Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường TH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
“Mục tiêu của Giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục - 2005).
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục
tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt
“đức, trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu
mới của xã hội.
Nhận thức rõ tầm quan trọng cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng, ngày 20 tháng 7
năm 2010 Bộ giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT triển
khai việc giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở
các cấp học; dựa trên cơ sở những định hướng của đợt tập huấn tăng cường
giáo dục kỹ năng sống trong các môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ
thống giáo dục phổ thông.
Bộ giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống (KNS) lồng
ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng
đắn. Tuy nhiên, để giáo dục KNS cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu
tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Học để tự tin, tự lập. Giáo dục KNS cho
học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi
đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh.
Trong thực tế hiện nay việc rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà
trường đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn
lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ
năng sống cho học sinh. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã
quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục KNS cho học sinh
dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi
trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một


trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo
đức của học sinh. Chính sự cần thiết trên tôi nhận thấy cần phải có các biện
pháp chỉ đạo để giáo viên làm tốt việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu
học nên tôi xin đề xuất: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh trong trường Tiểu học”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng
bản thân mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh
của mình có những kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này, trở thành những
con người tốt, có ích cho xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã
hội hết sức quan tâm.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1


Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ
thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ
XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết, học để
làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. Cùng với các
biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà
trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng,
một nội dung không thể tách rời của quá trình giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường TH Ngư Lộc I.
- Các biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
- CBGV, HS trường Tiểu học Ngư Lộc I.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực tế.
- Tổng hợp, thống kê.
- Dự giờ một số môn học có lồng ghép giáo dục kỹ năng sống.

- Phỏng vấn GV, HS trong trường.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.

Cơ sở lý luận của SKKN

Như phần mở đầu đã nêu, mục tiêu giáo dục là nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về nội dung giáo dục tiểu học
phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội
và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có thói
quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật và
có một số kỹ năng sống cơ bản phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Trong nhiệm vụ năm học 2017-2018, Bộ giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ
“Tiếp tục chỉ đạo việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng;
điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học;
tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống” ....
Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc
sống đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ năng tương ứng. Rèn luyện
kỹ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân
thiện trong mọi tình huống; thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng
hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức
tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã
hội. Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập
và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát
triển nhân cách sau này.
2



Vậy giáo dục KNS là một tiến trình giáo viên trang bị cho trẻ kiến thức;
giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có kỹ
năng. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng vào các sinh hoạt thường
ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một thói
quen tốt.
*Kỹ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
- Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy,
nhảy v.v…
- Kỹ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một
dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ
nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi v.v…
Ở tiểu học, đối với các lớp đầu cấp, kỹ năng cơ bản được xem trọng, còn các
lớp cuối cấp nâng dần cho các em về kỹ năng nâng cao. Theo đó, chúng ta cần
tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng sống sau đây:
a) Nhóm kỹ năng giao tiếp – hòa nhập cuộc sống:
- Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè
thầy cô giáo.
- Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo
đức, các hoạt động tập thể HS được dạy cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế,
nhiều em thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu
mình với người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không
biết nói lời xin lỗi khi các em làm sai.
- Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây là kỹ năng quan
trọng mà không phải em nào cũng xử lý được nếu chúng ta không rèn luyện
thường ngày.
b) Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí:
- Các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết, kỹ năng quan sát, kỹ năng đưa ra ý kiến chia
sẻ trong nhóm bạn.
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.

- Kỹ năng kiểm soát tình cảm – kỹ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá
nhân có hại cho bản thân và người khác.
- Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động.
Thực tế các kỹ năng này được đưa vào mục tiêu cụ thể từng môn học,
bài học mà tập trung nhiều nhất là môn Đạo đức và Tiếng Việt. Song, để có
hiệu quả cao, chúng ta cần tổ chức tốt các biện pháp sau đây:
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của
học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy
học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, luôn tạo cho các em tính
chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được
bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên
cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập
thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích
lũy KNS cho các em.
3


- Quán triệt mục tiêu giảng dạy môn Đạo đức, nhất là hình thành các hành vi
đạo đức ở tiết 2. Giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác kiểm tra đánh giá phân
loại hạnh kiểm của học sinh, rèn cho học sinh khả năng tự học, tự chăm sóc
bản thân, biết lễ phép, hiếu thảo, tự phục vụ bữa ăn và vệ sinh cá nhân.
- Tổ chức tốt hoạt động ngoại khóa, “diễn đàn” ở phạm vi lớp khối của mình.
Mỗi năm học sẽ có một số chủ đề rèn luyện KNS được triển khai. Trong đó nhà
trường cần phát huy vai trò của tổ chức Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh và Sao nhi đồng theo các chủ điểm hàng tháng. Đưa trò chơi dân gian,
hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian vào trường học, qua đó
mà rèn luyện KNS cho học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân
công, thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho
các em làm lớp trưởng, tổ trưởng, không nên trong năm học chỉ để một em làm

lớp trưởng. Với học sinh tiêu học, thày cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của
các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy,
thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng
xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm. Giáo dục KNS cho học sinh
sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm gương.
- Cần tổ chức tốt các buổi chào cờ đầu tuần. Theo đó mục tiêu buổi chào cờ
không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong
tuần qua của giáo viên trực, triển khai kế hoạch tuần tới của Ban giám hiệu nhà
trường mà cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện
các kỹ năng cho học sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực
đánh giá, nhận xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn
nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi… do chính các em đứng ra tổ chức dưới sự
giúp đỡ và hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm.
- Xây dựng trường, lớp an toàn – xanh - sạch - đẹp. Trong đó cần chú trọng tạo
môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng vườn cây thuốc nam, các
câu khẩu hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức bảo
vệ môi trường ở các em. Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ
chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục KNS cho các
em.
- Tổ chức các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các cuộc thi bằng các hình
thức như Rung chuông vàng, Thi kể chuyện về Bác Hồ.
Dạy KNS cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết
ở các trường tiểu học nói riêng. Trong lúc nội dung về rèn luyện KNS chưa
được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ yếu được giáo viên lồng
ghép trong từng bộ môn như giáo dục đạo đức, tiếng Việt… hay trong các tiết
chào cờ đầu tuần. Với thời lượng hạn hẹp như vậy, các em chưa được trang bị
đầy đủ các KNS. Đó là điều đang còn khó khăn, lúng túng cho các nhà trường
nhằm rèn luyện KNS cho học sinh. Một trong những mục tiêu được chú trọng
trong năm học mà Bộ GD-ĐT yêu cầu là tăng cường giảng dạy kỹ năng sống
cho học sinh tiểu học. Tuy nhiên, làm thế nào để triển khai hoạt động rèn KNS


4


một cách hiệu quả thu hút được học sinh và các bậc phụ huynh đang là trăn trở
của các thầy cô giáo, các nhà trường và toàn xã hội hiện nay.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp
ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục
phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế
kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: học để biết, học để
làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.2.1. Về phía phụ huynh
Qua tìm hiểu nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các
hoạt động kỹ năng thực hành xã hội là do một số phụ huynh chỉ khuyến khích
con em mình học các môn văn hóa mà quên hướng cho con em mình làm tốt
hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình.
Ví dụ: Chỉ cho con tham gia ôn luyện đội tuyển Văn – Toán, Tiếng Anh, viết
Chữ đẹp, không tự nguyện cho tham gia thi Văn nghệ, bóng đá, điền kinh...
Một số gia đình phụ huynh học sinh cách xưng hô giữa các thành viên
trong gia đình chưa chuẩn mực, nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện
cảm.
Ngoài ra, một trở ngại lớn nữa đó là một số các bậc cha mẹ làm nghề đánh bắt
hải sản, nghề tự do, hoàn cảnh kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, ngày ngày mải
mê công việc, bươn chải lo toan cuộc sống nên rất ít có thời gian hoặc điều
kiện để quan tâm dạy dỗ con em trong các sinh hoạt và hoạt động cần thiết.
Nhiều em đến trường tỏ ra khá lầm lì hoặc đôi khi lại nói quá nhiều vì ở nhà
các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...
2.2.2. Về phía giáo viên.

Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ
năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm
dò, khảo sát thực tế và dự giờ của một số giáo viên trong nhà trường cho thấy
một số giáo viên còn lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho
học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ cần
rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì? Trong bài soạn đã thể
hiện rõ trong mục tiêu nhưng khi giảng bài thì việc lồng ghép giáo dục kỹ năng
sống còn hạn chế, chưa làm thường xuyên, có làm cũng chỉ lấy lệ.
Trong trường, một số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm giảng dạy
và công tác chủ nhiệm, kỹ năng sống nhưng việc đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức
vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo
viên trẻ tuổi nhiệt tình, năng động, nhưng lại hạn chế về kinh nghiệm sống,
kinh nghiệm giảng dạy và công tác chủ nhiệm.

5


Việc nhận thức về rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường còn
bị một bộ phận giáo viên coi nhẹ và làm chưa triệt để. Việc lồng ghép giáo dục
kỹ năng sống vào các môn học trong nhà trường đã thực hiện nhưng hiệu quả
chưa cao.
Một số hoạt động giáo dục kĩ năng sống trong các hoạt động ngoài giờ
lên lớp đã tổ chức song nội dung còn chung chung, vẫn chưa có kế hoạch cụ
thể, chưa có sự đầu tư thích đáng nên chưa đánh động được ý thức tự giác, tích
cực rèn luyện của học sinh....
2.2.3. Về phía học sinh
- Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, phần lớn các em còn rụt rè chưa quen với cách
học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu một số em diễn đạt còn
lúng túng, chưa rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu. Một số em chưa

biết nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè (học sinh khối lớp 1, 2). Đối với khối
lớp 3, 4, 5 tuy độ tuổi có lớn hơn song về mặt tâm sinh lý phát triển chưa ổn
định, tính cách hiếu động,…HS học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo
thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Kỹ năng giao
tiếp hạn chế, vẫn còn có hiện tượng nói tục, chửi bậy. Nhiều học sinh chỉ biết
học kiến thức các môn Văn – Toán..., khả năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn
nhau.
Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo đức, các hoạt động tập thể học sinh
được dạy kỹ năng giao tiếp, cách chào hỏi lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều
em thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với
người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời xin
lỗi khi các em làm sai.
Tóm lại, qua thực tế điều tra khảo sát học sinh trong trường tiểu học Ngư Lộc I
còn có một số biểu hiện sau:
- Có một số hành vi ứng xử sai lệch chuẩn mực đạo đức xã hội .
- Nhiều học sinh thành tích học tập rất tốt, nhưng kĩ năng sống rất thấp (thể
hiện khi giao tiếp, tham gia các hoạt động xã hội …)
- Sự bùng nổ thông tin, nhất là game onlin - ảnh hưởng bởi các trò chơi mang
tính bạo lực, học sinh bị cuốn vào điện tử quên nhiệm vụ học tập.
2.3.4. Kết quả khảo sát cụ thể như sau: ( thời điểm tháng 9 năm 2017).
*HS khối 1:
Tổng
Số
HS
125

Tự mặc quần áo
Tự mình mặc
Cần người

quần áo
lớn giúp
SL
%
SL
%

48

38,4

77

61,
6

Biết chào hỏi lễ phép với người lớn
Tự giác không
Chưa tự giác, bố
cần nhắc nhở
mẹ phải nhắc nhở
SL
%
SL
%

70

56


55

44

* HS lớp 3A: Nội dung khảo sát: Thảo luận nhóm . Khảo sát qua quan sát HS
thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết TNXH.
6


Tổng
Số
HS

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%

35

21

60

14


40

*HS lớp 5B: Nội dung khảo sát: ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian
tập thể. Khảo sát qua quan sát thực tế, kết hợp với GV chủ nhiệm, Tổng phụ
trách Đội đánh giá HS:
Tổng
Số hS

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Ứng xử hài hoà, khá phù hợp
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi
SL
%
SL
%

35

19

54,3

16

45,7

* Toàn trường:
Tổng
Số học sinh
753


Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ Giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ
sinh lớp tốt, bỏ rác đúng nơi quy sinh lớp chưa tốt, đôi lúc chưa
định. Bảo vệ của công.
bỏ rác đúng nơi quy định.
SL
%
SL
%

497

66

256

34

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Giải pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, giáo
viên, nhân viên nhà trường hiểu vị trí, tầm quan trong của việc tăng cường
rèn kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
- Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học, ấn tượng về những người
thầy đầu tiên luôn in đậm trong kí ức của trẻ thơ. Thầy cô giáo luôn là thần
tượng của các em. Cô giáo nói cái gì cũng “ hay”, cũng “đúng” và các em coi
đó là cái chuẩn mực. Bởi vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nên bắt đầu
từ người thầy. Người giáo viên luôn phải là một tấm gương sáng cho học sinh
noi theo. Từ lời nói, hành động, cử chỉ, giao tiếp đến vốn kiến thức, khiến phụ
huynh và học sinh thực sự yên tâm. Nhà trường cần xây dựng môi trường giáo
dục thân thiện, tôn trọng, giúp đở lẫn nhau, làm cho các em cảm thấy thật sự

“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Thực hiện tốt công tác vệ sinh trường,
lớp; bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học
sinh.
- Để thực hiện tốt công tác giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh, trong các
buổi họp chuyên môn đầu năm, Tôi đã triển khai nội dung học tập, tuyên
truyền tới toàn thể cán bộ giáo viên nhà trường sau đó cụ thể hoá tới từng tổ
chuyên môn, trên tinh thần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng cũng như
tính mục đích của việc phải tăng cường rèn kỹ năng sống cho học sinh qua tích
hợp các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
7


- Sau khi xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên môn, tôi triển khai tới các tổ
chuyên môn bằng văn bản chỉ đạo. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn đầu năm,
tổ chức tập huấn lại cho cán bộ giáo viên trong nhà trường về: Vai trò, tầm
quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học sinh. Các kỹ năng sống cần cung
cấp cho đối tượng học sinh Tiểu học. Phương pháp dạy kỹ năng sống qua các
môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đặc biệt là các địa chỉ lồng ghép với
các bộ môn: Đạo đức, Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã
hội, Khoa học. Các bài tập tình huống về kỹ năng sống và cách giải quyết. Kỹ
năng tổ chức các trò chơi, tổ chức câu lạc bộ…
- Giáo dục kĩ năng sống cần thực hiện đồng nhất giữa các môi trường giáo
dục: Gia đình - nhà trường - xã hội. Chính vì vậy nhà trường và giáo viên chủ
nhiệm cần tuyên truyền tới cha mẹ học sinh về phương pháp để giáo dục cho
con mình ngay ở gia đình – phối hợp ở nhà trường, cùng với nhà trường giáo
dục kĩ năng sống cho con em mình. Những lới nói, hành vi chuẩn mực của cha
mẹ ảnh hưởng rất lớn đến các em. Thầy cô giáo cần phối hợp với các bậc phụ
huynh dạy các em các kĩ năng sống cơ bản: Trước hết, người lớn phải gương
mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng và đảm bảo an toàn cho các em.
Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi; luôn khuyến khích các em nói lên

quan điểm của mình. Cha mẹ giúp các em phát triển sở thích của mình và đảm
bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện sở
thích đó.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu cha mẹ
có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách lưu giữ
các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc triển
lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà. Hay các em thích học đàn thì tạo
điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng thêm để các em có đủ tự
tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ chức: 20/11;
Văn nghệ “ Mừng Đảng – Mừng xuân”;...
Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện giáo dục kỹ năng
sống .
Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm và sự cần thiết cần tăng cường rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành xây dựng kế
hoạch chỉ đạo việc thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhà trường.
Phân công và giao nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong Ban chỉ đạo.
- Thành lập Ban cố vấn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường gồm các
thành viên: Hiệu trưởng phụ trách chung, các phó Hiệu trưởng, Tổng phụ trách
Đội, Bí thư Đoàn thanh niên, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm.
Nhiệm vụ của Ban cố vấn giúp học sinh hiểu thêm về kỹ năng sống, cách ứng
xử trong cuộc sống, trong hoạt động học tập, vui chơi và biết tự bảo vệ mình,
đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông, có thêm những hiểu biết về thiên
nhiên, gia đình, xã hội.
- Các thành viên trong Ban cố vấn có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch hoạt động
thông qua các hoạt động dạy và học, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, công tác
chủ nhiệm, thực hiện ATGT....
8


+ Chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch hoạt động chi tiết trong việc tăng

cường rèn kỹ năng sống theo các nội dung dạy học và hoạt động cụ thể của
từng khối lớp, bộ phận mình phụ trách với nhiều hình thức hoạt động thiết
thực, phù hợp đảm bảo tính khả thi theo năm, tháng, tuần.
+ Tổng phụ trách Đội xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp, tổ chức
các hoạt động ngoại khóa về tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
với nội dung các hoạt động thực hiện chủ đề của hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp.
+ Nhà trường phối hợp với Đoàn thanh niên – Đội thiếu niên tổ chức hoạt động
về nguồn như tìm hiểu lịch sử, văn hóa địa phương, phát động thi đua chào
mừng và Mít tinh kỷ niệm các ngày lễ lớn: 20/11; 22/12; 3/2; 8/3; 26/3; 30/4;
01/5....
Giải pháp 3: Chỉ đạo rèn kỹ năng sống cho HS thông qua các hoạt
động và các môn học.
*Rèn kỹ năng sống qua giao tiếp với thầy cô và các bạn:
- Để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên (nhất là giáo viên chủ
nhiệm), yêu cầu mỗi thầy cô giáo trong buổi học đầu năm nên dành thời gian
cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia
sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ trong tương lai cũng như mong muốn
của mình với thầy cô và các bạn. Đây là hoạt động giúp cô- trò hiểu nhau hơn,
đồng thời tạo ra một môi trường học tập thân thiện, "Trường học thật sự trở
thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân
trong gia đình”. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện
trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường
xuyên và đạt hiệu quả cao, tôi chỉ đạo giáo viên nên giao việc quản lý luân
phiên cho học sinh: mỗi học sinh trong lớp đều được làm lớp trưởng, tổ trưởng,
nhóm trưởng để rèn kỹ năng quản lý và thể hiện năng lực cá nhân cũng như cá
tính của mỗi em trong việc tự chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo lớp học trước
cô giáo chủ nhiệm và nhà trường.
* Rèn kỹ năng sống thông qua hoạt động dạy và học
Từ nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra, dưới sự chỉ đạo của Ngành giáo dục, trong

kế hoạch chỉ đạo chuyên môn, tôi đã xây dựng kế hoạch, nội dung, chương
trình giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường thông qua các môn học chính
khóa như việc chỉ đạo tổ chức các chuyên đề dạy học tích hợp lồng ghép rèn kỹ
năng sống trong một số môn học từ cấp tổ đến cấp trường, tập trung vào các
môn học như: Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội lớp 1,2,3; Khoa học lớp 4&5,
Đạo đức.
Theo tài liệu hướng dẫn giáo dục Kĩ năng sống được đưa vào tiểu học
trong 4 môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên- Xã hội (lớp 1,2,3) và Khoa
học (lớp 4,5). Về các địa chỉ dạy Kĩ năng sống, tài liệu cung cấp đầy đủ, chi
tiết ở các bài các môn học. Nhà trường chỉ đạo tổ khối chuyên môn và giáo
viên rà soát các kĩ năng sống có thể thực hiện trong điều kiện của từng lớp và
đối tượng cụ thể. Ngoài các địa chỉ theo tài liệu trường tôi còn hướng dẫn các
9


giáo viên nghiên cứu chương trình để có thể tăng cường ở các địa chỉ khác; sưu
tầm thêm tài liệu phục vụ cho nội dung giáo dục kĩ năng sống sinh động và
hiệu quả. Đặc biệt Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn
luôn giám sát, kiểm tra việc lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy các
môn học xem giáo viên đã có kĩ năng để dạy kĩ năng sống chưa. Để giúp giáo
viên thực hiện tốt việc lồng ghép tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào các môn
học, nhà trường đã xây dựng tổ chức chuyên đề cấp tổ, cấp trường để giáo viên
trao đổi, học hỏi lẫn nhau, rút kinh nghiệm giảng dạy. Ban giám hiệu kiểm tra,
điều chỉnh kịp thời đảm bảo khi lên lớp đạt hiệu quả. Để đảm bảo một tiết dạy
có giáo dục kĩ năng sống thì khi soạn bài sau phần mục tiêu bài học phải ghi
thêm mục Giáo dục kỹ năng sống (ít nhất là một mục tiêu) cần đạt.
Bài dạy có giáo dục kĩ năng sống không làm mất đi đặc thù của môn học,
không được làm sai lệch nội dung. Đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhưng
không gây quá tải bài học; có thể trong một bài đạt được nhiều mục tiêu giáo
dục kĩ năng sống nhưng chỉ chọn một hoặc một số mục tiêu để thực hiện. Luôn

đảm bảo linh hoạt, phù hợp đối tượng và đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng
môn học, bài học.
Theo tài liệu hướng dẫn: Một bài có lồng ghép giáo dục kĩ năng sống gồm 4
bước:
1- Khám phá (có thể liên hệ kiến thức học sinh đã biết, tìm hiểu về vấn đề sắp
triển khai…)
2- Kết nối (liên kết giữa cái đã biết và chưa biết của học sinh, khi cung cấp
kiến thức mới thì kiến thức đó đạt được đã đạt mức độ nào)
3- Thực hành/luyện tập(tạo cơ hội và điều chỉnh việc thực hành vào hoàn cảnh
cụ thể)
4-Vận dụng (học sinh vận dụng vào tình huống mới).
Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh,
yêu cầu người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi
học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt
động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được
phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…
học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều KNS cần thiết. Hiệu quả
đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác nhưng
được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác với
mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng ... đó
chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi
trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua
các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó
giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt
theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách
ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, người giáo viên cần
đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách
tạo sự gần gũi giữa các em với nhau. Trong chương trình lớp 4, 5 ở môn Tiếng
10



Việt có nhiều bài học có thể giáo dục các kĩ năng giao tiếp xã hội cho học sinh
như: Viết thư; Điền vào giấy tờ in sẵn; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham
gia; Chủ điểm Việt Nam tổ quốc em; Con người với thiên nhiên; Các tiết
Luyện từ và câu, Tập làm văn theo chủ đề: luyện tập, thuyết trình, tranh luận...
được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp đều được giáo viên soạn chi tiết
tới từng hoạt động để học sinh dễ dàng có cơ hội liên hệ bản thân, biết trình
bày kết quả, sản phẩm trước tập thể lớp để các bạn chia sẻ, rút kinh nghiệm
trong mỗi hoạt động cụ thể.
Hướng dẫn giáo viên chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự
nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin
khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng giáo viên đã kịp thời nhắc nhở,
động viên các em mạnh dạn, những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng
thêm một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn
những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu
nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc “Chuyện cổ tích về loài người” – Tiếng
Việt lớp 4 (tập 2). Giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Trong “câu chuyện
cổ tích” này, ai là người được sinh ra đầu tiên? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần
có ngay mặt trời? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay người mẹ? Bố giúp trẻ
những gì ? Thầy giáo giúp trẻ những gì?….
Ví dụ 2: Dạy bài tập đọc “Người gác rừng tí hon” (Tiếng việt 5- tuần 13 )
GV có thể giáo dục kĩ năng sống cho HS qua các hoạt động:
1. Luyện đọc:
+ Cho HS được đọc cá nhân là các HS trong lớp sẽ được nhận xét, giúp
đỡ bạn hoặc học tập cách đọc của bạn mình.
+ Cho HS đọc cặp đôi cùng bàn là đã giúp HS sữa chữa lẫn nhau, tự tin
giao tiếp, tương tác với nhau.
+ Cho HS đọc thi đua luyện đọc là giúp HS nâng cao năng lực khẳng

định mình, rút kinh nghiệm cho bản thân, học tập điều hay từ bạn …
2. Tìm hiểu bài :
GV hướng dẫn HS tìm hiểu bài bằng hệ thống câu hỏi gợi ý phù hợp, HS
sẽ được tự mình nghiên cứu, được phát biểu suy nghĩ của bản thân, được lĩnh
hội kiến thức bằng việc chủ động phát huy tính tích cực của bản thân mình.
Trong suốt quá trình tìm hiểu bài, GV cần tôn trọng ý kiến của HS, động viên,
khuyến khích, hỗ trợ, bổ sung cho HS, tránh chê bai hoặc nói “sai” mà phải là
“Bạn nào bổ sung cho bạn, ý kiến khác,…” .
+ Kể những việc làm cho thấy bạn nhỏ là người: Thông minh, dũng
cảm...
Từng thành viên trong lớp sẽ được nêu ý kiến cá nhân mình, được giao
tiếp trao đổi cùng bạn để đi đến thống nhất chung.
- Cho HS trao đổi thảo luận với bạn trong lớp (nhóm 4):
+ Vì sao bạn nhỏ trong bài tự nguyện tham gia bắt bọn trộm gỗ?
+ Em học tập được ở bạn nhỏ điều gì?
11


- Nhiều HS được nêu suy nghĩ của mình. GV động viên, khuyến khích, tôn
trọng ý kiến của các em.
3. Liên hệ thực tế :
- Cho HS được nói lên nguyện vọng, suy nghĩ, tình cảm của mình:
+ Nếu em là bạn nhỏ trong bài, em sẽ làm gì ?
- HS sẽ được trao đổi, thảo luận với bạn, nêu lên ý kiến cá nhân mình: Qua
bài, em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước, với
địa phương; trách nhiệm của mỗi HS đối với trường – lớp của mình. GV là
người tóm tắt các ý kiến, định hướng, giáo dục học sinh bằng các việc làm cụ
thể.
Ví dụ 3: Khi dạy bài: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị”
môn Luyện từ và câu: bản thân cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu,

đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề
nghị lịch sự nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho
các em trao đổi : “Theo em, như thể nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em
đã lịch sự khi yêu cầu đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy
nghĩ của mình.
Rèn KNS được thể hiện trong các môn học thông qua xử lí tình huống,
các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.
Ví dụ: Trong môn Khoa học - bài: "Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại
thức ăn?” bản thân cho học sinh thảo luận nhóm, chơi trò chơi “đi chợ” và lên
thực đơn cho các bữa ăn trong một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của
giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu
kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm bảo các chất ...
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số
chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể ý thức, thái độ
luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi giao tiếp... đó chính là hiệu quả từ giáo
dục kĩ năng sống. Việc làm việc theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện,
giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra
thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao
động trở nên sôi động hơn. Tham gia làm việc theo nhóm giúp các em học sinh
hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình
huống. Khi sinh hoạt nhóm phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển
tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.
Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe” ( Lớp Bốn), các bài:
“Con người cần gì để sống ? “Vai trò của các chất dinh dưỡng có trong thức
ăn”; “Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng”; “Phòng bệnh béo phì”;
“Phòng tránh tai nạn đuối nước”;...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ
chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây
qua đường tiêu hóa, biết những việc nên làm và không nên làm để phòng tránh
tai nạn đuối nước, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác
thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết

tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt.

12


Ở bài: “Các nguồn nhiệt” môn Khoa học: các em được đóng vai xử lí tình
huống khi có tai nạn ở nhà như: Ủi quần áo bị cháy hay trông em giúp mẹ
nhưng em đến gần bếp lửa...Các nhóm sẽ thảo luận sau đó lên thể hiện. Các em
còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa
xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra.
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài
học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Bản
thân giáo viên cần luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương
pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy
mình hơn qua việc học nhóm.
Trong các tiết học về các chủ đề Con người và sức khoẻ, xã hội, tự
nhiên... tôi khuyến khích các cô giáo sử dụng công nghệ thông tin cập nhật số
liệu, hình ảnh, thông tin trình chiếu giảng dạy hàng ngày giúp học sinh tham
gia vào quá trình học tập hứng thú, khám phá những điều mới mẻ, bổ ích để từ
đó có thêm vốn kiến thức trong cuộc sống thực tế hàng ngày.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và
An toàn phòng tránh các thương tích khác... Tôi đã chỉ đạo giáo viên giáo dục
các em thông qua cách đưa ra bài tập tình huống cho các em tìm cách ứng xử
phù hợp trong các tiết dạy ATGT, Tự nhiên - Xã hội, SHTT để hướng dẫn các
em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích.
* Chỉ đạo rèn kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoại khoá.
Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã lựa chọn giáo viên có năng lực làm
công tác chủ nhiệm, Tổng phụ trách Đội. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch hoạt động
ngoài giờ lên lớp gắn liền với các hoạt động tăng cường rèn kỹ năng sống như:
- Phát động các phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép

như biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có
khuyết điểm, cảm ơn khi được người khác giúp đỡ, được tặng quà, vui vẻ hoà
nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn tuổi,... và tổng kết vào
các tiết sinh hoạt lớp. Tổ chức tốt hoạt động dưới cờ vào sáng thứ Hai đầu
tuần, các ngày lễ kỷ niêm,...
Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11. Đội đã
phát động phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội và sao nhi đồng trong
toàn trường. Yêu cầu các em cùng sưu tầm bài và viết bài, vẽ và trang trí báo.
Qua hoạt động này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các
em rất nhiệt tình, đoàn kết và hợp tác nhau rất tốt.
Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm
mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó
với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng
đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân còn vận dụng thông qua các
hoạt động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
Ngoài ra, Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình
huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ
sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu
13


chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyện đạo đức cho các em,
giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con
người.Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi,
gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
- Lồng ghép dạy các bài hát múa, trò chơi dân gian trong các giờ sinh
hoạt Đội sao nhi đồng có sự tham gia truyền thụ, dạy dỗ của các bậc phụ huynh
có kinh nghiệm.
* Rèn kỹ năng sống cho học sinh qua nền nếp sinh hoạt hàng ngày:

Thầy cô giáo, cha mẹ cũng cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn
uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống. Ví dụ: Các em được làm quen
với những đồ dùng, vật dụng khác nhau (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự
sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những
bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở,
thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những
yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và
ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Ngoài ra, cần dạy các em có thói quen tự phục vụ bản thân, biết tự làm vệ sinh
cá nhân, sắp xếp đồ dùng học tập, quần áo ngăn nắp. Biết làm vệ sinh lớp, vệ
sinh nhà ở...Biết rửa bát, rửa cốc chén và làm một số việc nhà vừa với sức của
mình.
* Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, nhà trường cần kết hợp với phụ
huynh học sinh luôn cố gắng rèn cho học sinh được luyện tập thực hành những
kĩ năng sống cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong
nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong
mọi trường hợp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh
hoạt ở nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được
điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong
suốt quá trình giảng dạy.
Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo
nhóm: biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận,
biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống
nhất… Đây là kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong
tập thể.
Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao
tiếp - tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi,
xin phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với
mọi người.
Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là

điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có
được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen
xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã
hội sau này.
Giải pháp 4: Tăng cường cơ sở vật chất

14


- Để giúp cho công tác giảng dạy, nhà trường tạo mọi điều kiện để 100% cán
bộ giáo viên, giáo viên có đầy đủ tài liệu, sách giáo khoa, sách hướng dẫn
giảng dạy, sách hướng dẫn kỹ năng sống, các Văn bản chỉ đạo về việc lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học.
- Làm tốt công tác xã hội hóa, đầu tư cơ sở vật chất mua sắm thêm trang thiết
bị dạy học hiện đại hỗ trợ công tác dạy học của giáo viên như: âm thanh, loa
đài, máy chiếu,...
- Nhà trường bố trí được đầy đủ các phòng học cho các lớp, đảm bảo 100% các
lớp được học 2 buổi/ngày, đủ bàn ghế, phòng học sạch đẹp khang trang. Nhà
trường kết hợp với phụ huynh học sinh tạo được một môi trường lớp học khang
trang để trường học, các lớp học thực sự trở thành lớp học thân thiện, thu hút
học sinh để giáo viên có đủ điều kiện thuận lợi trong công tác giảng dạy, hoàn
thành tốt công tác giảng dạy và công tác chủ nhiệm của mình.
Giải pháp 5: Chỉ đạo công tác kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm.
Theo chỉ tiêu kế hoạch kiểm tra nội bộ của nhà trường 100% cán bộ giáo
viên được kiểm tra. Thông qua kiểm tra hoạt động sư phạm nhà giáo, kiểm tra
chuyên đề, kiểm tra công tác chủ nhiệm lớp, kiểm tra trường xuyên, Ban giám
hiệu kiểm tra và đánh giá công tác giảng dạy, hoạt động sư phạm của giáo viên
qua đó đánh giá được việc thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mà
giáo viên đã thực hiện trong năm học.
Với cương vị Hiệu trưởng nhà trường tôi đã tổ chức thực hiện việc kiểm tra đánh

giá với các hình thức sau:
* Về phía học sinh: kiểm tra việc thực hiện nền nếp.
+ Kiểm tra hoạt động đầu giờ: Về nền nếp hoạt động tự quản truy bài của các
lớp trong nhà trường. Kiểm tra việc chuẩn bị đồ dùng học tập, sách vở của học
sinh, ý thức giữ gìn tự bảo quản đồ dùng học tập.
+ Kiểm tra vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp, ý thức giữ gìn vệ sinh chung, thói
quen giữ gìn trường lớp sạch đẹp, biết vứt rác đúng nơi quy định.
+ Kiểm tra hoạt động giữa giờ: Xếp hàng tập thể dục, múa hát tập thể, ý thức
tự quản trong hoạt động giữa giờ. Kiểm tra nề nếp xếp hàng ra vào lớp.
+ Kiểm tra việc thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp của cán bộ, giáo viên
học sinh nhà trường qua các cuộc thi tìm hiểu, thi Văn nghệ, Thể dục thể thao,
Điền kinh, báo tường...
* Về phía giáo viên:
- Ban kiểm tra nội bộ kết hợp với tổ trưởng chuyên môn kiểm tra hoạt động sư
phạm và kiểm tra đột xuất, kiểm tra chuyên đề 100% giáo viên. Nội dung:
kiểm tra KHBH, dự giờ xem việc thực hiện lồng ghép giáo dục kỹ năng sống
của giáo viên đã thực hiện theo đúng quy định chưa? Nội dung bài đã thể hiện
đúng 4 bước theo phương pháp giảng dạy kỹ năng sống chưa?
Ban giám hiệu làm tốt công tác kiểm tra để nhằm nhắc nhở, động viên và điều
chỉnh kịp thời mọi hoạt động trong công tác soạn giảng của giáo viên và việc
thực hiện nền nếp của học sinh.

15


Thực tế cho thấy trong tất cả mọi hoạt động nếu có sự kiểm tra, thi đua thì bao
giờ hoạt động đó cũng sôi nổi, nghiêm túc, có ý thức và đạt kết quả cao. Vì vậy
trong chỉ đạo chuyên môn tôi luôn chú ý đến công tác kiểm tra. Nhưng trong
đánh giá cần phải khách quan công bằng mới có sức thuyết phục quần chúng,
song cũng phải cần có nghệ thuật (nhận xét thành công của giáo viên trước mặt

đồng nghiệp, còn phê bình thì nên nói riêng trừ trường hợp vi phạm nhiều lần.
Đặc biệt không được khiển trách giáo viên trước mặt học sinh và phụ huynh
học sinh).
Có thể nói, đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng sống trong trường Tiểu
học ta có thể dựa vào kết quả học tập, kết quả việc thực hiện các nền nếp học
tập, thể dục, vệ sinh, xếp hàng ra vào lớp, ý thức tham gia các hoạt động ngoại
khóa của các em. Đánh giá đúng sẽ là một động lực giúp học sinh nỗ lực rèn
luyện tu dưỡng, phát huy những ưu điểm và khích lệ động viên học sinh phấn
đấu vươn lên để hoàn thiện mình.
Việc đánh giá, rút kinh nghiệm được thực hiện một cách thường xuyên
đối với người cán bộ quản lý. Khi đánh giá, rút kinh nghiệm cần có cách nhìn
tổng quát, khách quan hàng ngày khi đi kiểm tra nền nếp của học sinh và công
tác soạn, giảng của giáo viên để đánh giá việc thực hiện giáo dục lồng ghép kỹ
năng sống vào giảng dạy.
Ví dụ: Khi kiểm tra hồ sơ của giáo viên thấy việc thực hiện chưa tốt, thiếu nội
dung tích hợp trong mục tiêu, hoặc nội dung bài chưa thể hiện rõ mục tiêu đặt
ra... tôi trực tiếp góp ý, chỉ ra cho giáo viên thấy được những thiếu sót cần bổ
sung và yêu cầu về hoàn thiện hẹn thời gian kiểm tra lại. Trường hợp còn xảy
ra và tái phạm lần sau cùng lỗi đó sẽ nêu và rút kinh nghiệm trước cuộc họp
chuyên môn nhà trường.
Giải pháp 6: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng.
Trong quản lý việc động viên khen thưởng có ý nghĩa rất to lớn, nó kích
thích mạnh mẽ đến tính thần mỗi con người làm cho con người thoải mái, thích
hoạt động và trong vươn tới những điều tốt đẹp. Việc động viên khen thưởng
hay trách phạt phải chú ý đến cả hai hình thức: cho tập thể và cho cá nhân.
Để động viên kịp thời những cán bộ giáo viên làm tốt công tác giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh, trong công tác chỉ đạo tôi thường xuyên theo dõi
sát sao để đánh giá, tuyên dương những giáo viên làm tốt công tác soạn, giảng
thông qua các cuộc họp chuyên môn hàng tháng. Động viên, khen thưởng kịp
thời đối với những giáo viên làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống chính là

những giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, làm tốt công tác chuyên môn.
Nhân rộng tấm gương điển hình trong tổ chuyên môn, trong nhà trường cho
các giáo viên khác học tập và noi theo. Việc biểu dương, khuyến khích phải
thực sự công bằng, thường xuyên.
Khen thưởng động viên kịp thời các em học sinh có nhiều thành tích
trong việc tăng cường rèn kỹ năng sống từ đó tạo cho các em có một động cơ
tốt trong việc duy trì thực hiện. Mỗi học kỳ nhà trường tổng kết 2 lần để khen
thưởng những em đã đạt nhiều thành tích bằng những phần quà nhỏ. Các em
16


rất vui và hãnh diện khi được nhận những bông hoa điểm tốt và những món
quà của cô giáo tặng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và
hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong
giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống góp phần hoàn thiện đầy đủ nhân cách con
người.
2.4. Hiệu quả đạt được của SKKN.
Sau gần một năm chỉ công tác “tăng cường giáo dục kỹ năng sống” cho
học sinh trường Tiểu học Ngư Lộc I, kết quả bước đầu đạt được ghi nhận
những thành công nhất định.
Đa số phụ huynh đã rất coi trọng và thực sự quan tâm đến giáo dục kỹ
năng sống cho con em mình. Bản thân phụ huynh cũng có những chuyển biến
tích cực trong giao tiếp, xưng hô với các thành viên trong gia đình cũng như
hàng xóm láng giềng. Phấn khởi khi con em mình đăng ký tham gia các hoạt
động ngoại khóa, hoạt động phong trào...
Đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường thực sự chú trọng đến việc giáo
dục các kỹ năng sống cho HS. Thể hiện rõ nội dung cần thiết của giáo dục kỹ
năng sống trong soạn giảng cũng như khi lên lớp. Tích cực tham gia vào các
hoạt động , có nhiều đổi mới tích cực trong các hoạt động giáo dục.
Kết quả kiểm tra phỏng vấn, làm bài kiểm tra với một số khối lớp trong

nhà trường cụ thể như sau:
* HS khối 1:
Tổng
Số
học
sinh
125

Tự mặc quần áo
Tự mình mặc
Cần người
quần áo
lớn giúp
SL
%
SL
%

Biết chào hỏi lễ phép với người lớn
Tự giác không
Chưa tự giác, bố
cần nhắc nhở
mẹ phải nhắc nhở
SL
%
SL
%

103


111

82,4

22

17,
6

88,8

14

11,2

* HS lớp 3A:
Tổng
Số
HS
35

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%


29

82,9

6

17,1

* Khảo sát lớp 5B: Nội dung khảo sát: Dự giờ quan sát HS thực hành thảo
luận nhóm trong tiết Khoa học vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Kết quả cụ thể:
Tổng
Số
HS
35

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%

31

88,6

4


11,4
17


* HS toàn trường:
Tổng
Số học sinh
753

Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ Giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ
sinh lớp tốt, bỏ rác đúng nơi quy sinh lớp chưa tốt, đôi lúc chưa
định. Bảo vệ của công.
bỏ rác đúng nơi quy định.
SL
%
SL
%

686

91,1

67

8,9

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
3.1. Kết luận:
SKKN “ Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

trong trường Tiểu học” mà tôi nghiên cứu đã được triển khai, áp dụng trong
phạm vi toàn trường trong năm học 2017-2018, sáng kiến đã góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường; Giúp học sinh có đủ khả
năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải
quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang trang bị cho
các em những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống, tạo niềm tin đối với các cấp
lãnh đạo và phụ huynh học sinh trên địa bàn.
Công tác chỉ đạo tăng cường rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một
yêu cầu cần thiết và không thể thiếu được trong trường Tiểu học. Việc giáo
dục kĩ năng sống ngay từ những cấp học đầu sẽ rút ngắn thời gian trang bị
cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào
đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo Tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan
trọng.
Để công tác rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường có hiệu
quả và đi vào chiều sâu thì cần phải tuyên truyền, bồi dưỡng cho cán bộ giáo
viên giáo viên yêu nghề mến trẻ, trách nhiệm và sáng tạo. Ban giám hiệu cần
phải có biện pháp để chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên và động viên khen thưởng
kịp thời.
Mỗi cán bộ, giáo viên cần xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh; Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và
hình thức tổ chức dạy các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các
hoạt động khác; Tập trung vào việc đầu tư soạn giảng, biết tích hợp nội dung
cần thiết liên quan, biết lồng ghép kĩ năng sống vào các môn học; Luôn tạo mọi
điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt các buổi hoạt
động ngoại khóa của trường, lớp. Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn
cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi
với học sinh.
Qua việc nghiên cứu đề tài, bản thân tôi là một Hiệu trưởng đã trang bị
thêm rất nhiều về các biện pháp nhằm nâng cao công tác chỉ đạo giáo viên
trong nhà trường làm tốt công rèn kỹ năng sống qua các môn học và hoạt động

ngoài giờ lên lớp.
2. Kiến nghị:
18


Để công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường Tiểu học
thực hiện tốt hơn tôi đưa ra một số đề xuất như sau:
- Đối với nhà trường:
+ Cần tiếp tục mở các lớp tập huấn nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận thức,
hiểu biết và ý thức rèn kỹ năng sống cho giáo viên, phụ huynh và học sinh.
+ Mở hội thảo, chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống cấp tổ, cấp trường.
+ Tổ chức các cuộc thi tuyên truyền về giáo dục kỹ năng sống: tuyên truyền về
pháp luật, tuyên truyền về phòng, chống các tệ nạn xã hội... cấp trường.
- Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
+ Tổ chức các cuộc thi tuyên truyền về giáo dục kỹ năng sống; tuyên truyền về
pháp luật, tuyên truyền về phòng, chống các tệ nạn xã hội... với cán bộ giáo
viên và học sinh trên địa bàn huyện .
+ PGD&ĐT tổ chức thêm các buổi hội thảo, chuyên đề về các tiết dạy lồng
ghép giáo dục và rèn kỹ năng sống vào các môn học để đội ngũ giáo viên và
các nhà quản lý có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí,
đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của bản thân, không sao chép của đồng nghiệp

Hậu Lộc, ngày 12 tháng 3 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Người thực hiện


Trần Thị Hương

19


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Các chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học từ 2010 đến
2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và
Đào tạo Hậu Lộc
2. Bộ giáo trình nghiên cứu tâm sinh lý học sinh Tiểu học của Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2-Nhà xuất bản Giáo dục năm 2005.
3. Sách giáo khoa các môn học bậc Tiểu học từ khối 1 đến khối 5.
4. Tài liệu giáo dục kỹ năng sống bậc Tiểu học trong các giờ học (từ khối 1 đến
khối 5).
5. Tài liệu trên các diễn đàn giáo dục và rèn kỹ năng sống trong trường học
hiện nay.
6. Một số tài liệu tham khảo trên Internet.

20


MỤC LỤC
TT
1.
1.1
1.2.
1.3.
1.4.


Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu

2.
2.1
2.2
2.3
2.4
3.
4.

NỘI DUNG SKKN
Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả đạt được của SKKN
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
1
1
2
2
2

2
5
7
17
18
20

21



×