhiên.
* Bố cục chung như sau:
I. Mở bài: Giới thiệu cảnh được tả (ở đâu? lúc nào?)
II. Thân bài:
1. Tả cảnh bao quát.
2. Tả chi tiết cảnh
3. Tả hoạt động con người và sự vật xung quanh
III. Kết luận: Nêu cảm nghĩ, nhận xét của người tả.
Ví dụ: Đề bài: Em hãy miêu tả cảnh đồng lúa chín vào một buổi sáng đẹp
trời.
* Dàn ý đại cương .
I. Mở bài: Giới thiệu cánh đồng lúa chín vào buổi sáng đẹp trời.
II. Thân bài:
1. Tả bao quát cánh đồng.

2. Tả chi tiết vài thửa ruộng…tả cảnh làm ruộng của các bác nông dân.
III .Kết bài: Nêu ấn tượng, cảm nghĩ của bản thân trước cánh đồng.
* Dàn ý chi tiết :
I. Mở bài:
- Nêu lí do ra thăm đồng ( chủ nhật về quê, đi thăm đồng).
- Thấy cánh đồng lúa chín dưới ánh năng ban mai thật đẹp.
II. Thân bài:
1. Tả bao quát: Dưới ánh nắng ban mai, cánh đồng như một tấm thảm
vàng trải rộng.
2. Tả chi tiết:
- Những thửa ruộng chín vàng rực.
- Những ruộng lúa bắt đầu chín, bông lúa nặng hạt làm thân lúa uốn câu,
gốc lúa vàng xuộm.
- Từng cơn gió thổi làm cho những khoảng lúa lay động .
10


- Mùi vị: mùi thơm của lúa, mùi thơm của rơm rạ.
3. Hoạt động của con người và cảnh vật xung quanh:
- Những chiếc máy gặt đang hăng say gặt lúa.
- Một vài chú bé chăn trâu thổi sáo vang…
- Bầu trời cao rộng, ánh nắng tỏa tràn xuống cánh đồng, từng đám mây
nhẹ nhàng trôi theo gió, chim chao mình bay liệng, hàng phi lao rì rào theo
gió…
III. Kết bài: Nêu ấn tượng, cảm nghĩ của bản thân trước cánh đồng: Vui vì
thấy báo hiệu một mùa vàng bội thu, đi xa rồi mà âm thanh, mùi vị của cánh
đồng còn đọng mãi.
b. Tả cảnh sinh hoạt:
* Bố cục chung:
I. Mở bài: Giới thiệu cảnh định tả (cảnh ở đâu? thời gian nào?)

II. Thân bài:
1. Tả bao quát: Cần chú ý phạm vi rộng, hẹp của một nhóm hay nhiều
người đang hoạt động, không khí sinh hoạt sôi nổi hay trầm lặng.
2. Tả chi tiết: Theo trình tự đã chọn (không gian hay thời gian)…
3. Tả khung cảnh thiên nhiên gắn với cảnh sinh hoạt.
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ, nhận xét của người tả về cảnh.
Ví dụ: Đề bài: Em hãy tả khung cảnh làng em vào một ngày giáp tết.
* Dàn ý đại cương:
I. Mở bài: Giới thiệu cảnh làng em vào một ngày giáp tết.
II. Thân bài:
1. Tả bao quát: Làng xóm trở nên nhộn nhịp, tấp nập.
2. Tả chi tiết:
- Cảnh chợ tết đông vui .
- Cảnh mọi người sắm tết
- Cảnh những người xa quê về ăn tết.
3. Tả cảnh thiên nhiên trong những ngày tết: hoa đào nở, trời se lạnh,
mưa xuân lất phất bay…
III. Kết bài: Cảm nghĩ của người viết về cảnh.
* Dàn bài chi tiết:
I. Mở bài:
- Hôm nay là ngày 27 tết.
- Mọi người tấp nập chuẩn bị cho ngày tết.
II. Thân bài:
1. Tả bao quát:
- Làng xóm trở nên nhộn nhịp hẳn lên.
- Mọi người tất bật mua sắm tết.
- Cờ tổ quốc bay phấp phới trước cửa mọi nhà.
2. Tả chi tiết:
- Người đi chợ tết đông như trẩy hội
- Chợ đủ hàng hóa, đủ mọi âm thanh.

- Người mua hoa, người mua các loại quả bày bàn thờ, người mua thực
11


phẩm, quần áo tết cho trẻ em…
- Các bạn học sinh tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
- Những người xa quê về ăn tết mang theo cành đào, quà bánh…
3. Tả cảnh thiên nhiên trong những ngày tết:
- Hoa đua nhau khoe sắc, cây cối đâm chồi nảy lộc.
- Trời se lạnh, mưa xuân lất phất.
- Vài con én chao liệng trên bầu trời.
III. Kết bài:
- Cảm thấy vui khi tết đến
- Cảm nhận được hương sắc mùa xuân.
c. Tả cây cối:
* Dàn bài chung:
I. Mở bài: Giới thiệu cây định tả: cây gì? trồng ở đâu? trồng bao giờ?
II. Thân bài:
- Tả bao quát về cây .
- Tả chi tiết từng bộ phận của cây.
III. Kết bài:
- Nêu lợi ích của cây.
Ví dụ: Đề bài: Em hãy tả lại một cây bóng mát ở gần nhà em.
* Dàn ý đại cương:
I. Mở bài: Giới thiệu cây đa đầu làng.
II. Thân bài:
1. Tả bao quát cây đa.
2. Tả bộ phận cây đa: Rễ, thân, cành…cây đa.
3. Giá trị của cây đa.
- Tỏa bóng mát

- Làm chỗ cho các loài chim hội tụ.
III. Kết bài:
- Lợi ích của cây.
- Cảm nghĩ của em.
* Dàn bài chi tiết:
I. Mở bài:
- Cây đa sừng sững ngay trước cổng làng.
- Chứng kiến sự trưởng thành của bao thế hệ trong làng.
II. Thân bài:
Tả bao quát :
- Cây cổ thụ hàng trăm tuổi.
- Cây cao lớn, bề thế, phải hàng chục người ôm không xuể.
- Vươn cao tỏa bóng mát, che kín cả một vùng.
Tả chi tiết:
- Thân cây:
+ Lồi ra hàng nghìn cái u lớn nhỏ ở sát phần gốc. Trên thân có những hốc
cây rất to, trẻ con có thể vào chơi trốn tìm.
+ Trên cành có những cây tầm gửi mọc um tùm.
12


+ Rễ cây: một số rễ nổi trên mặt đất như những con trăn khổng lồ ngoằn
ngoèo trên mặt đất, rễ cây ăn xa gốc vài chục mét.
+ Cành cây như những cánh tay người khổng lồ vươn ra bốn phía. Trên
cành có những cây tầm gửi mọc um tùm.
+ Lá cây: to bằng bàn tay, rất dày.
+ Hoa : nở vào tháng ba.
+ Quả: to bằng đốt ngón tay, đầu quả chúm chím như quả sim, ăn vào hơi
chua, hơi chát, lại ngòn ngọt.
- Lợi ích của cây:

+ Che bóng mát cho dân làng: Mỗi lúc đi làm đồng hay đi đâu về nếu trời
nắng to đều hóng mát dưới gốc đa.
+ Là một ngôi nhà của chim chóc.
+ Quả đa còn là thức ăn lí tưởng của bọn quạ đen.
III. Kết bài:
- Cây đa là biểu tượng, là ý chí vươn lên của người dân làng em.
- Dù đi đâu em vẫn nhớ đến hình ảnh cây đa đầu làng.
d. Tả người:
* Bố cục chung:
I. Mở bài: Giới thiệu người định tả.
II. Thân bài:
1.Tả hình dáng:
- Tả bao quát: Tầm vóc, dáng điệu, tuổi tác, cách ăn mặc.
- Tả những nét nổi bật: khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, làn da…
2. Tả tính cách: Chú ý đến lời nói, cử chỉ, cách cư xử của người đó nhằm
bộc lộ phẩm chất đạo đức, tình cảm, thói quen…
3. Tả hoạt động:
- Tả kĩ theo thứ tự các chi tiết, động tác, lời nói để thấy rõ cách làm việc,
thái độ, tính nết của người đó.
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ, thái độ, nhận xét về người được tả.
Ví dụ: Đề bài: Em hãy tả một thầy (cô) giáo đã dạy mà em nhớ nhất.
* Dàn ý đại cương:
I. Mở bài: Giới thiệu thầy (cô) định tả.
II. Thân bài:
1.Tả hình dáng bên ngoài: hình dáng, trang phục, giọng nói…
2.Tả tính tình: vui vẻ, hòa đồng hay nghiêm nghị.
3.Tả hoạt động: cô (thầy) sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, dạy chúng em
học, dạy chúng em những trò chơi, yêu thương chăm sóc từng bạn trong lớp.
II. Kết bài: Cảm nghĩ của em về thầy (cô) được tả.
2.3.7. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử

dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
Muốn một bài văn hay, có “hồn”, có chất văn thì các em phải có vốn từ
ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp.
Chính vì vậy, giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy đọc,
luyện từ, câu và cả các môn học khác hay trong các buổi nói chuyện trong các
13


tiết HĐNGLL. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm;
khi có một từ láy, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và
khi làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu
cầu học sinh đặt câu đúng. Sau đó yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có các biện
pháp nghệ thuật như: so sánh, nhân hóa, có sử dụng những từ láy, từ ngữ gợi tả
hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
Giáo viên có thể ra các bài tập cụ thể để học sinh có thể luyện cách đặt
câu hay, giàu hình ảnh:
Ví dụ: Em hãy viết tiếp những câu văn sau bằng cách dùng hình ảnh so
sánh, nhân hóa:
a. Mùa đông, cây hồng trụi hết lá, chỉ còn hàng trăm quả trĩu trịt trên
cành…
b. Bầu trời đầy sao…
c. Về mùa hè, dòng sông trong xanh …
d. Trưa hè, lũ trẻ thường rủ nhau ra chơi dưới gốc đa già cổ thụ.
Học sinh có thể đặt câu:
- Mùa đông, cây hồng trụi hết lá, chỉ còn hàng trăm quả trĩu trịt trên cành
như hàng trăm chiếc đèn lồng màu hồng sáng lấp lánh trong sương mù.
- Bầu trời đêm nay giống như một nàng tiên khoác trên mình chiếc áo
nhung đen đính những hạt kim tuyết óng ánh.
- Mùa hè về, dòng sông khoác lên mình chiếc áo màu xanh ngọc bích.

- Trưa hè, lũ trẻ thường rủ nhau ngồi hóng mát dưới gốc bác đa già.
Những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ
gợi tả, gợi cảm như các câu trên sẽ làm cho cảnh vật được tả vừa sinh động, tinh
tế vừa rất tình cảm, sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
2.3.8. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong văn miêu tả.
Miêu tả là dựng lại được đối tượng một cách sống động, chân thực, nghệ
thuật. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ diễn đạt như thế nào là một
điều giáo viên chúng tôi rất quan tâm.
Thực tế qua việc chấm bài của học sinh chúng tôi thấy: vốn từ ngữ của các
em nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, thường xảy ra hiện tượng bí từ, dùng từ không
đúng nghĩa, lặp từ, lặp ý…Như vậy, để bài văn của học sinh diễn đạt trong sáng,
có sức hấp dẫn, chúng tôi nghĩ rằng không có cách nào khác ngoài việc trau dồi
ngôn ngữ nghệ thuật cho các em. Để học sinh tự giác làm điều này là việc làm
khó, nhưng nên để học sinh tự làm sau khi giáo viên đã tạo cho học sinh sự yêu
thích ngôn từ nghệ thuật. Dựa vào tâm lí lứa tuổi, chúng tôi đã gieo luồng yêu
thích này qua việc cung cấp và phân tích một số tư liệu chọn lọc kĩ càng trích
trong các tác phẩm của các nhà văn.
Ví dụ: Đoạn trích miêu tả cảnh vườn dưới nắng chiều sau đây:
“… Chiều buông, ánh mặt trời trở nên vàng sậm hơn. Ánh chiều vàng
trải lên cành lá, mái nhà một màu vàng óng nom đẹp lạ. Vườn cây nhà tôi cũng
vậy. Giàn bầu mậm xanh tươi, lá non màu xanh nhạt, lá già thì xanh thẫm. Ánh
nắng chiều chiếu xuống giàn bầu, bí, cái cốt lá xanh ngắt lọc qua một lượt hắt
14


một màu xanh ngọc bích xuống vườn. Nhãn, bưởi, mít và các loại cây khác nữa
tất cả đều xanh um tùm, nom như chiếc ô khổng lồ. Đó là màu xanh no nắng, no
gió, no thức nuôi cây. Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả
chín, hương hoa ngọt lịm…” (6).
Sau một vài đoạn văn như thế, giáo viên phân tích những hình ảnh ngôn từ

nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở học sinh, kích thích các em thích
tìm, viết những lời văn hay. Rèn kĩ năng diễn đạt là một phương pháp đòi hỏi sự kì
công nhất của thầy trò chúng tôi. Nó cần phải mất một quá trình có nhiều bước.
Sau khi tạo hứng thú cho học sinh qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn
lọc, chúng tôi mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra
một loạt hình ảnh, yêu cầu học sinh dùng lời văn kết hợp các biện pháp nghệ
thuật so sánh, nhân hóa, sử dụng từ láy gợi hình, gợi âm để tập diễn đạt.
Ví dụ:
- Dòng sông quê em dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình.
- Không gian quê hương y như một chiếc chuông lớn vô cùng treo suốt
mùa thu.
- Những lá sen già khum khum, chẳng khác gì những chiếc thúng con
đựng đầy ắp nắng chiều thu.
- Cây rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn
triệu con mắt lá răm sáng trưng nắng hè.
- Trăng về khuya cứ ngỡ là con thuyền đang trôi trên dòng sông ngân (7).
Cách này tôi cũng cho học sinh luyện trong nhiều tiết học để trở thành
thao tác thuần thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho học sinh kết hợp tìm đọc nhiều
tư liệu sao cho có những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất.
2.3.9 . Rèn kỹ năng dựng đoạn văn miêu tả.
Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp lí,
lôgic, chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh thường rất lúng túng, không biết tả gì? tả như
thế nào? theo trình tự từ đâu? Các em thường sa vào kể lể, liệt kê đối tượng
miêu tả một cách tràn lan, không làm nổi bật lên được nét riêng và càng không
tạo được ấn tượng cho người đọc về đối tượng. Khắc phục khó khăn này, tôi đã
hướng dẫn học sinh dựng đoạn theo các cách sau:
- Trước hết, tôi hướng dẫn học sinh hình dung mỗi một ý trong dàn bài sẽ
viết thành một đoạn văn trọn vẹn.
- Hướng dẫn các em triển khai đoạn văn theo các cách: diễn dịch, quy
nạp, song hành, tổng phân hợp tùy thuộc vào từng đoạn sao cho hợp lí.

+ Đoạn văn diễn dịch đi từ khái quát đến cụ thể. Bao giờ câu đầu cũng là
câu miêu tả khái quát. Các câu trong đoạn miêu tả cụ thể.
Ví dụ: Dưới chân em là dòng sông hiền hòa chảy như một tấm lụa trải dài
xa tít. Mùa này sông lưng chừng nước. Nước sông xanh in bóng mây trời sâu thẳm.
Mái chèo khuấy động, làm rung rinh cả những cây tóc tiên dưới đáy. Trên mặt sông
điểm xuyết những lá trúc vàng bé tẹo teo như những chiếc thuyền tí hon dập dềnh
trên sóng nước bao la. Những con sóng lăn tăn như những con rắn vẩy vàng, vẩy
bạc đang nô đùa. Sóng nhẹ nhàng hai bên bờ lóc bóc nghe thật vui tai. Trời chiều,

15


trên sông có những con thuyền hối hả cập bến. Tiếng người lao động trong tiếng hạ
buồn cót két bên bờ sông quê (8).
+ Đoạn văn quy nạp cần đi từ các câu cụ thể đến khái quát (cách này đi
ngược với đoạn diễn dịch).
+ Đoạn song hành thường là đoạn nhiều ý nhỏ. Các câu văn không phụ
thuộc nhau.
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả cây sen:
Lá sen to, xanh, đu đưa, lá úa vàng nằm sát mặt nước. Thân sen vươn lên
mặt đầm khoảng vài tấc. Thấp thoáng giữa màu xanh lá rất nhiều hoa. Hoa sen
hồng, hoa sen trắng, hoa đỏ sậm, có bông đã xòe những tầng cánh phô ra đóa
nhụy vàng, tỏa hương ngào ngạt, có bông mới đang nụ chúm chím, mũm mĩm,
kín đáo, e ấp, Lại có cả những đài sen đã rụng hết cánh, chỉ còn trơ lại các đài
to gần bằng cái phễu, chứa bên trong những hạt sen bùi nghìn nghịt. Thân sen
chìm trong làn nước mát. Ngó sen trắng ngần, cắm sâu xuống lớp bùn lâu năm
đen quánh (9).
Ngoài ra, học sinh còn có thể dựng đoạn theo cách tổng phân hợp. Theo
cách hướng dẫn như trên, giáo viên cho học sinh luyện viết các đoạn cho bài
văn.

2.3.10. Luyện lời văn chuyển ý, liên kết đoạn trong văn miêu tả.
Lời văn chuyển ý không nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc liên
kết, liên hoàn mạch văn, nó đánh giá trình độ khéo léo của cây bút miêu tả.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh làm bài văn tả cảnh. Tôi hướng dẫn cho
học sinh cách chuyển cảnh sau:
- Các cảnh nhỏ được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mô típ liên
cảnh (cảnh kề gần nhau theo tầm quan sát).
Ví dụ: Chỉ một lát con đường đã dẫn tới đầu làng. Cây đa…giếng đình .
- Chuyển cảnh nhờ những hình ảnh trung gian.
Ví dụ: “Bờ đê cao to vạm vỡ. chân đê cỏ mọc thành thảm xanh tốt. Trâu
bò thung thăng gặm cỏ, vểnh đôi tai nghe tiếng sáo diều. Âm thanh ấy lúc trầm
lúc bổng, hòa nhịp với tiếng chim họa mi lảnh lót rắc đều xuống mặt sông. Con
sông quê tôi nằm uốn khúc giữa làng rồi chạy dài bất tận…”(10).
- Hướng chuyển cảnh theo gam màu.
Ví dụ: Sáng nay ra trông thấy màu trời, cỏ vàng hơn thường khi. Màu lúa
chín dưới đồng vàng suộm lại. Nắng nhạt ngã màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư
những chùm quả xoan lịm. Từng chiếc lá mít vàng ối. Buồng chuối đốm, quả
chín vàng. Bụi mía vàng xọng, đốt ngầu phấn trắng…(11)
- Chuyển bằng cách nối âm thanh với không gian.
Ví dụ: Nối âm thanh của sự vật bên bờ sông với không gian vắng của bến
sông (lấy động làm tĩnh) : “Sóng vỗ nhẹ hai bên bờ lóc bóc nghe thật vui tai.
Trên sông giờ đây có những con thuyền hối hả cập bến, chất đầy cau tươi, xoài
thơm từ các miền đất lạ mang về. Tiếng người lao xao trong tiếng hạ buồm cót
két bên bờ sông quê. Chiều dần buông, bến sông vắng lặng. Những con đò nằm
im đợi khách qua sông… ”(12).

16


- Chuyển cảnh bằng cách liên tưởng theo sự quan sát qua các giác quan

khác nhau: thính giác, thị giác, khiếu giác, vị giác và bằng cả cảm giác nữa.
Ví dụ: Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương
hoa thơm ngọt lịm. Tiếng chim líu lo như đem hương thơm ấy bay cao, cao mãi.
Tu hú kêu trong nắng chiều cho rặng vải ven sông chín đỏ, cho cái chua bay đi,
miền ngọt còn lại. Hẹn một bến sông quê từng thuyền trái ngọt (13).
Phương pháp này giáo viên cho học sinh tập viết kết hợp với học tập tư
liệu để có nhiều cách chuyển cuốn hút người đọc.
2.3.11. Hướng cho học sinh luyện cách mở bài và kết bài miêu tả.
Trong một bài Tập làm văn, phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên
cho người đọc. Các em có thể mở bài bằng một câu hay một đoạn văn nhưng
cần bám sát nội dung, yêu cầu đã được xác định. Giáo viên có thể đưa ra một số
cách mở bài để học sinh tham khảo. Cách mở bài hay thường là cách gián tiếp:
có thể giới thiệu đối tượng miêu tả bằng cách bộc lộ cảm xúc của người viết một
cách khái quát, có thể dẫn dắt từ lời thơ, bài hát hoặc bộc lộ cảm xúc, hồi tưởng
về đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Viết mở bài cho đề văn: Tả lại ngôi trường em đang học.
- Cách mở bài trực tiếp: Thường lệ, mỗi buổi sáng em thường đến trường
sớm hơn các bạn và lại được ngắm nhìn ngôi trường yêu dấu của em. Ngôi
trường đẹp biết nhường nào (14).
- Cách mở bài gián tiếp: Một nhà thơ có viết:
“Trường của em be bé
Nằm lặng giữa rừng cây”
Ngôi trường yêu dấu mà em đang học không phải là trường “be bé” mà
là một ngôi trường khang trang, đẹp đẽ và rộng lớn. Mỗi buổi sáng em đều đến
trường sớm hơn các bạn và lại có dịp nhìn ngắm ngôi trường mến yêu của
mình. Ngôi trường mới đẹp làm sao (15).
Kết bài không những chốt ý của bài viết mà nên tạo độ lắng cho nốt trầm
xao xuyến vang vọng trong tâm hồn người đọc. Điều này tùy thuộc vào trình độ
diễn đạt của học sinh nên giáo viên hướng các em trau dồi tư liệu văn học. Cũng
nên lưu ý các em kết bài có thể không nhất thiết cứ nêu cảm nghĩ mà có thể kết

bài theo hướng mở. Kết bài cũng không nhất thiết phải dài dòng, khoa trương
mà chỉ cần một câu ẩn chứa tư tưởng, tình cảm người viết.
Ví dụ: Đối với đề văn: Tả lại ngôi trường em đang học. Có thể kết bài
như sau:
- Ôi! Mái trường sao mà đáng yêu đến vậy. Những cảnh vật, những kỉ
niệm về tuổi học trò nơi đây đã in đậm trong kí ức, trong tâm hồn em. Được
đến trường để nhìn ngắm ngôi trường trước buổi học đối với em đó là một cảm
giác vô cùng thú vị (16).
- Năm tháng rồi cũng sẽ qua đi, em sẽ lớn khôn, trưởng thành. Thời gian,
không gian rộng mở, em có thể đi đến nhiều chân trời nhưng ngôi trường em
đang học vẫn là nơi lưu giữ bao kỉ niệm đẹp về thầy cô, bạn bè những bài học
hay…(17)

17


Hay với đề bài: Miêu tả vẻ đẹp của của làng quê khi phải rời xa. Có thể
kết bài như sau:
Xin gửi lại nơi chôn nhau cắt rốn tình yêu, lời chào và niềm tin vào một
ngày mai tươi sáng (18).
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Áp dụng những giải pháp nêu trên đối với lớp 6A năm học 2017 – 2018,
tôi thu được kết quả như sau:
Về ý thức học tập của học sinh: đã có sự tiến bộ, không còn học sinh có
tâm lí ngại học như trước. Ngược lại, các em yêu thích, hứng thú, say mê học
tập, đặc biệt là các em rất hăng hái mỗi khi được học tiết Tập làm văn và hăng
say làm bài mỗi khi thầy cô giao bài.
Về chất lượng học tập: có sự tiến bộ rõ rệt. Những bài yếu kém hạn chế
nhiều, nhiều bài văn miêu tả rất sinh động, rất hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Số

học sinh đạt điểm khá giỏi tăng rõ rệt. Đến nay số học sinh đăng kí thi học sinh
giỏi cấp trường môn Ngữ văn trong lớp đã tăng đáng kể. Kiểm tra định kì Tập
làm văn kiểu bài miêu tả, kết quả cụ thể như sau:
Kết quả kiểm tra định kì (tiết 88)
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
32
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
12,5
10
31,3
18
56,2
0
00
Từ kết quả đạt được, tôi cũng như các bạn đồng nghiệp nhận thấy rằng rèn
kỹ năng làm bài văn miêu tả cho học sinh lớp 6 là rất quan trọng và hết sức cần
thiết, giúp các em có được những kỹ năng cơ bản khi làm một bài văn miêu tả.
Đây là quá trình công phu, tỉ mỉ, đòi hỏi sự nhiệt tình của giáo viên, lòng yêu nghề

mến trẻ, sự học hỏi không ngừng. Đặc biệt là sự thể hiện đầy đủ đúng mức lương
tâm trách nhiệm của người thầy. Đó không chỉ là sự tìm tòi, đòi hỏi và vận dụng
một cách hữu hiệu nhất là phương pháp dạy học đổi mới mà còn phải đầu tư vào
soạn giảng, không ngừng nâng cao chất lượng dạy học bộ môn trong nhà trường
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận: Qua quá trình thực hiện đề tài lớp 6, mặc dù vẫn còn hạn
chế nhưng tôi cũng rút ra bài học bổ ích cho bản thân như sau:
Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, phải thực sự kiên trì trong việc
rèn luyện các kỹ năng để học sinh có thể làm tốt bài văn miêu tả. Trong các giải
pháp trên, khi thực hiện, giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong quá trình dạy
học.
Giáo viên cần phải mẫu mực trong cách dùng từ, đặt câu. Thường xuyên
kiểm tra, đánh giá, chỉnh sửa các phần viết, luyện kỹ năng của các em. Mặt
khác, giáo viên cũng phải kiên trì sưu tầm, chọn lọc tư liệu giá trị để cung cấp
cho các em. Đồng thời, tìm cách hướng các em biết vận dụng sáng tạo những tư
liệu để biến thành cách diễn đạt riêng của bản thân mỗi học sinh.
Luôn luôn tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập; ghi nhận,
động viên kịp thời sự tiến bộ của các em. Luôn bồi dưỡng những tình cảm tốt
đẹp cho học sinh, tạo cho các em niềm say mê học tập bộ môn.
18


Cần động viên các em và phụ huynh mua sắm thêm tài liệu tham khảo cho
bộ môn nhưng cũng cần hướng dẫn các em cách tham khảo tài liệu một cách có
hiệu quả để tránh hiện tượng sao chép, ỷ lại tài liệu, văn mẫu. Cần phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tích cực trong việc lựa chọn
phương pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp. Trong dạy học luôn luôn khơi gợi
cho học sinh óc tư duy, lòng yêu thích khám phá thiên nhiên đất nước.
Không chỉ có lòng nhiệt tình, say mê, mà giáo viên còn phải là người lao
động nghiêm túc, không kể thời gian, bởi kết quả học tập của học sinh là thước

đo kết quả hoạt động của giáo viên. Bên cạnh vốn kiến thức, kinh nghiệm mình
tích lũy hàng năm, giáo viên cần phải học hỏi kinh nghiệm và trao đổi với đồng
nghiệp để tìm ra hướng đi đúng nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Đối với học sinh: phải tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ thuật bằng cả
trái tim. Phải quan sát tinh tế những cảnh vật thiên nhiên thường nhật, phải
tưởng tượng phong phú và cần phải nhập tâm vào cảnh vật để có được những
cảm xúc chân thực với cảnh vật thiên nhiên khi miêu tả.
Mỗi học sinh cần tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học
tập để khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn kỹ năng làm bài. Lựa chọn các tài
liệu tham khảo cho phù hợp để phục vụ cho việc học tập. Tăng cường học tập
ở nhà.
Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến cá nhân, tích cực thảo luận, tranh
luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn. Biết đánh giá các ý kiến,
quan điểm, các sản phẩm hoạt động học tập của bản thân và bạn bè.
Mặc dù kết quả giảng dạy nêu trên vẫn còn khiêm tốn, tôi sẽ cố gắng học hỏi
hơn nữa ở anh chị, bạn bè đồng nghiệp để tìm ra các biện pháp tốt nhất để phục
vụ cho công việc giảng dạy sao cho chất lượng ngày càng cao hơn.
3.2. Kiến nghị:
Đối với Sở Giáo dục và Phòng Giáo dục: mở thêm các lớp chuyên đề để
bồi dưỡng thêm về kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn
Ngữ văn.
Đối với nhà trường: Thư viện nhà trường nên có thêm tranh ảnh phục vụ
cho quá trình dạy học văn miêu tả để học sinh có cái nhìn trực quan về đối tượng
cần tả. Thư viện nên tăng cường thêm số lượng cho tủ sách tham khảo, trong đó
có sách tham khảo bộ môn Ngữ văn (dành cho cả giáo viên và học sinh). Quản
lí, nâng cao hiệu quả các buổi sinh hoạt của nhóm, tổ chuyên môn.
Đối với đồng nghiệp: tích cực dự giờ đồng nghiệp để học hỏi, trao đổi về
chuyên môn nghiệp vụ. Tham gia tích cực và hiệu quả các buổi sinh hoạt liên
trường của tổ, nhóm chuyên môn. Trao đổi, thảo luận về việc sử dụng tài liệu
tham khảo để nâng cao hiệu quả giảng dạy.

Xác nhận của nhà trường

Thọ Xuân, ngày 20/5/2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi viết.

19


Lê Thị Vân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhận định về văn học, M.Gorki.
2. Trang 16, SGK Ngữ văn 6, tập 2.
20


3. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Bài làm của học sinh.
5. Những chiếc ấm đất, rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời, NXB Mai
Lĩnh, Hà Nội, 1940.
6,7,8,9, 10,11,1213,14,15, 16,17,18. Bài làm của học sinh.

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

21



- Họ và tên tác giả: Lê Thị Vân
- Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Xuân Lai, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa
TT

Tên đề tài SKKN

1

Một số kinh nghiệm trong việc rèn
kỹ năng nói trong dạy học Tập làm
văn cho học sinh THCS. Vận dụng
tiết 112: "Luyện nói: Giải thích
một vấn đề" (Ngữ văn 7, tập 2)
Nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh bằng
phương pháp hoạt động nhóm
trong dạy học một số văn bản môn
Ngữ văn 9
Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng
làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6

2

3

Cấp đánh
giá xếp
loại
huyện


Kết quả
đánh giá
xếp loại
C

Năm học
đánh giá
xếp loại
2010-2011

huyện

C

2012-2013

huyện

B

2017-2018

22



×