Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích và bình luận quy định pháp luật việt nam về thi hành và hủy phán quyết trọng tài (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.73 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, khi một tranh chấp thương mại xảy ra, các bên tranh chấp sẽ
lựa chọn nhiều phương thức giải quyết khác nhau, một trong những phương
thức đó là Trọng tài thương mại. Khi kết thúc quá trình tố tụng, Hội đồng
trọng tài sẽ đưa ra phán quyết có giá trị chung thẩm để giải quyết toàn bộ vụ
tranh chấp và buộc các bên phải thi hành. Hoạt động thi hành phán quyết
trọng cũng có một ý nghĩa quan trọng bởi nếu không được thi hành đầy đủ
trên thực tế sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đến dư luận, xa hơn nữa là môi trường
kinh doanh trong nước. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động của trọng tài
thương mại, thì pháp luật đã có những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối
với hoạt động trên, trong đó có quy định về vệc hủy quyết định quyết định
trọng tài nhằm hạn chế tối đa các sai sót trọng quá trình giải quyết tranh chấp
tại trọng tài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Với tầm quan trọng như vậy, trong bài viết dưới đây, em xin chọn đề tài
“Phân tích và bình luận quy định pháp luật Việt Nam về thi hành và hủy phán
quyết trọng tài”.
NỘI DUNG
I. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI
1. Các quy định về thi hành phán quyết trọng tài
Phán quyết Trọng tài thương mại (TTTM) là chung thẩm và không bị
kháng cáo, kháng nghị. Điều này có nghĩa là ngay sau khi Hội đồng trọng tài
công bố phán quyết trọng tài, các bên phải thi hành, trừ trường hợp các bên
làm đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Nhà nước khuyến khích các bên tự
nguyện thi hành phán quyết TTTM(1).
Theo quy định tại Điều 66 Luật TTTM 2010 thì khi “hết thời hạn tự
nguyện thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không
tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo quy
định tài Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng trọng tài
1


Điều 32, Luật TTTM 2010

1


có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán
quyết trọng tài”.
Như vậy, theo những quy định trên thì thi hành phán quyết trọng tài
được chia làm hai trường hợp:
Một là, bên phải thi hành phán quyết trọng tài tự nguyện thi hành;
Hai là, bên phải thi hành phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành
và cũng không yêu cầu hủy phán quyết.
1.1. Trường hợp bên phải thi hành phán quyết tự nguyện thi hành
phán quyết trọng tài
Khi nhận được phán quyết trọng tài, các bên thỏa thuận thống nhất thi
hành theo phán quyết, tức là các bên tự mình, không cần có sự can thiệp của
bất kỳ tổ chức, cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào, tự giác thi
hành phán quyết đó. Hành động tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài của
các bên trong phán quyết không chỉ là mong muốn của các bên tranh chấp và
các tổ chức trọng tài mà cũng phù hợp với chủ trương của Nhà nước trong
việc khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài.
1.2. Trường hợp bên phải thi hành phán quyết trọng tài không tự
nguyện thi hành phán quyết và cũng không yêu cầu hủy phán quyết
Trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành thì không còn cách
nào khác là Nhà nước phải dùng công cụ pháp luật để buộc phải thi hành phán
quyết.
Theo quy định tại Điều 67 Luật TTTM 2010 thì “phán quyết trọng tài
được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”. Những
vấn đề về chủ thể có quyền yêu cầu thi hành phán quyết, cơ quan có thẩm
quyền thi hành cũng như thủ tục thi hành được pháp luật về thi hành phán

quyết TTTM quy định chi tiết, cụ thể.
1.2.1. Thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài
Khoản 1 Điều 8 Luật TTTM 2010 quy định như sau:

2


“Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ
quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra
phán quyết”.
Cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan trực
thuộc Tổng cục THADS – Bộ tư pháp. Thẩm quyền thi hành án của Cơ quan
này được quy định tại Điều 35 của Luật THADS. Theo quy định tại Điểm d
Khoản 2 Điều 35 Luật THADS thì “quyết định của Trọng tài thương mại” là
một trong các bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành án của cơ quan
THADS cấp tỉnh. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật THADS thì:
“Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản
án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba
ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành
viên cao cấp”.
Như vậy, Chấp hành viên (CHV) là người được Nhà nước giao nhiệm
vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, CHV phải tuân theo pháp luật, chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
Như vậy, Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết TTTM
là cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có Hội đổng
trọng tài ra phán quyết, và CHV là người được giao nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài

Tại Khoản 1 Điều 66 Luật TTTM quy định như sau:
“Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán
quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng
tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết
trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền thi hành phán quyết trọng tài”.

3


Như vậy, theo quy định trên, bên được thi hành phán quyết trọng tài có
quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết
trọng tài. Điều kiện để bên được thi hành phán quyết trọng tài yêu cầu cơ
quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là: bên phải thi
hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài theo quy định của pháp luật. khi đó phán quyết trọng tài được
thi hành theo quy định của pháp luật về THADS.
1.2.3. Thủ tục thi hành phán quyết trọng tài
Khi phán quyết trọng tài được thi hành bởi cơ quan THADS thì quá
trình tổ chức thi hành phán quyết trọng tài phải tuân theo một trình tự, thủ tục
pháp lý được Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy
định rất chặt chẽ và cụ thể. Lúc này, phán quyết trọng tài được gọi chính bằng
thuật ngữ “án dân sự”.
Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được hiểu là các bước THADS do
cơ quan THADS có thẩm quyền thực hiện tính từ thời điểm cơ quan THADS
có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu thi hành án (THA) và ra quyết định THA
theo đơn yêu cầu của người THA đến khi thi hành xong toàn bộ nội dung án
dân sự và đưa hồ sơ THA và lưu trữ. Quá trình này được CHV cơ quan
THADS cấp tỉnh nơi Hội trong trọng tài ra phán quyết tổ chức thi hành. Trình
tự, thủ tục THA được tiến hành theo các bước sau:

* Đơn yêu cầu thi hành án
Người được THA có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm
quyền thi hành phán quyền trọng tài. Theo Điều 31 Luật THADS, đơn yêu
cầu THA phải có các nội dung chính sau: Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu;
Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; Họ, tên, địa chỉ của người được
thi hành án; người phải thi hành án; Nội dung yêu cầu thi hành án; Thông tin
về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Kèm theo
đơn yêu cầu thi hành án, phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và
tài liệu khác có liên quan (nếu có). Người yêu cầu THA có quyền yêu cầu cơ

4


quan THADS áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành theo quy định tại Điều 66
Luật THADS.
Sau khi hoàn chỉnh nội dung và hình thức đơn yêu cầu THA và các tài
liệu kèm theo, người được THA tự minh hoặc ủy quyền cho người khác yêu
cầu THA bằng một trong các hình thức sau: nộp đơn hoặc trực tiếp trình bày
bằng lời nói tại cơ quan THADS; gửi đơn qua đường bưu điện (Điều 32 Luật
THADS).
* Thụ lý hoặc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án
Khi nhận đơn yêu cầu THA, cơ quan THADS phải kiểm tra cụ thể nội
dung đơn và các tài liệu kèm theo. Nếu thấy thiếu các thông tin cần thiết thì
cơ quan THADS thông báo đề đương sự bổ dung nội dung đơn yêu cầu THA
trước khi ra quyết định THA.
Theo Điều 34 Luật THADS thì nếu thấy có căn cứ từ chối nhận đơn
yêu cầu THA thì cơ quan THADS sẽ không thụ lý đơn của người được THA,
gồm các trường hợp: người được THA không có quyền yêu cầu THA hoặc nội
dung đơn yêu cầu THA không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định;
cơ quan THADS được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành bản án, quyết

định; hết thời hiệu yêu cầu thi hành bản án, quyết định. Thời hạn yêu cầu
THA là 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người
được thi hành án, trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả
kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở
ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu
thi hành án(2). Cơ quan THADS từ chối nhận đơn yêu cầu THA phải thông báo
bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu THA.
Như vậy, nếu xét thấy đơn yêu cầu của người được THA đầy đủ nội
dung theo quy định của pháp luật và không thuộc các trường hợp từ chối nhận
đơn yêu cầu THA thì cơ quan THADS sẽ thụ lý đơn yêu cầu THA và ra quyết
định THA theo yêu cầu của người được THA.
* Ra quyết định thi hành án
2

Điều 30 Luật THADS

5


Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu THA, thủ
trưởng cơ quan THADS ra Quyết định THADS theo đơn yêu cầu (Điều 36
Luật THADS). Quyết định THA phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp (Điều 38 Luật THADS), đồng thời Quyết định THA và các văn bản
khác có liên quan đến việc THA phải được thông báo cho các đương sự,
người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức: Thông báo trực tiếp
hoặc quan cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật; Niêm
yết công khai (áp dụng trong trường hợp không rõ địa chỉ của người phải
THA); Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng (Điều 39 Luật
THADS).

* Tổ chức thi hành quyết định thi hành án
Quyết định THA có hiệu lực kể từ ngày ký. Trong thời hạn 2 ngày làm
việc, kể từ ngày ra Quyết định THA, Thủ trưởng cơ quan THADS phải phân
công CHV tổ chức thi hành Quyết định THA đó (Điều 36 Luật THADS).
CHV thông báo cho người phải THA thời hạn tự nguyên THA là 15
ngày, kể từ này người phải THA nhận được hoặc được thông báo hợp lệ
Quyết định THA. Song song với việc gửi quyết định THA và thông báo thời
hạn tự nguyện thi hành cho người phải THA, CHV thực hiện hoạt động xác
minh THA. Xác minh THADS là quá trình kiểm tra thực tế cho thấy người
phải THA điều kiện, hay nói cách khác là có khả năng THA hay không. Đây
là hoạt động quan trọng nhất và cũng xuyêt xuốt trong toàn bộ quá trình
THADS mà CHV phải thực hiện.
Thời hạn tự nguyện THA là 15 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận
được thông báo hợp lệ quyết định. Hết thời hạn trên, người phải THA có điều
kiện mà không tự nguyện THA thì bị cưỡng chế thi hành. CHV có thể áp dụng
một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế cũng một lúc trong số các biện pháp đã
được pháp luật THADS quy định.
* Kết thúc thi hành án

6


Quá trình THA được coi là đương nhiên kết thúc trong các trường hợp
quy định tại Điều 52 Luật THADS:
“1. Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình;
2. Có quyết định đình chỉ thi hành án;
3. Có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.”
2. Thực trạng áp dụng các quy định về thi hành phán quyết trọng
tài
1.1. Thực trạng

Từ khi Luật TTTM năm 2010 thay thế Pháp lệnh năm 2003, cùng với
đó là việc ban hành Luật THADS năm 2008 thì việc thi hành phán quyết
TTTM đã có những chuyển biến tích cực, việc thi hành phán quyết TTTM đã
có nhiều cơ sở pháp lý đảm bảo hơn cho việc thi hành trên thực tế.Mặc dù
vậy, về cơ bản thì hoạt động thi hành phán quyết trọng tài trên thực tế là
không nhiều, không cao.
Theo số liệu thống kế kết quả thi hành án dân sự của Cục THADS
thành phố Hồ Chí Minh(3) thì:
Năm 2010: có tổng số 739 việc kinh tế phải thi hành tương ứng với số
tiền 2 nghìn 252 tỷ 945 triệu 637 nghìn đồng, trong đó có 329 việc có điều
kiện thi hành (chiếm tỉ lệ 44$ tổng số án phải thi hành) tương ứng 963 tỷ 532
triệu 693 nghìn đồng (chiếm tỷ lệ 43% số tiền phải thi hành). Cục đã thi hành
xong 213 việc (chiếm tỉ lệ 64% /số việc có điều kiện thi hành) tương ứng 717
tỷ 794 triệu 727 nghìn đồng (chiếm tỉ lệ 74%/số tiền có điều kiện thi hành).
Trong số án kinh tế phải thi hành, có 7 phán quyết trọng tài (chiếm tỉ lệ
0,09%/tổng số án kinh tế phải thi hành) tương ứng 3 tỷ 191 triệu 669 nghìn
840 đồng và 120 nghìn 304 USD (chiếm tỉ lệ 0,03%/tổng số tiền kinh tế phải
thi hành). Cục THADS thành phố thi hành xong 3 việc (chiếm tỉ lệ 42%/tổng
số việc phải thi hành), tương ứng số tiền 375 triệu 302 nghìn 939 đồng.
Năm 2011 có tổng cộng 1693 việc kinh tế phải thi hành tương ứng với
số tiền 2 nghìn 034 tỷ 413 triệu 552 nghìn đồng, trong đó có 813 việc có điều
3

Nguyễn Mạnh Cường, Pháp luật về thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại ở Việt Nam – một số vấn
đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, năm 2012.

7


kiện thì hành (chiếm tỉ lệ 48%/tổng số án phải thi hành) tương ứng 912 tỷ 756

triệu 073 nghìn đòng (Chiếm tỉ lệ 49%/tổng số tiền phải thi hành). Cục đã thi
hành xong 460 việc (chiếm tỉ lệ 56%/số việc có điều kiện thi hành) tương ứng
540 tỷ 208 triệu 389 nghìn đồng (chiếm tỉ lệ 59%/số tiền có điều kiện thi
hành).
Trong số án kinh tế phải thi hành, có 10 phán quyết trọng tài (chiếm tỉ
lệ 0,05%/tổng số án kinh tế phải thi hành) tương ứng 75 tỷ 830 triệu 257
nghìn 089 đồng và 1 triệu 808 nghìn 772 USD (chiếm tỉ lệ 5%/tổng số tiền
kinh tế phải thi hành. Cục THADS Thành phố thi hành xong 4 việc (chiếm tỉ
lệ 40%/tổng số việc phải thi hành) tương ứng với số tiền 1 tỷ 124 triệu 929
nghìn 911 đồng (chiếm tỉ lệ 0,1%/tổng số tiền phải thi hành.
Số liệu thông kê tại thành phố Hồ Chí Minh – địa phương thu lý thi
hành phán quyết trọng tài nhiều nhất cả nước, đã phản ánh rõ nét sự “ảm
đảm” trong việc tổ chức thi hành loại vụ việc này. Những con số trên cho thấy
rằng, việc các doanh nghiệp lựa chon TTTM làm phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại là rất ít và việc thi hành phán quyết trọng tài cũng chưa
thực sự đạt hiệu quả.
1.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, có thể kể đến các
nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với
các Luật chuyên ngành khác còn bộc lộ một số khiếm khuyết do chưa cụ thể,
chưa phù hợp với thực tế, thiếu thống nhất với pháp luật có liên quan.
Thứ hai, công tác tuyên truyền Luật THADS, Luật TTTM, các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa thường xuyên, phong phú, đa dạng, do đó, nhiều
doanh nghiệp, đương sự chưa biết và hiểu biết về TTTM, hoạt động của
TTTM cũng như công tác thi hành phán quyết TTTM.
Thứ ba, ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của một số cá nhân liên quan
đến việc THA còn yếu, nhất là người phải thi hành án.
3. Giải pháp
8



Để khắc phục những hạn chế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thi
hành phán quyết TTTM có hiệu quả, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung pháp luật về thi hành phán quyết TTTM trên
cơ sở thống nhất với các văn bản pháp luật có liên quan, phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đồng thời có các biện pháp
mạnh đối với các trường hợp không chịu thi hành, trốn tránh nghĩa vụ thi
hành phán quyết trọng tài.
Ba là, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ CHV, đảm bảo đội ngũ
này có đầy đủ phương tiện và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động THADS
nói chung và thi hành phán quyết trọng tài nói riêng.
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI
1. Các quy định về hủy phán quyết trọng tài
Hủy phán quyết trọng tài được hiểu là việc Tòa án không thừa nhận
hiệu lực pháp lý của phán quyết trọng tài do những vi phạm pháp luật (chủ
yếu về thủ tục). Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có
thủ tục phúc thẩm, giám đóc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo
rằng quyết định giải quyết tranh chấp trọng tài luôn đúng về mọi phương diện.
Điều 69 Luật TTTM quy định:
“1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài,
nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra
phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68
của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ
phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo
các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có
căn cứ và hợp pháp.
2. Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian

có sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài”.
9


Thủ tục hủy quyết định trọng tài của Tòa án không phải là thủ tục xét
xử lại vụ kiện, không giống như thủ tục phúc thẩm trong tố tụng dân sự. Luật
TTTM 2010 đã quy định một cách cụ thể về vấn đề hủy quyết định trọng tài :
căn cứ hủy quyết định trọng tài (Điều 68); quyền yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài (Điều 69); đơn phương yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (Điều 70) ;
Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (Điều 71). Khi xem xét việc
hủy phán quyết trọng tài, còn có sự tham gia của Viện kiểm sát với tu các là
cơ quan giám sát hoạt động tố tụng của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động
trọng tài. Khi nhận được đơn yêu cần hủy quyết định trọng tài đối với vụ
tranh chấp đã được trọng tài giải quyết, Tòa án chỉ đối chiếu với các trường
hợp hủy quyết định trọng tài quy định tại Điều 68 LTM 2012 để ra quyết định.
Đó là các trường hợp:
“a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù
hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;
trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó
để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công
bằng của phán quyết trọng tài;
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam”.
Nếu như bên yêu cầu chứng minh được quyết định trọng tài đã tuyên

thuộc một trong các trường hợp trên thì Tòa án sẽ quyết định hủy quyết định
trọng tài. Với trường hợp quy đinh tại điểm đ khản 2 Điều 68 thì Tòa án sẽ có
trách nhiệm chủ động xác minh, thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay
không hủy quyết định trọng tài. Quy định này góp phần khắc phục những sai
phạm (nếu có) của Hội đồng trọng tài khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ
10


giải quyết tranh chấp được giải quyết thực sự khách quan, công bằng, đúng
pháp luật. Nếu phán quyết không bị tuyên hủy thì phán quyết trọng tài đó là
đúng pháp luật, cần được các bên tôn trọng và tự nguyên thi hành hoặc cưỡng
chế thi hành.
Quyết định của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
Đây là một chế định quan trọng của LTTTM nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự khi đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài.
Khác với Pháp lệnh TTTM 2003, thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài theo luật TTTM 2010 chỉ có một cấp và có giái trị chung
thẩm. Luật quy định một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán xem xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài và quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu
lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71). Quy định này thay thế cho các quy
định bất hợp lý tại Điều 55, 56 của Pháp lệnh TTTM 2003.
Quy định về cách thức, điều kiện, trình tự, thủ tục hủy phán quyết trọng
tài của LTTTM năm 2010 hoàn thiện hơn rất nhiều so với quy định của Pháp
lệnh TTTM năm 2003.
PLTTTM 2003 quy định điều kiện yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
khá dễ dàng. Tranh chấp là một vấn đề phức tạp, khi các bên không thể tự giải
quyết được mới đưa trọng tài để giải quyết. Do vậy, phán quyết của trọng tài
khó có thể thỏa mãn được cả hai bên. Trong khi đó, Pháp lệnh chỉ cần điều
kiện một bên “không đồng ý với quyết định trọng tài” thì có quyền làm đơn
yêu cầu hủy. Điều này vô hình chung đã khuyên khích các bên làm đơn yêu

cầu hủy phán quyết trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là để kéo
dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, tẩu tán tài sản. Pháp lệnh cũng
không yêu cầu làm đơn kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu hủy phán quyết phải có căn cứ hợp pháp. Với quy định như vậy đã làm
cho phán quyết trọng tài có tính chất như một bản án sơ thẩm, mất đi ưu điểm
của phương thức giải quyết trọng tài. LTTTM 2010 đã khắc phục hạn chế này.
Sự bổ sung này là hoàn toàn phù hợp, bảo đảm cho việc gửi đơn yêu cầu phải
được tiến hành nghiêm túc, dựa trên những căn cứ xác đáng, tránh tình trạng
11


gửi đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài với tâm trạng “cầu may” của bên
không đồng ý với quyết định trọng tài như trước khi.
LTTTM 2010 đã sửa căn cứ “quyết định của trọng tài trái với lợi ích
công cộng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam”, một căn cứ rất
trừa tượng nên rất khó áp dụng trong thực tiễn, thành “phán quyết trọng tài
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam đã được quy định rất rõ trong Hiến pháp 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các văn bản pháp luật khác, là những cơ sở
pháp lý vững chắc để Tòa án áp dụng quy định này.
Việc có sự hỗ trợ của Tòa án hủy quyết định trọng tài đối với những
phán quyết vi phạm pháp luật của Trọng tài thương mại giúp cho các nhà kinh
doanh yên tâm hơn khi lựa chọn Trọng tài là phương thức giải quyết tranh
chấp, vì khi Trọng tài có sự vi phạm pháp luật Tòa sẽ giúp đỡ họ. Quy định
này góp phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động xét xử của Trọng tài viên,
làm cho họ phải khách quan, vô tư trong khi giải quyết tranh chấp.
2. Thực trạng hủy phán quyết trọng tài
2.1. Thực trạng
Trong giai đoạn 2003-2013, số vụ tranh chấp có đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài chiếm 12% thì 34% trong số đó bị hủy. Khi Luật trọng tài

thương mại có hiệu lực từ 1.1.2011 thì chỉ trong gần 3 năm (2011-2013) đã có
tới 36% số phán quyết trọng tài bị hủy(4).
Nhiều ý kiến về thực trạng và đề xuất, kiến nghị liên quan đến hủy
phán quyết trọng tài đã được đưa ra tại “Hội thảo về việc hủy phán quyết
trọng tài, công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam"
do VIAC phối hợp Bộ Tư pháp và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam tổ chức sáng 18/10/2013 tại Hà Nội.
Thống kê sơ bộ của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) cho
thấy từ năm 2006 đến 2011 chỉ có khoảng 3 phán quyết Trọng tài (PQTT) bị
Toà án tuyên huỷ. Thế nhưng từ khi Luật Trọng tài thương mại chính thức có
4

/>
12


hiệu lực (từ 1/1/2011) tỷ lệ PQTT bị hủy bỗng nhiên tăng vọt với 4 PQTT bị
tuyên hủy. Thậm chí, chỉ trong tháng 11 năm 2012 vừa qua, có tới 3 PQTT bị
huỷ, tỷ lệ PQTT bị hủy trong vòng 1 năm đã bằng tổng số 8 năm về trước (5)
(xem thêm phần Phụ lục).
Lý do Tòa hủy PQTT khá tùy tiện. Theo tìm hiểu về việc hủy PQTT
của 4 vụ mới nhất (từ 2011 tới nay) cho thấy có những PQTT bị hủy chỉ vì
Hội đồng Trọng tài dùng ngôn từ mang tính chất “thân thiện”. Theo đó, Hội
đồng Trọng tài gửi thông báo mời các bên đến dự phiên họp giải quyết tranh
chấp. Mặc dù thông báo này nêu rõ thời gian và địa điểm tổ chức phiên họp,
được gửi hợp lệ đến các bên tranh chấp nhưng Toà lại tuyên hủy PQTT với lý
do thông báo của Hội đồng Trọng tài không ghi chữ “triệu tập”, chỉ ghi là
“mời” nên các bên có thể đến hoặc không đến.
Một số PQTT khác bị hủy với lý do khiến người trong cuộc cũng phải
ngỡ ngàng. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 81 Luật Trọng tài thương mại

2010, đối với các thoả thuận trọng tài ký trước ngày luật có hiệu lực thì áp
dụng pháp luật tại thời điểm ký thoả thuận trọng tài. Tuân thủ quy định này,
các Hội đồng Trọng tài đã áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đối
với các vụ kiện có thoả thuận trọng tài ký trước ngày Luật Trọng tài có hiệu
lực. Tuy nhiên, Toà đã tuyên huỷ các PQTT này với lý do Hội đồng Trọng tài
không áp dụng các quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 vì Phán
quyết được tuyên tại thời điểm Luật Trọng tài thương mại 2010 đã có hiệu
lực.
Cũng liên quan tới việc áp dụng luật, Hội đồng Trọng tài không triệu
tập người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vì quá trình tố tụng trọng tài chỉ
ràng buộc đối với các bên ký thoả thuận trọng tài. Trọng tố tụng trọng tài
không có khái niệm người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như trong tố
tụng Toà án. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền triệu tập người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thế nhưng có những PQTT bị hủy chỉ với lý

5

/>
13


do Hội đồng trọng tài đã không triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan.
VIAC cho biết thực tế số PQTT bị hủy có thể nhiều hơn con số thống
kê với một số PQTT bị hủy mà VIAC cũng không biết vì Toà án thông báo
cho dù Luật Trọng tài 2010 quy định việc gửi Quyết định huỷ hoặc không huỷ
PQTT phải được gửi cho các Trung tâm trọng tài sau 05 ngày Tòa ra quyết
định.
Tình trạng PQTT bị hủy với số lượng lớn, lý do hủy thiếu thuyết phục
sẽ làm cho các vụ kiện ngày một gia tăng, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.

Ngoài ra, điều này còn khiến cho doanh nghiệp không chọn phương pháp giải
quyết bằng Trọng tài khi có tranh chấp, theo như nhận định của ông Trần Hữu
Huỳnh – Chủ tịch VIAC: “Chỉ cần 1 phán quyết trọng tài bị hủy thì cộng
đồng doanh nghiệp sẽ e ngại có nên chọn trọng tài Việt Nam hay không, và
ngược lại. Do đó, vấn đề hủy phán quyết trọng tài cần được xem xét toàn diện
và khắc phục”.
2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, có một số quy định bất cập. Chẳng hạn, về việc Hội đồng
trọng tài có thẩm quyền xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, xem xét
thẩm quyền của chính Hội đồng trọng tài, xem xét thỏa thuận trọng tài có thể
thực hiện được hay không có phần không hợp lý. Bởi nếu Hội đồng trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, vụ tranh chấp không có thỏa
thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được thì
việc thành lập một Hội đồng trọng tài để xem xét thỏa thuận và ra quyết định
đình chỉ vụ việc trong trường hợp này là không hợp lý.
Thứ hai, đó là chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về vấn đề trên, về sự
hỗ trợ của Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương
mại.
Thứ ba, có sự áp dụng luật không thống nhất của Tòa án trọng việc hủy
phán quyết trọng tài, vận dụng các quy định của tố tụng dân sự làm cơ sở

14


nhận định phán quyết của Trọng tài thương mại, can thiệp quá sâu vào nội
dung giải quyết của Trọng tài.
3. Giải pháp
Đối với vấn đề này, cần tiến hành một số giải pháp sau:
Một là, Tòa án nhân dân tối cao cần nhanh chóng ban hành Nghị quyết
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM 2010. Trong đó quy định rõ

các căn cứ để Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Chẳng hạn, phân biệt hai loại
vi phạm của Hội đồng trọng tài: Vi phạm nghiêm trọng và vi phạm không
nghiêm trọng và chỉ vi phạm có tính nghiêm trọng mới là căn cứ để hủy phán
quyết trọng tài. Điều đó có nghĩa là những vi phạm nhỏ (không nghiêm trọng)
thì không bị hủy.
Hai là, Tòa án nhân dân tối cao cần có bộ phận theo dõi việc hủy phán
quyết trọng tài; Các tòa địa phương có thẩm phán chuyên sâu giải quyết các
vấn đề liên quan đến trọng tài.
Ba là, cần có quy định buộc bên “lạm dụng” quyền yêu cầu tòa án bồi
thường thiệt hại phát sinh từ việc lạm dụng này. Cụ thể, có thể buộc bên yêu
cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc chậm thi hành phán quyết nếu họ
lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
KẾT LUẬN
Qua bài viết trên, có thể thấy hoạt động thi hành và hủy phán quyết
trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong đời sống. Đảm bảo được hai hoạt động
trên diễn ra đúng pháp luật, có hiệu quả trong thực tiễn giúp cho việc giải
quyết các tranh chấp thương mại một cách nhanh chóng và đạt kết quả tốt,
khắc phục được những hạn chế đang tồn tại.

15



×