Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.39 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
NỘI DUNG…………………………………………………………………………..1
I. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục
hậu quả.…………………………………………………………………………….1
II. Tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính…………2
1. Cảnh cáo. ………………………………………………………………………….2
2. Phạt tiền...…………………….…………………………………………………....4
3. Trục xuất.……………………………………………………….............................6
4. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề…………………………….7
5. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính…………….7
III. Đánh giá tính hợp lí của các biện pháp khắc phục hậu quả……………………..7
1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép………………………….8
2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra…………………………………..8
3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện. ……………………………………………………………………….8
4. Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây
trồng, văn hoá phẩm độc hại…...…………………………………………………9
5. Các biện pháp khác do Chính phủ quy định………………………………………9
6. Một số nhận xét, đánh giá về các biện pháp khắc phục hậu quả………………….9
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………10
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..11

1


MỞ ĐẦU
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 được ban hành ngày


02/07/2002 đã thay thế Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Qua hai lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007, 2008 pháp lệnh đang ngày càng hoàn thiện và
phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Trong pháp lệnh, các hình thức xử phạt vi phạm
hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả là một trong những nội dung quan
trọng. Đây là cơ sở pháp lí và là những biện pháp hiệu quả để đấu tranh phòng
chống vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hành chính nói riêng. Để
có thể nhận thức đúng đắn nhất về vấn đề này, em xin tìm hiểu về đề tài: “Đánh giá
tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các
biện pháp khắc phục hậu quả”.
NỘI DUNG
I. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu
quả.
Khi cá nhân hay tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi
phạm pháp luật hành chính nói riêng, về nguyên tắc Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi nhất định thông qua việc xử phạt cũng như có thể buộc
họ phải áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Việc áp dụng các hình thức xử
phạt nhằm mục đích trừng phạt đối với người vi phạm, giáo dục họ và những người
khác trong xã hội, khôi phục lại trật tự quản lí nhà nước đã bị xâm hại, ngăn ngừa
khả năng tái phạm vi phạm hành chính. Còn việc áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả nhằm khắc phục triệt để những hậu quả do vi phạm hành chính gây ra vì lợi
ích của cộng đồng, bảo đảm hoạt động bình thường của xã hội, đồng thời thể hiện
tính kiên quyết và triệt để trong xử lí vi phạm hành chính.
Hiện nay các hình thức xử phạt có thể được chia thành hai loại:
+Hình thức xử phạt chính gồm: cảnh cáo và phạt tiền
+Hình phạt bổ sung gồm: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và
tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
Ngoài hai nhóm hình thức xử phạt trên, đối với người nước ngoài vi phạm
hành chính trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có thể bị xử
phạt trục xuất. Hình thức xử phạt trục xuất vừa là hình thức xử phạt chính vừa có
thể là hình thức xử phạt bổ sung và chỉ áp dụng đối với người nước ngoài.

Các biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
+ Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra.
+ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện.
+ Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng,
văn hoá phẩm độc hại.
2


+ Các biện pháp khác do chính phủ quy định.
Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một
trong hai hình thức xử phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc cả hai hình phạt bổ
sung. Như vậy, cá nhân tổ chức khi vi phạm hành chính chỉ phải chịu một hình thức
xử phạt chính duy nhất, nếu đã cảnh cáo thì không phạt tiền mà đã phạt tiền thì
không cảnh cáo. Pháp luật quy định xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền đối với hành vi
vi phạm hành chính dựa trên sự đánh giá của nhà nước về tính chất và mức độ xâm
hại của hành vi đó đối với các quy tắc quản lí nhà nước. Ngoài ra, pháp luật còn quy
định hình thức xử phạt bổ sung nhằm mục đích hỗ trợ cho hình thức xử phạt chính,
áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, không được áp dụng độc lập và chỉ được
áp dụng đối với một số vi phạm hành chính nhất định.
Ngoài các hình hình thức xử phạt chính và bổ sung, cá nhân, tổ chức vi phạm
còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả. Như vậy có thể
thấy biện pháp khắc phục hậu quả không phải được áp dụng đối với tất cả mọi vi
phạm hành chính. Biện pháp này chỉ áp dụng khi các nghị định của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước có quy định việc áp
dụng đối với vi phạm hành chính cụ thể. Ví dụ như một hộ gia đình xây dựng nhà ở
quá số tầng được ghi tại giấy phép xây dựng thì nhà nước buộc họ phải tháo dỡ phần

công trình được xây dựng trái phép đó, bảo đảm mĩ quan và an toàn đô thị.
Ngoài những biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Điều 12 Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008), Chính
phủ có thể quy định những biện pháp khắc phục hậu quả khác mà Pháp lệnh chưa
quy định. Pháp lệnh chỉ quy định một số biện pháp khắc phục hậu quả chung, áp
dụng cho đa số các lĩnh vực quản lí nhà nước mà không có những biện pháp khắc
phục hậu quả mang tính riêng biệt, đặc thù và một số biện pháp khắc phục hậu quả
khác có thể chưa được dự liệu hết…Vì vậy, để bảo đảm sự linh hoạt và tính hợp lí
đối với từng lĩnh vực quản lí nhà nước, việc Pháp lệnh quy định các biện pháp khắc
phục hậu quả khác do Chính phủ quy định là phù hợp với thực tế hiện nay.
II. Tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
1. Cảnh cáo.
Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính, quy định tại điều 13 Pháp lệnh xử lí vi
phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008): “Cảnh cáo được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm
nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”.
Hình thức xử phạt này thể hiện một số điểm khá hợp lí:
+ Thứ nhất: Cảnh cáo được áp dụng đối với mọi hành vi vi phạm hành chính
do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Đây là quy định
mới của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều
năm 2007 và 2008) so với Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 1995. Việc sửa đổi
này là hợp lí, phù hợp và đồng bộ với chính sách xử lí hình sự đối với người chưa
3


thành niên quy định tại điều 69 BHLS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Đồng
thời, về mặt tâm sinh lí và mức độ nhận thức, người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi chưa có sự nhận thức hoàn toàn đúng đắn về các hành vi mà họ
thực hiện, chưa nhận thức được đầy đủ hậu quả của hành vi đồng thời mức độ hiểu

biết về pháp luật còn chưa đầy đủ và chính xác, do vậy sẽ không thể áp dụng được
các hình thức xử phạt khác mang tính trừng phạt nghiêm khắc hơn được, việc áp
dụng hình thức xử phạt cảnh cáo sẽ tác động đến nhận thức của họ, giúp họ hiểu
được hành vi của mình là trái pháp luật. Điều này rất cần thiết vì những người trong
độ tuổi này đang trong quá trình học hỏi, rèn luyện đạo đức…Tại điều 6 Pháp lệnh
xử lí vi phạm hành chính 2002 còn quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý”. Như vậy có thể thấy việc
pháp luật có những quy định hợp lí khi xử phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt là cảnh cáo là rất hợp lí.
+ Thứ hai: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. Điều này là rất hợp lí. Vì những hành vi
này có tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, nếu áp dụng biện pháp phạt tiền sẽ
không phát huy được tác dụng, khiến người vi phạm có thái độ chống đối, phẫn uất,
không chấp hành các quy định của pháp luật.
Bên cạnh những điểm hợp lí trên, quy định này còn một số điểm bất cập:
+ Thứ nhất: Việc xác định được một đối tượng vi phạm bao nhiêu tuổi không
phải đơn giản và trong nhiều trường hợp rất khó xác định. Một số trường hợp vi
phạm có thời gian để xác minh vụ việc như đánh nhau, trộm cắp tài sản nhưng chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự…thì cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có thể có thời gian để xác minh được người vi phạm bao nhiêu tuổi, có thể
xác minh được đội tuổi của những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thông qua
nhiều cơ sớ như giấy chứng minh nhân dân, giấy khai sinh, hộ khẩu, xác nhận của
gia đình,…Tuy nhiên, với các trường hợp cần xử lí ngay, ví dụ: vi phạm Luật giao
thông đường bộ như không đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe môtô, xe gắn máy thì
rất khó xác định tuổi của người vi phạm. Nếu họ không mang chứng minh nhân dân,
thì làm sao biết họ chưa đủ 14 tuổi (độ tuổi này chưa được cấp chứng minh nhân
dân và cũng không bị xử phạt gì nếu vi phạm), đã đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (độ
tuổi này đã được cấp chứng minh nhân dân nhưng chỉ bị phạt cảnh cáo về hành vi vi
phạm), từ 16 tuổi trở lên (độ tuổi này có thể phải chịu hình phạt tiền). Với mức sống
hiện nay, việc phân biệt những người trong độ tuổi 13 với 14, 15 với 16 là rất khó

khăn, do vậy sẽ gây khó khăn cho công tác xử lí vi phạm.
+ Thứ hai: Việc xác định vi phạm lần đầu cũng rất khó. Tại Điều 11 Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 có quy định như sau: “Cá nhân, tổ chức bị xử
phạt vi phạm hành chính, nếu qua một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định
xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm
thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính”. Nếu trong một năm, một
đối tượng vi phạm ở địa phương này sau đó lại sang địa phương khác vi phạm thì
4


việc xác định là vô cùng khó khăn. Do vậy, cần phải tăng cường sự quản lí nhân
khẩu trong hệ thống cơ quan nhà nước hiện này.
+ Thứ ba: Ý nghĩa của hình thức xử phạt cảnh cáo là thể hiện thái độ răn đe
nghiêm khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, gây cho
người bị xử phạt những tổn thất nhất định về mặt tinh thần. Nhưng trên thực tế, phải
thừa nhận rằng ít ai cảm thấy xấu hổ, tổn hại về mặt tinh thần…khi bị nhà nước cảnh
cáo họ chỉ cảm thấy may mắn khi không bị phạt tiền. Vì ý nghĩa không đạt được nên
hình thức thể hiện là văn bản phần nào thấy được sự rườm rà và không cần thiết.
Tuy nhiên, hình thức này cũng phần nào giúp người vi phạm hiểu được một điều là
hành vi của họ là trái pháp luật.
2. Phạt tiền.
Phạt tiền là một trong hai hình thức xử phạt chính và cũng là hình thức xử
phạt chủ yếu hiện nay. Khi nghĩ đến xử phạt vi phạm hành chính, nhiều người nghĩ
ngay đến hình thức xử phạt này. Phạt tiền là việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức vi
phạm một khoản tiền nhất định để sung quỹ nhà nước. Phạt tiền tác động trực tiếp
lên lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức vi phạm, gây cho họ hậu quả
bất lợi về tài sản. Vì thế, hình thức xử phạt này có hiệu quả rất lớn trong việc đấu
tranh phòng chống vi phạm hành chính. Hình thức phạt tiền được quy định tại điều
14 của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và
2008). Nó thể hiện được nhiều điểm phù hợp với tình hình xã hội hiện nay:

+ Thứ nhất: Mức phạt tiền được quy định trong khoảng từ 10.000 đồng đến
500.000.000 đồng. So với Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 chưa được sửa
đổi, bổ sung năm 2008 thì mức phạt tối thiểu đã tăng lên từ 5.000 đồng lên 10.000
đồng. Điều này là rất hợp lí, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện
nay. Nếu, quy định mức phạt tiền thấp sẽ không phát huy được tác dụng hữu hiệu
của việc phạt tiền, khiến chủ thể bị xử phạt có thái độ “khinh nhờn” pháp luật, nếu
mức phạt tiền quá cao sẽ không phù hợp với điều kiện kinh tế chung của xã hội.
+ Thứ hai: Khoảng cách giữa mức phạt tiền tối đa và tối thiểu trong quy định
của Pháp lệnh là khá lớn vì vi phạm hành chính thuộc về nhiều lĩnh vực, đa dạng về
tính chất và mức độ vi phạm. Vì vậy, cần thiết có mức phạt thấp để áp dụng với
những vi phạm nhỏ, hậu quả ít nghiêm trọng và mức phạt cao đối với những vi
phạm hành chính có tính chất nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức phạt
tối đa 500.000.000 đồng là mức phạt đặc biệt chỉ áp dụng khi có đủ 2 điều kiện: chủ
thể có hành vi xâm hại vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của Việt Nam; hành vi có mục đích nghiên cứu, thăm do khai thác
nguồn lợi hải sản, dầu khí, các tài nguyên thiên nhiên khác. Thực chất, với
hai điều kiện trên, mức phạt này chỉ áp dụng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài.
+ Thứ ba: Các quy định về hình thức phạt tiền xác định rõ mức phạt tiền tối
đa trong từng lĩnh vực quản lí nhà nước. Mỗi lĩnh vực có một đặc thù riêng, do vậy
tính chất và mức độ nguy hiểm cũng khác nhau. Do vậy không thể quy định một
mức phạt tối đa chung cho tất cả các lĩnh vực vì mức phạt có thể phù hợp với lĩnh
5


vực này mà không phù hợp với lĩnh vực khác. Ví dụ: Đối với hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường sắt mức phạt tối đa lên đến
70.000.000 đồng, tuy nhiên mức phạt này không phù hợp khi áp dụng đối với các
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Vì những
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường sắt nguy hiểm hơn nhiều so với đường bộ,
nó có thể gây thiệt hại đến tính mạng của rất nhiều người cũng như gây thiệt hại về

kinh tế lớn hơn rất nhiều so với giao thông đường bộ.
+ Thứ tư: Hình phạt tiền chỉ áp dụng cho cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên và các
tổ chức khi họ có hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Đối với các cá nhân từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phạt cảnh cáo mà không phạt tiền. Điều này rất hợp lí,
vì những người trong độ tuổi này phần lớn không có tài sản riêng và chưa đến tuổi
lao động, do vậy sẽ không có tài sản riêng, do vậy việc phạt tiền là không phù hợp,
trong trường hợp này chỉ có thể xử phạt bằng hình thức cảnh cáo.
+ Thứ năm: Những lĩnh vực chưa được pháp lệnh quy định, chưa được dự
liệu trước thì chính phủ có thẩm quyền quy định mức phạt tối đa nhưng không quá
100.000.000 đồng. Điều này rất hợp lí, bởi vì: Xã hội phát triển rất nhanh và đa
dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau và có những ngành nghề mới ra đời, do vậy
pháp lệnh không thể dự liệu hết được, đồng thời việc đổi pháp lệnh không phải là
việc làm nhanh chóng, do vậy cần thiết phải trao cho một cơ quan có thẩm quyền
quy định cách thức giải quyết và tiến hành xử phạt kịp thời những hành vi gây thiệt
hại cho xã hội. Cơ quan được giao nhiệm vụ này là Chính phủ, do chính phủ thực
hiện chức năng quản lí nhà nước, do vậy sẽ nắm bắt tình hình một cách nhanh
chóng, kịp thời, nên sẽ có quyết định xử lí kịp thời nhất. Mức xử phạt trong trường
hợp này được quy định là không quá 100.000.000 đồng, điều đó sẽ khiến Chính phủ
không thể tùy tiện quy định mức phạt quá cao, mà phải phù hợp với thực tiễn.
Một số điểm chưa hợp lí của hình thức phạt tiền:
+ Thứ nhất: Nếu người vi phạm hành chính không có tình tiết tăng nặng hay
giảm nhẹ thì sẽ áp dụng mức hình phạt trung bình của khung. Còn nếu có tình tiết
giảm nhẹ (được quy định tại Điều 8 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007 và 2008)) thì có thể được áp dụng mức phạt tiền thấp hơn
mức trung bình nhưng không được thấp quá mức tối thiểu. Ngược lại, nếu có nhiều
tình tiết tăng nặng được quy định tại điều 9 của pháp lệnh thì có thể bị áp dụng mức
phạt tiền cao hơn mức trung bình nhưng không được vực quá mức tối đa. Trên thực
tế, các chủ thể có thẩm quyền thường rất ít khi quan tâm đến tình tiết giảm nhẹ mà
họ thường áp dụng luôn mức trung bình của khung hoặc mức tăng nặng. Sở dĩ có
điều này, do quyết định rất nhanh chóng, mang ý chí đơn phương, không hề có sự

trao đổi giữa người bị phạt với người có thẩm quyền phạt, đồng thời không hề có
luật sư bảo vệ quyền lợi của người bị xử phạt như trong lĩnh vực luật hình sự, do
vậy các tình tiết giảm nhẹ thường không được xét đến. Ví dụ: người điều khiển xe
môtô, xe gắn máy mà “chở theo 2 người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi
cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật” thì theo
6


quy định của khoản 3 điều 9 nghị định 34/2008/NĐ-CP khung hình phạt là từ
100.000 đồng đến 200.000 đồng. Tuy nhiên khi ra quyết định xử phạt, cảnh sát giao
thông thường ra quyết định xử phạt ngay với mức phạt tiền là 150.000 đồng hoặc
200.000 đồng mà không quan tâm đến các tình tiết giảm nhẹ. Do vậy, yêu cầu đặt ra
là cần phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cá nhân có thẩm quyền, như vậy
mới đảm bảo pháp luật được thực thi một cách chính xác.
+ Thứ hai: Hình thức phạt tiền làm nảy sinh rất nhiều chuyện “xin xỏ” dẫn
đến việc tiền xử phạt không được nộp vào ngân sách nhà nước mà vào túi các cá
nhân có thẩm quyền. Chuyện này xảy ra trên nhiều lĩnh vực, điển hình và phổ biến
nhất là lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Hiện nay nhiều người dân khá bức
xúc trước cách xử lí như vậy của một bộ phận cảnh sát giao thông cũng như cảnh sát
cơ động. Khi vi phạm và bị xử phạt, người ta thường “xin xỏ”, xin giảm mức tiền
phạt xuống dưới cả mức tối thiểu, cũng như không cần nhận biên bản vi phạm hành
chính và quyết định xử phạt, tiền sẽ được chuyển thẳng cho cảnh sát giao thông
hoặc cảnh sát cơ động mà không nộp vào kho bạc nhà nước.
3. Trục xuất.
Trục xuất là buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam
phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Hình thức xử phạt này chỉ áp dụng với đối với
những người không mang quốc tịch Việt Nam.Theo đó, những đối tượng có thể bị
trục xuất bao gồm người có quốc tịch một hay nhiều quốc gia khác không phải Việt
Nam và những người không có quốc tịch. Trục xuất được quy định tại điều 15 Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008), đây có

thể là hình thức xử phạt bổ sung nếu nó đi kèm theo hình phạt cảnh cáo hoặc phạt
tiền, đôi khi nó được coi là hình phạt chính, khi không bị cảnh cáo hay phạt tiền.
Thủ tục trục xuất sẽ được Chính phủ quy định cụ thể và giao thẩm quyền
quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất cho Bộ trưởng Bộ Công an. Vì trục
xuất là một vấn đề nhạy cảm, có ảnh hưởng đến quan hệ giữa các quốc gia nên thủ
tục phải được quy định chặt chẽ, cụ thể, nếu quy định ngay tại Pháp lệnh sẽ không
phù hợp với cơ cấu và tính chất của một pháp lệnh khung, do vậy việc giao thẩm
quyền cho Chính phủ trong việc quy định thủ tục trục xuất là một điều hợp lí.
Trên thực tế, có một số trường hợp cần phải được giải quyết cụ thể:
+ Thứ nhất: một số công dân Việt Nam xin thôi quốc tịch Việt Nam và xin
nhập quốc tịch một quốc gia khác, tuy nhiên trong thời gian chờ đợi nhập quốc tịch
mới, họ lại vi phạm hành chính thì khó có thể xử phạt trục xuất đối với họ. Ví dụ:
hiện nay nhiều cô gái Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, muốn nhập quốc tịch
nước ngoài nên họ đã xin thôi quốc tịch Việt Nam. Trường hợp này, chúng ta không
thể trục xuất họ, dù theo quy định: hình phạt trục xuất có thể áp dụng đối với người
không quốc tịch, nhưng thực tế họ vẫn là người Việt Nam.
+ Thứ hai: Đối với người không có quốc tịch tại Việt Nam. Nếu như một cá
nhân là có quốc tịch của một quốc gia nào đó thì việc trục xuất rất dễ dàng, tuy
nhiên nếu một cá nhân không có quốc tịch thì trục xuất là một vấn đề khá khó.
7


Trong trường hợp này, nếu xác định được quốc gia cuối cùng họ ở trước khi họ đến
Việt Nam thì ta sẽ trả họ là quốc gia đó. Trường hợp không xác định được quốc gia
cuối cùng thi việc trục xuất không khả thi và sẽ không được áp dụng.
4. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Theo quy định tại điều 16 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi,
bổ sung năm 2007 và 2008), đây là một hình thức xử phạt bổ sung, nhằm tước bỏ có
thời hạn hoặc không thời hạn đối với việc sử dụng một quyền mà pháp luật đã trao
cho cá nhân, tổ chức. Trong thời hạn bị tước, chủ thể mất quyền thực hiện các hoạt

động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Hiện nay đây là một hình thức xử phạt rất hợp lí và cần thiết. Nó có hiệu quả
rất lớn trong xử phạt cũng như ngăn ngừa vi phạm hành chính, đặc biệt là trong lĩnh
vực liên quan đến kinh tế. Ví dụ: một nhà cửa kinh doanh thực phẩm không thực
hiện đúng các quy tắc để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm có thể bị tước giấy
phép kinh doanh. Điều này ảnh hưởng đến nguồn thu nhập chính của gia đình, do
vậy nó có hiệu quả rất lớn. Thời gian tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề được chia thành hai loại là có thời hạn và không thời hạn, tùy thuộc vào mức
độ vi phạm năng nhẹ khác nhau, do vậy cần có đường lối xử lí đúng đắn.
5. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Theo quy định tại điều 17 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi,
bổ sung năm 2007 và 2008) đây là hình thức xử phạt bổ sung. Hình thức xử phạt
này tước bỏ quyền sở hữu của người vi phạm đối với vật, tiền, hàng hóa, phương
tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính. Các tang vật, phương tiện này sẽ
được sung vào quỹ nhà nước, đối với những vật không có giá trị, không sử dụng
được hoặc gây hại sau khi tịch thu sẽ được đem đi tiêu hủy. Đây cũng là một hình
thức xử phạt vi phạm hành chính hợp lí và cần thiết. Vì ngoài mục đích xử phạt, việc
tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính còn nhằm loại
bỏ hoặc hạn chế khả năng tiếp tục vi phạm hành chính.
III. Đánh giá tính hợp lí của các biện pháp khắc phục hậu quả.
Các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định cụ thể từ điều 18 đến điều 21
của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008)
bao gồm tất cả 4 biện pháp, ngoài ra còn một biện pháp đặc biệt được quy định thêm
tại điểm đ khoản 3 điều 12 đó là: “Các biện pháp khác do Chính phủ quy định”.
Các biện pháp khắc phục hậu quả không mang tính trừng phạt mà chỉ nhằm khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính để lại trên thực tế hoặc ngăn chặn hậu quả có
thể xảy ra. Các biện pháp này có thể được áp dụng kèm theo quyết định xử phạt khi
còn thời hiệu xử phạt và thời hạn ra quyết định xử phạt. Khi hết thời hiệu hoặc thời
hạn thì chủ thể có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt, tuy nhiên vẫn có
quyền yêu cầu đối tượng vi phạm phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả.

1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
8


Việc khôi phục tình trạng ban đầu được hiểu là cá nhân, tổ chức đã thực hiện
hành vi vi phạm hành chính trực tiếp dẫn đến những thay đổi của sự việc, sự vật so
với tình trạng ban đầu, thì phải tự mình đưa sự vật nói trên trở lại trạng thái ban đầu
trước khi thực hiện vi phạm. Ví dụ: Cá nhân, tổ chức nào có hành vi tự ý phá dải
phân cách, gương cầu, các công trình, thiết bị an toàn giao thông trên đường bộ thì
sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng theo quy định tại khoản 5
điều 18 nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 2/04/2010. Ngoài ra, chủ thể vi phạm bị
buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm đó gây ra.
Việc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép áp dụng chủ yếu để khắc phục hậu
quả những vi phạm hành chính vi phạm trật tự quản lí nhà nước về xây dựng. Các
chủ thể vi phạm phải tự mình tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, trả lại hiện
trạng ban đầu như trước khi có vi phạm hành chính. Khi họ không tự tháo dỡ thì nhà
nước sẽ tiến hành cưỡng chế tháo dỡ và buộc họ phải thanh toán chi phí.
Ví dụ: chủ đầu tư nào có hành vi xây dựng bộ phận công trình, công trình trên đất
chưa chuyển đổi mục đích sử dụng thì sẽ bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000
đồng theo quy định tại khoản 1 điều 6 nghị định 126/2004/NĐ-CP ngày 25/4/2004.
Ngoài ra còn bị buộc tháo dỡ bộ phận công trình, công trình vi phạm.
2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây
lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra.
Chủ thể vi phạm hành chính phải đình chỉ ngay các hành vi vi phạm gây ô
nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc phục;
nếu chủ thể vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng
chế và phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Cần lưuý rang tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh có tính chất
nguy hiểm cao, ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống cộng đồng và môi trường sinh

thái chung. Mặt khác, phạm vi ảnh hưởng và lây lan nhanh và rộng, nếu không có
biện pháp ngăn chặn kịp thời, tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh có
thể gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Do vậy, theo điều 38 của Pháp lệnh
xử lí vi phạm hành chính thì: “Cá nhân, tổ chức bị áp dụng những biện pháp khắc
phục hậu quả phải thi hành các hình thức xử phạt đó trong thời hạn mười ngày sau
khi được giao quyết định xử phạt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp không thi hành sẽ bị cưỡng chế trong thời gian quy định”.
3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện.
Đây là một biện pháp rất cần thiết và được áp dụng chủ yếu trong quá trình xử
phạt cho các vi phạm hành chính trong lĩnh vực có liên quan đến việc xuất nhập khẩu
hoặc có hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt
Nam. Các hàng hóa, vật phẩm, phương tiện này được nhập khẩu trái phép sẽ bị buộc đưa
ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc những hàng hóa, vật phẩm, phương tiện là hàng tạm
nhập tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định thì sẽ buộc phải tái xuất.
9


Hiện nay, việc mở cửa thị trường, giao lưu thương mại giữa nước ta với các nước
khác ngày càng nhiều do vậy các hàng hóa, vật phẩm, phương tiện nguy hại sẽ được đưa
vào nước ta ngày càng nhiều, nếu không có những biện pháp cứng rắn thì chẳng mấy
chốc nước ta sẽ trở thành “bãi rác công nghiệp” của thế giới, khi mà các chất thải công
nghiệp độc hại được thải ra ở các nước công nghiệp phát triển không ngừng gia tăng, ví
dụ như: axit, các chất độc hóa học, các chất thải công nghiệp...
4. Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây
trồng, văn hoá phẩm độc hại.
Với mục đích bảo vệ những giá trị về sức khỏe, cuộc sống vật chất và những
giá trị về mặt tinh thần chung của cộng đồng biện pháp này chủ yếu được áp dụng
để khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến việc
kinh doanh những sản phẩm liên quan đến con người như thuốc chữa bệnh, thực

phẩm, văn hóa…Đây cũng là một biện pháp hết sức cần thiết, bởi vật phẩm gây hại
cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng có tính chất độc hại, trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ảnh hưởng không tốt tới môi trường sống, tới sức khỏe con người, vật
nuôi, cây trồng, có thể ảnh hưởng tới sự phát triển hoặc khiến con người, vật nuôi,
cây trồng bị bệnh hoặc bị chết. Do vậy cần thiết phải tiêu hủy.Ví dụ: việc tiêu hủy
các băng đĩa lậu, các văn hóa phẩm đồ trụy, đồ chơi bạo lực…Các vật phẩm này
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con người, làm suy thoái đạo đức, ảnh hưởng
tới sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ, do vậy cần phải tiêu hủy.
5. Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
Đây là các biện pháp áp dụng cho từng lĩnh vực cụ thể được chính phủ quy
định trong các văn bản khác nhau. Ví dụ như biện pháp cải chính thông tin khi có sự
nhầm lẫn hoặc cố tình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ…
6. Một số nhận xét, đánh giá về các biện pháp khắc phục hậu quả.
Các biện pháp được quy định khá cụ thể và hợp lí, giúp công tác đấu tranh phòng
chống vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng khá hiệu quả.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng còn nhiều khó khăn, vướng mắc:
+ Thứ nhất: biện pháp “Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi
do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép”
trên thực tế, biện pháp này khó áp dụng do sự trây ì của người dân. Khi cá nhân, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định xử phạt và buộc áp dụng biện pháp
khắc phục hậu quả, trong nhiều trường hợp người dân nộp tiền phạt nhưng kiên
quyết không chịu phá bỏ công trình đã xây dựng trái phép. Trong trường hợp này, có
thể xử lý theo hai hướng: một là cấp phép cho họ tiếp tục xây dựng (nếu trường hợp
vi phạm không quá nghiêm trọng như vượt xây vượt quá số tầng đã đăng kí…). Hai
là ra quyết định tháo dỡ công trình đó. Tuy nhiên việc tháo dỡ này không phải đơn
giản mà gặp rất nhiều khó khăn cũng như rủi ro. Cách giải quyết thứ nhất sẽ tạo ra
những tiền lệ xấu, cách giải quyết thứ hai lại tạo ra nhiều gánh nặng cho nhà nước.
Do vậy, để quản lí tốt, cần tăng cường quản lí, kiểm tra, giám sát, sẽ phát hiện
sai phạm ngay từ đầu thì việc xử phạt đơn giản hơn rất nhiều.
10



+ Thứ hai: trên thực tế việc thực hiện biện pháp “Buộc thực hiện các biện
pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành
chính gây ra” gặp nhiều khó khăn: Việc thanh tra, kiểm tra để phát hiện ra vi phạm
hành chính khiến ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh được tiến hành chưa tốt.
Chúng ta thường không phát hiện ra vi phạm ngay từ khi mới thực hiện, chỉ khi đã
gây hậu quả rất nghiêm trọng thì các cơ quan chức năng mới tiến hành điều tra làm
rõ và việc xử phạt còn chưa tương xứng với những hậu quả mà vi phạm đó gây ra.
Một số phương hướng hoàn thiện:
Cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, để việc áp dụng được thống nhất,
chính xác và thuận tiện nhất. Ví dụ: về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Các
hành vi vi phạm hành chính tại những nơi công cộng như: rạp hát, rạp chiếu phim,
bảo tàng, công viên…tuy được các nghị định của chính phủ quy định xử phạt (Nghị
định 73/2010/NĐ-CP ngày 01/09/2010…), hình thức xử phạt có thể là cảnh cáo,
phạt tiền…Tuy nhiên, thực tế hiện nay là rất ít người bị xử phạt vì những hành vi
như vậy. Lí do là thẩm quyền xử phạt không được quy định rộng rãi, do vậy các chủ
thể có thẩm quyền xử phạt không thể quản lí và xử phạt hết được, hơn nữa đó chỉ là
những hành vi rất nhỏ lẻ. Tuy nhiên những hành vi này đang phá vỡ các chuẩn mực
của xã hội, các quy tắc sống, các quy định của pháp luật. Vì vậy, cần quy định rộng
rãi những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Cần tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân sẽ giúp hạn chế được các vi
phạm từ đó sẽ hạn chế được các hậu quả mà hành vi vi phạm gây ra cho xã hội. bồi
dưỡng trình độ chuyên môn, kĩ năng nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán
bộ có chức năng quản lí hành chính nhà nước. Điều này sẽ giúp các quy định của
pháp luật được thực hiện một cách chính xác, thống nhất và tránh được các tiêu cực.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp khắc phục hậu quả, chúng ta có thể hiểu thêm những nét cơ bản về vấn đề này.
Bên cạnh tính hợp lí thì các hình thức xử phạt vi phạm hành chính cũng như các

biện pháp khắc phục hậu quả còn có một số điểm chưa thật sự hợp lí. Do vậy yêu
cầu bức thiết đặt ra đó là phải khắc phục được những điểm chưa hợp lí đó, từ đó
giúp cho công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm
pháp luật hành chính nói riêng đặt được hiệu quả cao nhất.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2007, 2008
2) Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005;
11


3) Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008)
4) Nghị định của Chính phủ số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002;
5) Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008
6) Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 2/04/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ
7) Nghị định 73/2010/NĐ-CP ngày 01/09/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
8) Nghị định 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
9) Nghị định 126/2004/NĐ-CP ngày 25/4/2004 của chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh hoạt động xây dựng, quản lí công trình hạ tầng đô thị và
quản lí sử dụng nhà.
11) Số chuyên đề về Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002, Tạp chí dân chủ
và pháp luật, số tháng 9/2002;
12) Đặc san về xử lí vi phạm hành chính, Tạp chí luật học, tháng 9/2003.

13) Bình luận khoa học Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002.

12



×