Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích, đánh giá quá trình việt nam đàm phán, kí kết, gia nhập và thực hiện một số công ước quốc tế đa phương tòan cầu (sinh viên lựa chọn 2 or 3 c

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.59 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

ĐỀ BÀI
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
Công ước quốc tế đa phương toàn cầu là gì?
II.

Công ước Luật Biển năm 1982

Trang
2
3
3
3

1.

Vài nét về Công ước Luật Biển năm 1982

3

2.

Quá trình Việt Nam đàm phán, ký kết, gia nhập Công ước

4

Luật Biển 1982
3.


III.

Quá trình Việt Nam thực hiện Công ước Luật Biển 1982

Công ước về phòng chống ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78)
1.

Vài nét về Công ước về phòng chống ô nhiễm từ tàu

4
6
6

(MARPOL 73/78)
2.

Quá trình Việt Nam đàm phán, ký kết, gia nhập Công ước

7

MARPOL 73/78
3.
Quá trình Việt Nam thực hiện Công ước MARPOL 73/78

7

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

9

10

ĐỀ BÀI
Phân tích, đánh giá quá trình Việt Nam đàm phán, kí kết, gia nhập và
thực hiện một số công ước quốc tế đa phương tòan cầu (sinh viên lựa chọn 2 or
3 công ước trong cùng một lĩnh vực để phân tích).
1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Xu thế chung của thế giới hiện nay là liên kết chặt chẽ, hợp tác để cùng
phát triển, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài xu thế ấy. Việt Nam đã tham
gia đàm phán, ký kết, thực hiện rất nhiều những Công ước quốc tế đa phương
toàn cầu trên các lĩnh vực. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong phạm vi bài
2


tập lớn của mình em xin được đi vào phân tích đánh giá quá trình Việt Nam
đàm phán, kí kết, gia nhập và thực hiện một số công ước quốc tế đa phương
tòan cầu trong lĩnh vực biển cả.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Công ước quốc tế đa phương toàn cầu là gì?

Công ước quốc tế đa phương toàn cầu có thể hiểu là Công ước quốc tế
được ký kết bởi nhiều bên chủ thể của Luật Quốc tế quy định về một vấn đề,
lĩnh vực nào đó, có hiệu lực ở nhiều nơi trên thế giới.
II.


Công ước Luật Biển năm 1982:
1. Vài nét về Công ước Luật Biển năm 1982:

Công ước Luật Biển được 107 quốc gia cùng ký kết tại Montego Bay,
Jamaica. Sự ra đời của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982
(Công ước Luật Biển 1982) đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng
đồng quốc tế về một chuẩn mực pháp lý quốc tế công bằng mang tính toàn cầu
đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển. Công ước Luật Biển năm 1982 không chỉ quy định về
quyền, nghĩa vụ của quốc gia ven biển mà còn đề cập đến quyền được tiếp cận
với biển của các quốc gia không có biển, do vậy Công ước Luật Biển năm
1982 được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp
nhận. Nội dung của Công ước Luật Biển năm 1982 đề cập toàn diện đến các
lĩnh vực biển, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước
công nghiệp phát triển hay nước đang phát triển, dù là nước nhỏ hay nước lớn,
dù là nước có biển hay không có biển.
2. Quá trình Việt Nam đàm phán, ký kết, gia nhập Công
ước Luật Biển 1982:
3


Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, Việt Nam có
nhiều lợi ích lớn gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả,
Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng Công ước
Luật Biển năm 1982.
Việt Nam là quốc gia tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc
về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica. Ngay sau khi Công ước Luật Biển
năm 1982 được thông qua, ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc
gia tham gia ký Công ước. Trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994,

Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan
trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước
của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý
công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.
Như vậy, Việt Nam là 1 trong 107 quốc gia ký Công ước Luật Biển
1982. Hành động này đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Việt Nam với vấn đề
biển đảo.
3. Quá trình Việt Nam thực hiện Công ước Luật Biển 1982:
Vận dụng các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam
đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công
tác quản lý biển và các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn
định trong khu vực và trên thế giới. Ngày 21/6/2012, Quốc hội Việt Nam đã
thông qua Luật biển Việt Nam. Luật Biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở
các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, có tham khảo các thông lệ
quốc tế và thực tiễn của các nước. Với việc thông qua Luật biển, Việt Nam đã
làm cho các quy định của luật pháp về biển của mình hài hoà với các quy định
của Công ước Luật Biển năm 1982.
Trước đó, ngày 14/6/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật
hàng hải Việt Nam sửa đổi, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006, điều chỉnh các
4


hoạt động giao thông hàng hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt
Nam. Ngoài ra, Việt Nam đã thông qua một số bộ luật khác liên quan đến quản
lý và sử dụng biển như Luật Dầu khí (1993), Luật Tài nguyên nước (1998),
Luật Bảo vệ môi trường (1993), Luật Biên giới quốc gia (2003), Luật Thủy sản
(2004) và nhiều pháp lệnh, nghị định khác.
Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Việt Nam

đã và đang tiến hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế
biển trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển
kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Chính phủ Việt Nam luôn bảo
vệ những lợi ích hợp pháp của các đối tác nước ngoài trong hợp tác kinh tế,
quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển phù hợp với các quy định của
Công ước Luật Biển năm 1982.
Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng
có hiệu quả Công ước Luật Biển năm 1982 giải quyết các tranh chấp về phân
định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng
để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể là: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định
về Phân định biển ngày 09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định về Phân định
Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày
25/12/2000,…..
Căn cứ vào khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công ước Luật
Biển năm 1982, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các bên hữu quan tiến hành hợp
tác cùng phát triển ở những khu vực thực sự có tranh chấp, phù hợp với các
quy định của Công ước Luật Biển năm 1982.
Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ
chế quốc tế được thành lập theo Công ước Luật Biển năm 1982. Việt Nam là
thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương và đã
từng được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về
đáy đại dương. Việt Nam tham gia đầy đủ các Hội nghị của các quốc gia thành
viên Công ước Luật Biển năm 1982 được tổ chức hàng năm tại Đại hội đồng
5


Liên hợp quốc và luôn có những đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy thực thi
hiệu quả Công ước.
Như vậy, ta có thể thấy, bằng những hoạt động thiết thực của mình,

Việt Nam đã và đang thực hiện tốt Công ước Luật Biển năm 1982, góp phần
bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, duy trì hòa bình, ổn định khu vực và trên thế
giới.
III. Công ước về phòng chống ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78):
1. Vài nét về Công ước về phòng chống ô nhiễm từ tàu
(MARPOL 73/78)
Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78) ra
đời năm 1973, đây là bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới, đã được
thông qua tại Hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển, do Tổ chức hàng hải quốc tế
(IMO) triệu tập từ ngày 8/10 đến 2/12/1973. Năm 1978, Công ước 1973 được
sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định thư 1978 kèm thêm 5 phụ lục mới, chính thức
được gọi tắt là MARPOL 73/78.
Công ước đề ra những quy định nhằm ngăn chặn những vụ ô nhiễm
gây ra bởi tai nạn hoặc trong quá trình vận chuyển hàng hóa là dầu, hàng nguy
hiểm, độc hại bằng tàu, do nước thải, rác và khí thải từ tàu. Công ước cũng đưa
ra những yêu cầu lưu giữ, xử lý và thải những vật liệu đó cũng như yêu cầu về
quy trình báo cáo những vụ tràn dầu, chất độc hại cũng như quy định những
khu vực đặc biệt khi tàu hoạt động trong đó phải bắt buộc tuân thủ theo những
tiêu chuẩn thải nhất định. Công ước đã ban hành các quy định thể hiện những
nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường từ tàu, nhất là những
hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm vận tải đường biển.
2. Quá trình Việt Nam đàm phán, ký kết, gia nhập Công ước
MARPOL 73/78:
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về Công ước, và chuẩn bị
những cơ sở vật chất cần có, Việt Nam đã tiến hành đàm phán trong một thời
6


gian dài để được ký kết Công ước này. Sau khi nhận được sự chấp thuận, Việt
Nam đã chính thức ký kết gia nhập Công ước này năm 1990.

3. Quá trình Việt Nam thực hiện Công ước MARPOL 73/78:
Việt Nam đã tham gia Công ước MARPOL 73/78 nên Việt Nam cũng
phải thực hiện đầy đủ các biện pháp về phòng ngừa ô nhiễm biển từ tàu do
Công ước quy định: Thực hiện lồng ghép vấn đề bảo vệ môi trường ngay từ
khâu đóng tàu, thực hiện các quy định về ghi chép Nhật ký dầu, các cảng biển
đã tiến hành các hoạt động thu gom rác thải, chất thải và một số cảng đã có
trang thiết bị xử lý chất thải, quản lý chất thải từ tàu biển hoạt động tị các cảng
biển.
a. Thành tựu:
Nhằm đưa nội dung của Công ước MARPOL 73/78 vào cuộc sống,
chúng ta đã tiến hành công tác nội luật hóa, xây dựng pháp luật và quy chế
thích hợp, tổ chức bộ máy thực hiện, tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức
chung, tăng cường tiềm lực, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, kết hợp với
các chương trình kinh tế - xã hội và phát triển hợp tác quốc tế.
Cụ thể, trong thời gian vừa qua, chúng ta đã ban hành, sửa đổi, bổ sung
nhiều dự án luật quan trọng liên quan đến vấn đề BVMTB như: Luật BVMT
năm 2005, Bộ luật Hàng hải năm 2005, Luật Dầu khí, Luật Thủy sản 2003...
Đặc biệt, một số tội phạm liên quan đến môi trường lần đầu tiên đã được quy
định trong Bộ luật Hình sự 1999 của Việt Nam như tội gây ô nhiễm không khí
(Điều 182), tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183), tội hủy hoại nguồn lợi
thủy sản (Điều 188), áp dụng cho tất cả các tội phạm xảy ra trên lãnh thổ cũng
như trên các vùng biển Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng tiến hành tuyên truyền, phổ biến các quy
định của Công ước; tổ chức các hội nghị, hội thảo để triển khai thực hiện và
đánh giá kết quả thực hiện sau từng giai đoạn nhất định; tổ chức thực hiện trực
tiếp những quy định của Công ước phù hợp với điều kiện thực tế của Việt
Nam. Đồng thời, tiến hành rà soát kiểm tra đội tàu biển, loại bỏ các tàu không
7



đủ tiêu chuẩn ra khỏi đội tàu biển Việt Nam; chỉ đăng ký mới các tàu dưới 15
tuổi, tiến hành cấp Giấy chứng nhận ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, Giấy
chứng nhận bảo hiểm hoặc bảo đảm tài chính về trách nhiệm dân sự đối với
tổn thất ô nhiễm dầu; yêu cầu các tàu phải lắp đặt đủ hệ thống lọc dầu, các hệ
thống an toàn...; hợp tác với các tổ chức quốc tế, khu vực tiến hành nhiều
chương trình, nhiều dự án thực hiện khảo sát, nghiên cứu như Cơ quan điều
phối các biển Đông Á (gọi tắt là COBSEA), Chương trình hợp tác khu vực
trong quản lý môi trường các biển Đông Á (gọi tắt là PEMSEA), Chương trình
hành động toàn cầu về BVMTB từ các hoạt động trên đất liền trong khu vực
biển Đông Á (GEF/UNEP), Dự án Việt Nam - Hà Lan về quản lý tổng hợp dải
ven bờ (VNICZM), xây dựng bản đồ các vùng nhạy cảm sự cố tràn dầu
(NAUY);…
b. Hạn chế:
Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả nhất định
trong việc thực hiện các công ước quốc tế về BVMTB nhưng trong lĩnh vực
này Việt Nam vẫn còn có những hạn chế nhất định, như công tác tuyên truyền
thực hiện một số Công ước còn chậm, hiệu quả thấp. Sau 15 năm gia nhập
MARPOL, đến nay Việt Nam chưa có một văn bản pháp quy nào và cũng chưa
có cảng nào trang bị hệ thống tiếp nhận nước thải lẫn dầu, cặn dầu từ các tàu
như quy định của Công ước.
Một số điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết với các
nước trong khu vực chưa thực sự quan tâm đến vấn đề phòng chống ô nhiễm
môi trường biển.
Các quy phạm pháp luật về phòng ngừa, xử lý và khắc phục ô nhiễm
biển chưa được nâng tầm thành một đạo luật mà chủ yếu là được ban hành
dưới dạng các văn bản dưới luật (các thông tư, quy chế do các Bộ, ngành ban
hành).
Như vậy, mặc dù tuy vẫn còn một vài hạn chế cần phải khắc phục nhưng nhìn
chung Việt Nam đã thực hiện khá tốt Công ước MARPOL 73/78 trong thực tế.
c. Giải pháp:

8


Thứ nhất, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về
phòng chống ô nhiễm biển tương xứng, có nội dung đầy đủ, cụ thể, có các chế
tài nghiêm khắc
Thứ hai, cần nâng cao năng lực thực thi pháp luật cũng như năng lực
quản lý.
Thứ ba, cần xây dựng một chiến lược khả thi về bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển trong sạch và bền vững, dựa trên cơ sở “sử dụng và khai thác” phải đi
cùng với “gìn giữ và tái tạo”, sau đó mới xác định việc đầu tư cơ sở vật chất,
nhân lực được huấn luyện đào tạo và công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất
kinh doanh.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường biển.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Không chỉ tham gia đàm phán, kí kết, gia nhập và thực hiện một số
công ước quốc tế đa phương tòan cầu trong lĩnh vực biển cả, với vị thế ngày
càng được khẳng định của mình trên trường quốc tế, Việt Nam đã và đang
tham gia vào rất nhiều công ước quốc tế khác trên mọi lĩnh vực.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Công ước Luật Biển năm 1982.

-

Công ước về phòng chống ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78).

-


/>
%C6%B0%E1%BB%9Bc-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/16137-bao-caotinh-hinh-thuc-thi-cong-uoc-marpol-73-78-o-viet-nam
9


-

/>
sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&ved=0CC8QFjAB&url=http
%3A%2F%2Fdl.vnu.edu.vn%2Fbitstream
%2F11126%2F4304%2F1%2F00050001853.pdf&ei=y0OKUpf8HKHT2wX7
wYG4Dw&usg=AFQjCNH8g0q88XdBg0kwNjJchCZOfXjztQ&bvm=bv.566
43336,d.b2I&cad=rja
-

/>
page=lawtreaties&tab=duvn

10



×