Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.69 KB, 27 trang )

V&KHPL số 03: Sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
26.03.2013 13:12
Một trong những vấn đề quan trọng được nghiên cứu
trong Tư pháp quốc tế là có cần thiết phải áp dụng pháp
luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài hay không và trong những trường hợp nào thì
cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật nước ngoài.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài là cần thiết trong các trường hợp khi quy phạm
xung đột của pháp luật quốc gia hoặc quy phạm xung đột trong các điều ước quốc
tế mà quốc gia là thành viên dẫn chiếu đến luật nước ngoài đó hoặc theo sự thỏa
thuận của các bên. Tuy nhiên pháp luật các nước thường quy định các điều kiện cụ
thể để luật nước ngoài có thể áp dụng.
Tại Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài hiện nay được quy định tại
cácĐiều 759 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 5 Luật Thương mại năm 2005,
Điều 4 Bộ luật hàng hải năm 2005, Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, Điều 5 Luật Đầu tư năm 2005 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Theo các quy định trên thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ được cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam áp dụng trong các trường hợp các văn bản của Việt Nam
hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp
luật nước ngoài hoặc trong các trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng,
nếu sự thỏa thuận đó không trái với pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng tòa án Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật
quốc gia khác để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra việc
áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp.
I. Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam.
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang ngày
càng được đẩy cho nên việc áp dụng pháp luật nước ngoài là một nhu cầu khách
quan không thể tránh khỏi ở tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và


thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.


Mặc dù việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc dân sự theo
nghĩa rộng cóyếu tố nước ngoài là một trong những hoạt động diễn ra từ rất lâu và
rất phổ biến trên thế giới, và mặc dù pháp luật Việt Nam đã có rất nhiều quy định
cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết những vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài trong những trường hợp nhất định với những nguyên tắc nhất định
nhưng đây vẫn là một hoạt động hoàn toàn mới mẻ đối với các tòa án. Thực tế việc
các tòa án của Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong quá trình giải quyết
một vụ án dân sự là rất hạn hữu, do đó việc tích lũy kinh nghiệm hoạt động áp
dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là
hoàn toàn chưa có.
Trong lĩnh vực tố tụng trọng tài, Điều 49 khoản 5 Pháp lệnh Trọng tài năm
2003quy định: “Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật theo quy định tại
khoản 2 Điều 7 của Pháp lệnh này, tập quán thương mại quốc tế để giải quyết vụ
tranh chấp”. Trên thực tế, có thể nảy sinh trường hợp các bên không chọn pháp
luật áp dụng cho hợp đồng, khi đó, theo Điều 7 khoản 2 Pháp lệnh Trọng tài
năm 2003 thì “Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải
quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng tài quyết định”.
Theo quy tắc tố tụng của trọng tài quốc tế Việt Nam được áp dụng từ ngày
01/7/2004,“Hội đồng trọng tài quyết định chọn luật áp dụng mà Hội đồng trọng
tài cho là phù hợp”. Và thực tế, trọng tài Việt Nam đã dựa vào nhiều yếu tố của
tranh chấp để xác định luật áp dụng cho hợp đồng.
Ví dụ, trong hợp đồng ký ngày 09/11/1995 giữa một doanh nghiệp Việt Nam và
một doanh nghiệp Singapore,các bên có thoả thuận là “hợp đồng này sẽ được điều
chỉnh và giải thích và sẽ có hiệu lực theo luật Singapore”. Nhưng khi có tranh
chấp, Toà án áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết. Trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp tháng 10/2003, tác giả Nguyễn Ngọc Khánh đã nói “Thật đáng tiếc là
những quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ có

giá trị thực tế về mặt lý thuyết. Vì rằng, từ khi ban hành Bộ luật dân sự đến nay,
tòa án của Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật quốc gia khác để giải quyết
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra, việc áp dụng pháp luật nước ngoài
trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột đã có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi
ích chính đáng của các bên tranh chấp”.Còn theo Nguyễn Công Khanh trên tạp chí
Dân chủ và pháp luật thì “Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam khi giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thường chỉ áp
dụng (và dựa vào) pháp luật Việt Nam, hầu như rất hãn hữu, nếu không muốn nói
là chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài, mặc dù đã được quy phạm xung
đột dẫn chiếu”.


Tại hội thảo về Tư pháp quốc tế do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức ngày
27/5/2005, có đại biểu đã hỏi bà Ngô Thị Minh Ngọc (Thẩm phán Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội) về việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Theo đại biểu: “Trong
pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ luật dân sự Việt Nam, tôi thấy có rất nhiều quy
định, đặc biệt là các quy định ở Phần VII trong đó nếu theo dẫn chiếu của quy
phạm xung đột thì chúng ta phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Tương tự đối với
Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế, ở nước ta, chưa một tòa án nào
áp dụng pháp luật nước ngoài trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự”. Theo
bà Ngô Thị Minh Ngọc: “Trước hết, phải thừa nhận rằng chúng tôi chưa bao giờ
áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các tranh chấp dân sự hay ly hôn.
Đối với những vụ việc ly hôn mà chúng tôi giải quyết, thường là các bên tự thỏa
thuận và không có yêu cầu gay gắt về việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Hơn
nữa, chưa có vụ án nào mà bản thân đương sự hoặc về phía chúng tôi thấy cần
thiết phải áp dụng pháp luật nước ngoài”.
II. Vướng mắc trong áp dụng pháp luật nước ngoài và hướng hoàn thiện.
1. Vướng mắc trong áp dụng pháp luật nước ngoài.
Để áp dụng pháp luật nước ngoài theo đúng cách thức đòi hỏi các cơ quan xét sử
có trách nhiệm tìm hiểu nội dung. Thực tế của pháp luật Việt Nam chưa có một qui

định cụ thể nào về nghĩa vụ tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài thuộc về cơ
quan xét xử hay của các bên đương sự. Đây là một vấn đề phức tạp và trên thực tế
gây không ít khó khăn cho thẩm phán.
Tại Việt Nam, pháp luật không có quy định cụ thể về cách thức áp dụng pháp luật
nước ngoài mà chỉ dựa trên các nguyên tắc xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của các đương sự và lợi ích quốc gia.
Khi Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài,
phần nhiều liên quan đến một bên chủ thể là công dân Việt Nam nên việc ưu tiện
chọn luật Việt Nam để giải quyết thường được áp dụng nhằm thuận tiện cho việc
nghiên cứu Luật và theo hướng có lợi hơn cho công dân Việt Nam.
Tình trạng “luật khung”: là loại văn bản chứa đựng những quy định mang tính
nguyên tắc làm cơ sở cho việc đề ra những quy định cụ thể trong quá trình điều
chỉnh một hoặc một số quan hệ xã hội. Ví dụ, tại Điều 102 khoản 1 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 có quy định: “Việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ
giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng
giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Chính phủ quy định”. Việc


chỉ dừng lại ở những quy định có tính chất “khung” cho thấy, các nhà lập pháp
luôn cần đến sự tham gia của các nhà quản lý trong việc đưa ra những quy định chi
tiết, cụ thể nhằm áp dụng pháp luật vào hoạt động quản lý trong từng lĩnh vực cụ
thể.
Tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khiến cho hoạt
động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài còn
hạn chế, nhiều khó khăn. Ví dụ: cùng quy định về thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhưng lại
được quy định cả trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010 tại Điều 102 khoản 3
và điểm g khoản 2 Điều 410, điểm c khoản 1 Điều 411 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004.
Số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu mới.

Một số lượng không ít Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp hiện có còn phải đi học
văn hóa, nghiệp vụ, chính trị, tin học để đạt được tiêu chuẩn về trình độ theo yêu
cầu mới. Nguyên nhân này xuất phát từ các quy định về tiêu chuẩn lựa chọn Thẩm
phán của chúng ta không còn phù hợp với thời đại mới.. Nhiều người còn thiếu kỹ
năng, kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên sâu như sở hữu trí tuệ, thương
mại quốc tế, hàng không, hàng hải, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế... Đặc
biệt là sự hiểu biết còn hạn chế về pháp luật các nước trên thế giới, Thẩm phán Việt
Nam biết nhiều pháp luật Việt Nam hơn pháp luật nước ngoài, những hiểu biết nếu
có về pháp luật nước ngoài chỉ mang tính rời rạc, góp nhặt mà thiếu tính hệ thống,
bài bản, chính vì vậy họ có xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam ngay cả khi quy
phạm xung đột dẫn chiếu tới. Phần lớn các Thẩm phán đứng tuổi không tham gia
được những vụ phải sử dụng đến ngoại ngữ.
Trong vấn đề công nhận và thi hành bản án nước ngoài tại Việt Nam phải trải qua
quá nhiều khâu quá trình áp dụng đơn yêu cầu phải được đến Bộ Tư pháp để xem
xét tính thích hợp tính hợp lệ của đơn sau đó chuyển đến Tòa án Tỉnh để thi hành.
2. Hướng hoàn thiện.
2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt
nam.
Cần xây dựng các quy định mang tính nguyên tắc cũng như có hướng dẫn cụ thể
trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế (đặc
biệt các qui định về việc áp dụng các quy phạm xung đột trong mối tương quan với
các quy phạm luật nội dung khác). Nhà nước cần chú trọng đến việc tổ chức tổng


kết đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành một
cách toàn diện và đầy đủ nhằm kịp thời đề xuất, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những
quy phạm lỗi thời, lạc hậu.
Rộng hơn nữa cần xây dựng các nguyên tắc về thứ bậc áp dụng các loại nguồn luật
trong các quan hệ pháp lý có tính chất quốc tế. Nếu trong nội luật chưa có điều
kiện xây dựng và hoàn thiện các quy phạm điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thì

cần thừa nhận các loại nguồn pháp luật quốc tế khác (điều ước quốc tế và các tập
quán quốc tế), trong những chừng mực có thể, nên thừa nhận các nguồn luật bổ trợ
(án lệ quốc tế, công trình nghiên cứu, các học thuyết) bên cạnh các nguồn luật
chính thống của Tư pháp quốc tế vì đây là một ngành luật còn thiếu rất nhiều các
quy định tương xứng.
Trong hoàn cảnh pháp luật chưa quy định (hoặc có nhưng chưa đầy đủ) cần phải có
các giải thích về “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” hoặc các quy
định về khái niệm “trật tự công cộng” một cách thống nhất tại hệ thống các cơ
quan xét xử. Thông qua thực tiễn xét xử (đặc biệt trong các vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài), ngành tòa án nên tổng kết những vướng mắc, khó khăn trong quá
trình áp dụng pháp luật nước ngoài, qua đó tham khảo ý kiến của các chuyên gia,
nhà khoa học, kể cả tham khảo thực tiễn xét xử của tòa án các nước để có giải pháp
đúng đắn, phù hợp. Nên hệ thống hóa, và có cách giải thích thống nhất về khái
niệm trật tự công và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Nên công bố các bản án quyết định (không chỉ giới hạn ở các bản án, quyết định
của Tòa án tối cao như hiện nay). Cần xây dựng thành một tài liệu pháp lý như sổ
tay thẩm phán để đạt được sự chấp nhận chung của các nhà làm luật cũng như thực
hiện công tác xét xử.
Hạn chế tình trạng “luật khung”: giảm dần pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và nghị định của Chính phủ quy định những vấn đề chưa có luật. Khẩn trương
hoàn thiện để nâng cao thành luật những pháp lệnh, nghị định đã được thực tế kiểm
nghiệm là đúng. Tiếp tục hoàn thiện luật tố tụng dân sự, đặc biệt là luật tố tụng dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài theo hướng đề cao trách nhiệm và quyền
tự định đoạt của các bên đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và bảo vệ
yêu cầu hợp pháp của họ trước tòa án. Nên chú trọng và khuyến khích cơ chế tự
thỏa thuận của các bên trong giải quyết các vụ án dân sự.
Chú trọng nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ Tòa án qua các hình thức giải quyết
tranh chấp ngoài Tòa án phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay
như hòa giải, trọng tài đối với việc giải quyết các tranh chấp ngoài Tòa án theo



hướng các bên tự thỏa thuận với nhau và đến tòa án yêu cầu ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận này để làm cơ sở pháp lý cho việc có thể cưỡng chế thi hành
trong thực tế.
Thành lập bộ phận nghiên cứu pháp luật nước ngoài thuộc Bộ Tư pháp Việt Nam.
Đây là mô hình đã được Cộng hoà Pháp áp dụng rất hiệu quả. Bộ phận nghiên cứu
pháp luật nước ngoài sẽ là cầu nối giữa Bộ Tư pháp và các cơ quan nhà nước, giúp
các cơ quan nhà nước tìm hiểu pháp luật nước ngoài, trao đổi thông tin về pháp
luật nước ngoài. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với hoạt động áp dụng pháp luật
nước ngoài của các toà án Việt Nam hiện nay, khi mà trách nhiệm tìm hiểu và xác
định pháp luật nước ngoài thuộc về các cơ quan xét xử. Từ đây, kiến thức về pháp
luật nước ngoài sẽ được cung cấp cho các cơ quan xét xử một cách hệ thống, đáp
ứng được yêu cầu của việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
Hoàn thiện hơn việc giảng dạy bộ môn Tư pháp quốc tế là nhiệm vụ của các trường
Đại học đào tạo luật. Một trong những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hơn
việc giảng dạy bộ môn Tư pháp quốc tế là các trường không chỉ chuyên giảng dạy
về lý thuyết thuần túy (mặc dù ngay cả các học thuyết mang tính lý luận cũng còn
rất hạn chế, chưa toàn diện). Cần tạo ra một cơ chế liên thông cho các giảng viên
tiếp cận khía cạnh thực tiễn (như ra Tòa án tìm hiểu bản án, thực tiễn xét xử…),
đặc biệt, nếu có thể được tham gia với tư cách luật sư trong các vụ việc. Nếu
không, rất khó có thể xây dựng được hệ thống lý luận tốt khi tách rời thực tiễn.
2.2. Hoàn thiện yếu tố con người trong thực thi pháp luật nói chung và pháp
luật nước ngoài nói riêng.
Thực tế cho thấy trong mọi hoạt động, để đạt được thành công vấn đề con người là
quan trọng nhất. Nếu không có con người thì pháp luật chẳng qua là những từ ngữ
nằm trên giấy, không thể biến ý chí của Nhà nước, của nhân dân thành hành động
thực tế của mọi người. Do đó, cần nâng cao năng lực của cán bộ trong các cơ quan
áp dụng pháp luật. Nếu các chủ thể áp dụng pháp luật có trình độ chuyên môn hạn
chế thì không thể tránh khỏi việc đưa ra quyết định áp dụng pháp luật có nội dung
không bảo đảm các yêu cầu của pháp luật, ngay cả khi hệ thống pháp luật hoàn

thiện ở mức cao.
Để nâng cao trình độ năng lực của cán bộ trong thực thi pháp luật nước ngoài, cần
thực hiện tốt các công việc cụ thể sau:


- Xây dựng kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn về công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc có
yếu tố nước ngoài.
- Để đào tạo được đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên... đủ về số lượng,
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ và năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngang
bằng với các nước trong khu vực và trang bị đầy đủ các kiến thức pháp luật cần
thiết, chúng ta cần đầu tư thích đáng nguồn ngân sách nhà nước cho công tác đào
tạo đội ngũ công chức này.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá năng lực của cán bộ để có kế hoạch đào tạo và
đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của các công chức thực thi pháp luật nước
ngoài trong giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong công tác áp dụng
pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài, chúng ta cần
hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lí của các chủ thể áp dụng pháp
luật nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ việc có yếu tố nước ngoài.
Trong xu thế hội nhập hiện nay của Việt Nam, chúng ta cần thừa nhận thực tế việc
sử dụng các thuật ngữ “trật tự công”, hay các “nguyên tắc cơ bản của pháp luật”
hay các thuật ngữ tương tự khác (như pháp luật các nước đã thừa nhận) trong hệ
thống pháp luật quốc gia, coi đó như một công cụ sắc bén để bảo vệ những lợi ích
hay giá trị, chuẩn mực mà quốc gia cần bảo vệ. Tuy nhiên để hoàn thiện được vấn
đề này, còn rất nhiều việc phải làm, và mọi việc cần chuẩn bị từ ngày hôm nay.
LÊ THỊ THANH THỦY
HÌNH SỰ 34A
Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ
thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam


Nguyễn Bá Chiến

Khoa Luật


Luận án TS ngành: Luật Quốc tế; Mã số: 62 38 60 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến
Năm bảo vệ: 2008

Abstract: Luận án phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống
quy phạm
pháp luật xung đột như: phân tích khái niệm và đặc điểm của hệ thống quy phạm
pháp luật
xung đột; những yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống quy phạm pháp luật xung đột,
những yêu cầu
của hệ thống quy phạm pháp luật xung đột. Tổng hợp, khái quát thực tiễn pháp lý
của nước
ngoài về việc áp dụng quy phạm pháp luật xung đột để điều chỉnh các quan hệ
mang tính chất
dân sự có yếu tố nước ngoài; phân tích và làm sáng tỏ các quy phạm pháp luật
xung đột là
một bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật Việt Nam; lý giải tại sao cho
đến nay các
quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam không tồn tại trong một đạo luật chuyên
biệt về tư
pháp quốc tế mà có rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau. Phân tích, đánh
giá thực
trạng các quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam để chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế và

nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế; từ đó đề xuất những phương hướng giải
pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam


Keywords: Luật Quốc tế, Pháp luật Việt Nam, Quy phạm pháp luật, Xung đột

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế của nước ta trong hai thập kỷ vừa qua, các
mối
quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài như: quan hệ dân sự, hôn nhân
và gia
đình, lao động, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài mà liên quan đến
nước ta phát
triển ngày càng đa dạng và phong phú. Thực tiễn hiện nay cho thấy rằng, ngày
càng có nhiều
người nước ngoài đến Việt Nam đầu tư kinh doanh. Số lượng người nước ngoài đi
du lịch
đến Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng. Ngược lại, cũng ngày càng có nhiều
người Việt
Nam ra nước ngoài học tập, lao động, đi du lịch, đầu tư kinh doanh. Để phù hợp
với sự phát triển khách quan và đặc điểm của các mối quan hệ mang tính
chất dân sự có yếu tố nước ngoài thì không thể thiếu một loại quy phạm pháp luật
đặc thù là:
quy phạm xung đột. Theo khảo cứu của tác giả luận án, hệ thống các quy phạm
xung đột ở
nước ta hiện nay còn có không ít những bất cập, đó là: vẫn còn thiếu những quy
phạm mang

tính chất là nguyên tắc, nền tảng, thuộc về chính sách TPQT của Việt Nam; có
những quy


phạm xung đột còn chưa phù hợp với nhu cầu của đời sống thực tế…. Những bất
cập như vậy
đã có những cản trở không nhỏ đối với sự phát triển giao lưu dân sự, kinh doanh,
thương mại,
lao động, hôn nhân và gia đình giữa công dân, tổ chức của Việt Nam với công dân,
tổ chức
của nước ngoài; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự
tham gia
quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ
thống quy
phạm xung đột ở Việt Nam hiện nay là nhu cầu cần thiết, khách quan.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
* Những công trình trong nước bao gồm:
- Những công trình nghiên cứu tập trung về thực trạng các quy phạm xung đột và
kiến
nghị những giải pháp hoàn thiện các quy phạm xung đột, nhưng mới nghiên cứu ở
lĩnh vực
này hoặc lĩnh vực khác mà chưa phải là sự nghiên cứu tổng thể về hệ thống quy
phạm xung
đột ở Việt Nam như: Bàn về việc hoàn thiện các quy định trong Phần VII “Quan hệ
dân sự có
yếu tố nước ngoài” (Nguyễn Tiến Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2003,
tr.45-52);
TPQT Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng (Đỗ Văn Đại, Tạp
chí Nghiên
cứu Lập pháp số 10/2003, tr.64-71).

- Đặc biệt có những công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án như: Hoàn


thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (TS. Vũ Đức Long
- Chủ
nhiệm đề tài, Bộ Tư pháp Việt Nam và Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Nhật
Bản, 2002).
Nhưng công trình này cũng chỉ tập trung nghiên cứu các quy phạm xung đột trong
Bộ luật
Dân sự mà không nghiên cứu tất cả hệ thống quy phạm xung đột ở Việt Nam và kết
quả
nghiên cứu là trước khi ban hành Bộ luật Dân sự năm 1995. Hoặc có những công
trình luận
án tiến sỹ luật học liên quan đến đề tài luận án như: Cơ sở lý luận và thực tiễn của
pháp luật
điều chỉnh một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay
(Nguyễn Công
Khanh, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội-2003); Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn
nhân có yếu
tố nước ngoài tại Việt Nam (Nông Quốc Bình, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội2003). Những
công trình luận án này không tập trung chỉ nghiên cứu về quy phạm xung đột mà
nghiên cứu
cả quy phạm thực chất và cũng chỉ nghiên cứu pháp luật điều chỉnh một số ít quan
hệ có yếu
tố nước ngoài là: quan hệ sở hữu, thừa kế, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài.
* Những công trình nghiên cứu nước ngoài bao gồm:
The Conflict of laws (J.H.C. MORRIS, Published by Stevens & Sons Limited,
1984);



Conflict of laws (Michael Freeman, Published by the University of London Press,
2004); A
Canadian Looks at American Conflict of Law Theory and Practice, Especially in
the Light of the American Legal and Social Systems (William Tetley,
/>Tóm lại, kết quả khảo cứu những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đó
cũng
như các công trình nghiên cứu khác mà tác giả không thể liệt kê hết cho thấy rằng,
các công
trình đó chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề như: những vấn đề lý luận cơ bản
về TPQT,
một hoặc một số vấn đề, lĩnh vực về quy phạm xung đột và việc áp dụng quy phạm
xung đột
trong thực tiễn. Trong tất cả các công trình đó thì chưa có một công trình nào chỉ
tập trung
nghiên cứu chuyên sâu, khá toàn diện, có hệ thống về hệ thống quy phạm xung đột
và việc
hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột ở Việt Nam dưới dạng một luận án tiến sỹ
khoa học
luật học với tên đề tài là “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ thống quy
phạm pháp
luật xung đột ở Việt Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
* Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện hệ thống quy
phạm
pháp luật xung đột ở Việt Nam;


* Lập luận và đề xuất những quan điểm, phương hướng và kiến nghị cụ thể để

hoàn
thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
* Đối với cơ sở lý luận về hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột:
- Lập luận, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quy phạm xung đột và hệ
thống
quy phạm xung đột; quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài và vai trò
điều chỉnh
của quy phạm xung đột; tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện hệ thống quy
phạm xung
đột ở Việt Nam;
- Trình bày thực tiễn pháp lý của nước ngoài về việc áp dụng quy phạm xung đột
điều
chỉnh quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài
* Đối với cơ sở thực tiễn về hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột:
- Phân tích, lập luận về thực trạng các quy phạm xung đột ở Việt Nam để từ đó xác
định những ưu điểm, hạn chế của các quy phạm xung đột và nguyên nhân của
những ưu điểm,
hạn chế đó;
- Trình bày về thực tiễn áp dụng các quy phạm xung đột ở Việt Nam để từ đó góp
phần xác định những kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập.
* Đối với phương hướng và kiến nghị hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật
xung


đột: - Phân tích, lập luận và chứng minh những quan điểm, phương hướng có tính
chất
định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột ở Việt Nam;
- Lập luận và kiến nghị cụ thể về từng vấn đề trong việc hoàn thiện hệ thống quy
phạm xung đột ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề về quy phạm xung đột liên quan
trực tiếp đến đề tài như: khái niệm, cấu trúc, phân loại, các hệ thuộc của quy phạm
xung
đột; khái niệm, đặc điểm, những yêu cầu, yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống quy phạm
xung
đột.
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu yếu tố nội tại bên trong của hệ thống quy phạm
xung
đột như: mô hình, các bộ phận cấu thành và trật tự của các bộ phân cấu thành đó.
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những văn bản pháp luật quốc tế, những văn bản
pháp luật của một số quốc gia có tính chất phổ biến, điển hình có chứa các quy
phạm xung
đột.
- Đề tài không nghiên cứu hệ thống quy phạm xung đột ở Miền Nam dưới chế độ
Mỹ


- Ngụy khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, mà đề tài chủ yếu tập trung nghiên
cứu hệ
thống quy phạm xung đột kể từ khi đất nước được thống nhất vào ngày 30/4/1975.
- Đề tài không phân tích hết tất cả các quy phạm xung đột trong các ĐƯQT mà
Việt
Nam là thành viên và các văn bản PLVN, mà đề tài chủ yếu tập trung phân tích
những quy
phạm xung đột còn có những điểm bất cập, không phù hợp.

- Đề tài chỉ nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy phạm xung đột thông qua một
số
vụ việc cụ thể có tính chất điển hình.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài luận án
* Phương pháp luận: việc nghiên cứu đề tài luận án sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử.
* Phương pháp cụ thể: trên cơ sở phương pháp luận, luận án sử dụng những
phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phân tích
luật thực
định…. 6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống quy
phạm xung đột như: khái niệm và đặc điểm của hệ thống quy phạm xung đột;
những yếu tố
ảnh hưởng đến hệ thống quy phạm xung đột, những yêu cầu của hệ thống quy
phạm xung đột.
- Luận án giới thiệu, trình bày một cách tổng hợp, khái quát thực tiễn pháp lý của


nước ngoài về việc áp dụng quy phạm xung đột để điều chỉnh các quan hệ mang
tính chất dân
sự có yếu tố nước ngoài; đồng thời, phân tích và làm sáng tỏ các quy phạm xung
đột là một
bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật Việt Nam; lý giải tại sao cho đến
hiện nay
các quy phạm xung đột ở Việt Nam không tồn tại trong một đạo luật chuyên biệt về
TPQT
mà có ở rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau.
- Luận án phân tích và đánh giá thực trạng một cách có hệ thống, khá đầy đủ, toàn
diện các quy phạm xung đột ở Việt Nam.

- Luận án làm rõ thêm một số quan điểm, đề xuất những phương hướng và giải
pháp
cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột ở Việt Nam. Luận án lập luận,
phân tích
về việc không nên xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp quốc tế ở Việt Nam,
nhưng xác
định Phần thứ bảy của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là
một bộ phận
đặc biệt quan trọng về tư pháp quốc tế của Việt Nam; đồng thời xử lý tốt mối quan
hệ giữa
các quy phạm xung đột trong các đạo luật chuyên ngành với các quy phạm xung
đột trong Bộ
luật Dân sự.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Với những kết quả đạt được, Luận án góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận
về


tư pháp quốc tế ở Việt Nam; những kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được sử
dụng làm
tài liệu tham khảo có giá trị cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức làm công tác
nghiên cứu,
giảng dạy, học tập pháp luật; xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện
pháp luật
trong thực tiễn; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống quy
phạm
xung đột nói riêng ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Lời cam đoan; lời cảm ơn; mục lục; phần mở đầu; phần nội dung:
gồm

ba chương; phần kết luận; danh mục tài liệu tham khảo.

References
I. Tiếng Việt
1. Phan An (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Nghiên cứu hôn nhân giữa người Việt Nam
với
người Đài Loan – Thực trạng, xu hướng và giải pháp (Ở TP. Hồ Chí Minh và các
tỉnh Nam Bộ), Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
2. Ban biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân (2006), “Áp dụng Luật Hôn nhân và gia
đình
khi giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số
14),
tr.38-43.


3. Phạm Công Bảy (2006), “Tranh chấp liên quan đến hợp đồng đưa người lao
động Việt
Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài: pháp luật và thực tiễn xét xử”, Tạp chí
Tòa
án nhân dân (số 8), tr.19-29.
4. Nguyễn Hồng Bắc (2001), “Những quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình
năm
2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Luật học (số
3),
tr.43-47.
5. TS. Nguyễn Hồng Bắc (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Mối quan hệ giữa Tư pháp
quốc tế
Việt Nam và Luật dân sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
6. Nông Quốc Bình (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài

tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
7. Nguyễn Bá Chiến (2003), “Bàn về một số yêu cầu đối với việc xây dựng hệ
thống các
quy phạm pháp luật xung đột và việc áp dụng đối với hợp đồng dân sự có yếu tố
nước
ngoài”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 8), tr.67-72.
8. Nguyễn Bá Chiến (2004), “Nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng trong việc áp
dụng
pháp luật nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật (số 5), tr.61-66.


9. Nguyễn Bá Chiến (2006), “Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân,
tổ chức
trong lĩnh vực tư pháp quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 2), tr.72-78.
10. Nguyễn Bá Chiến (2006), “Pháp luật triệt tiêu pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập
pháp (số 4), tr.51-57.
11. Nguyễn Bá Chiến (2007), “Tình trạng thừa quy định pháp luật”, Tạp chí
Nghiên cứu
Lập pháp (số 24), tr.23-26.
12. Cục Con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn
thiện pháp
luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm chống buôn bán trẻ em,
Chương trình 130/CP, Hà Nội.
13. Cục đầu tư nước ngoài (2007), “Tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp
Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số 7), tr.17-19.
14. Nguyễn Việt Cường (2006), “Tranh chấp giữa người lao động với doanh
nghiệp xuất

khẩu lao động”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 11), tr.18-23.
15. Nguyễn Bá Diến (1995), “Về các trường phái cổ điển của tư pháp quốc tế”,
Tạp chí
Luật học (số 6), tr.5-10.
16. Nguyễn Bá Diến (1996), “Về các trường phái cổ điển của tư pháp quốc tế”,
Tạp chí
Luật học (số 1), tr.3-5.


17. TS. Nguyễn Bá Diến (Chủ biên) (2001), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Đại
học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (Chủ biên) (2005), Giáo trình Luật Thương mại
quốc tế,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Đỗ Văn Đại (2003), “Tư pháp quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh
vực
hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 10), tr.64-71.
20. Đỗ Văn Đại (2003), “Chọn luật để điều chỉnh thừa kế theo pháp luật có yếu tố
nước
ngoài”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 7), tr.67-74.
21. TS. Đỗ Văn Đại và PGS.TS. Mai Hồng Quỳ (Biên soạn) (2006), Tư pháp quốc
tế Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII,
NXB Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. PTS. Nguyễn Ngọc Đào (1994), Giáo trình Luật La Mã, Khoa Luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.


26. Nguyễn Thu Giang (Chủ nhiệm đề tài) (2003), Hôn nhân có yếu tố nước ngoài
tại
Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng, vấn đề đặt ra và phương hướng đổi mới,
Viện
Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp.
27. Võ Trí Hảo (2005), “Giải thích pháp luật và vai trò của tòa án”, Tạp chí Tòa án
nhân
dân (số 13), tr.2-5.
28. Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý ký kết giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt
Nam và các nước (2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Am Hiểu (2005), “Sửa đổi Bộ luật Dân sự: Cần chú ý tính hệ thống”,
Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp (số 3), tr.8-11.
30. Học viện Hành chính quốc gia (2001), Giáo trình Luật quốc tế, NXB Đại học
quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
31. Nguyễn Quang Hưng (2005), “Tư pháp quốc tế - Một số quan điểm của các
học giả
nước ngoài”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 3), tr.78-82.
32. Kulcsar Kalman (1999), Cơ sở xã hội học pháp luật, NXB Giáo dục.
33. Nguyễn Công Khanh (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều
chỉnh một

số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật
học,
Hà Nội.


34. ThS. Nguyễn Phương Lan (2004), “Bàn thêm về quy định tại điểm c Khoản 14
Điều 8
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 6), tr.4750.
35. Vũ Đức Long (Chủ nhiệm đề tài) (2002), Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan
hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài, Bộ Tư pháp Việt Nam và Cơ quan hợp tác phát triển quốc
tế
Nhật Bản, Hà Nội.
36. Hoa Hữu Long và Nguyễn Hữu Huyên (2005), “Những vấn đề sửa đổi, bổ sung
về
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, Chuyên đề về Bộ luật Dân sự năm 2005, tr.54-60.
37. Nguyễn Thị Hồng Lý (2005), “Về áp dụng Luật Hôn nhân – gia đình khi giải
quyết vụ án có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 13), tr. 22- 23.
38. C.Mác - Ph.Ănghen (1971), Tuyển tập, Tập II, NXB Sự thật, Hà Nội.
39. PTS. Đinh Văn Mậu, PTS. Phạm Hồng Thái (1997), Lý luận chung về Nhà
nước và
pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đinh Văn Mậu (Chủ biên) (2001), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật,
Học viện Hành chính quốc gia, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
41. Đoàn Năng (Chủ biên) (1996), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Khoa Luật - Đại
học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.



42. Đoàn Năng (1998), “Vấn đề hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột hướng
dẫn chọn
pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay”,
Tạp
chí Nhà nước và pháp luật (số11), tr.38-51.
43. Đoàn Năng (2001), Một số vấn đề lý luận về tư pháp quốc tế, NXB Chính trị
quốc gia,
Hà Nội.
44. Đoàn Năng (2005), “Mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự với các luật chuyên
ngành và
giữa các luật chuyên ngành với nhau”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 4), tr.3841.
45. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1995), Tài liệu hội thảo Luật Tư pháp quốc tế, Hà
Nội.
46. Bùi Xuân Nhự (Chủ biên) (1999), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học
Luật
Hà Nội, NXB Công an nhân dân.
47. TS. Bùi Xuân Nhự (2007), “Vấn đề nhất thể hóa pháp luật và hài hòa hóa pháp
luật
trong TPQT”, Tạp chí Luật học (số 2), tr.41-50.
48. TS. Nguyễn Như Phát (2001), “Tư pháp dân sự - Mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp (số ¾), tr.24-31.
49. Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Quỳ (1987), Vận dụng quan điểm hệ thống trong quản lý kinh tế,
NXB


Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
51. Trần Văn Thắng (2000), “Về hệ thống quy phạm của tư pháp quốc tế”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật (số 10), tr.54-63.
52. ThS. Bùi Thị Thu (2005), “Chọn luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc
tế theo
Công ước Rome về Luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng”, Tạp chí Luật học (số
1),
tr.53-58.
53. Nguyễn Trung Tín (1999), “Vị trí của Tư pháp quốc tế trong đời sống xã hội”,
Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật (số 5), tr.30-37.
54. Nguyễn Trung Tín (2004), “Mấy ý kiến về các quy định chung của Phần VII
Bộ luật
Dân sự 1995 “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật
(số 2), tr.65-69.
55. Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Ngọc Lâm (2004), “Về việc xác định các quan
hệ dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà
nước
và Pháp luật (số 3), tr.72-76.
56. Nguyễn Trung Tín (2006), “Những quy định mới, những điểm mới được sửa
đổi, bổ
sung về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân sự năm 2005” Tạp
chí
Kiểm sát (số 01), tr.34-38.


57. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế (1997), NXB Công
an nhân
dân, Hà Nội.
58. TS. Đinh Trung Tụng (Chủ biên) (2005), Bình luận những nội dung mới của

Bộ luật
Dân sự năm 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội.
59. Hồ Phong Tư (Chủ biên) (1992), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học
Pháp lý
Hà Nội, Hà Nội.
60. TS. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Một số vấn đề lý luận cơ bản về Luật quốc
tế, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đào Trí Úc (1995), “Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật Dân sự Việt Nam”, Tạp
chí Nhà
nước và Pháp luật (số 5),
62. Đào Trí Úc (2000), “Xây dựng luận cứ khoa học của chiến lược lập pháp ở
nước ta”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 1), tr.5-16. 63. Huệ Văn (2008), Đầu tư trực tiếp
nước ngoài khơi thông dòng chảy, Tạp chí kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương (số 5 – 9 (200-204)), tr.8.
64. Nguyễn Thị Thu Vân (1995), “Những quy định của pháp luật về vấn đề hộ tịch

nhân tố nước ngoài”, Tạp chí Luật học (số 6), tr.53-57.
65. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Báo cáo phúc trình và các chuyên
đề của
đề tài cấp cơ sở: Thực trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan và giải


×