Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 188 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔ ĐỨC

PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM
CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 62 38 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đình Hảo

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những số liệu và trích dẫn trong luận án là chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác./.

Tác giả luận án



MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
9
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có
9
hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có
19
hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
1.3. Tình hình nghiên cứu xu hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp
22
xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
26
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ
33
HỘI ĐỐI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
33
2.2. Nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
49
2.3. Một số yếu tố tác động đến pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có
54
hoàn cảnh đặc biệt
2.4. Một số kinh nghiệm pháp luật quốc tế về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có
61

hoàn cảnh đặc biệt có khả năng vận dụng tại Việt Nam
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI
71
TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Lịch sử pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
71
3.2. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có
76
hoàn cảnh đặc biệt
3.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có
91
hoàn cảnh đặc biệt
Chương 4: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI 108
TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh 108
đặc biệt
4.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn 113
cảnh đặc biệt
4.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn 121
cảnh đặc biệt
4.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh 135
đặc biệt
KẾT LUẬN
144
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
150
PHỤ LỤC
170



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH

:

An sinh xã hội

BTXH

:

Bảo trợ xã hội

TGXH

: Trợ giúp xã hội

CSXH

:

Chính sách xã hội

CTXH

:

Công tác xã hội


TECHCĐB :

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

:

Bảo hiểm y tế

KT-XH

:

Kinh tế - xã hội

NXB

:

Nhà xuất bản

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển KT-XH của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội; trong đó, con người là trung tâm của sự phát triển và là động lực to lớn
thúc đẩy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu, sự phát triển mạnh mẽ về các mặt kinh tế, xã hội và chính
trị. Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, mức sống của
người dân được cải thiện và đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong công tác xóa
đói giảm nghèo, tăng cường các dịch vụ cơ bản cho người dân.
Bên cạnh những thành tựu, do quy luật phát triển không đồng đều tác động
đến các nhóm dân cư nên trong xã hội luôn tồn tại nhiều bộ phận người dân có hoàn
cảnh khó khăn, yếu thế, dễ bị tổn thương. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam đã dẫn đến khoảng cách ngày một gia tăng trong mức sống của
người dân, hậu quả của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, ảnh hưởng của quá trình
biến đổi khí hậu, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, những đổ vỡ gia đình, hiện tượng
xói mòn các giá trị truyền thống đã làm gia tăng nhiều nhóm TECHCĐB. Cho đến
nay, số lượng TECHCĐB trên phạm vi toàn quốc có hơn 1,5 triệu trẻ em, bao gồm
các nhóm trẻ em yếu thế, bị tổn thương, gặp rủi ro, khó khăn về thể chất, tinh thần
và điều kiện sống [138, tr 1- 4, 9- 10.].
Việt Nam rất quan tâm tới công tác trợ giúp xã hội đối với trẻ em. Việt Nam
là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước
về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB nhằm bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất, kịp thời điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh

trong lĩnh vực trợ giúp TECHCĐB; đồng thời từng bước tham gia, phê chuẩn, thực
hiện các cam kết quốc tế và xây dựng pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB hài

1


hòa với pháp luật quốc tế, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực, quốc tế. Đó là
những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng, vững chắc cho việc TGXH đối với
TECHCĐB, bảo đảm cho những trẻ em này có cơ hội phát triển toàn diện về thể
chất, tinh thần và trí tuệ, là chủ nhân tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện bộc lộ
nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, làm rõ cả về phương diện lý luận và thực tiễn
triển khai: (i) Có rất ít các công trình nghiên cứu khoa học pháp luật về TGXH đối
với TECHCĐB; (ii) Chưa có những nghiên cứu, rà soát, phân tích, đánh giá tổng
thể, toàn diện thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB; (iii) Pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB đã bộc lộ nhiều điểm bất
cập, lạc hậu, không còn phù hợp với thực tế cuộc sống; tính ổn định, tính khả thi
thấp, nhiều nội dung phát sinh trong quan hệ TGXH đối với TECHCĐB chưa được
điều chỉnh; (iv) Chưa tiếp cận đầy đủ, toàn diện theo hướng đa ngành, liên ngành và
quyền con người; (v) Thiếu các mô hình lý luận và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về TGXH đối với TECHCĐB một cách hiệu quả, bền vững.
Đây là lĩnh vực có nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn, đến tính
hợp pháp và hợp lý, đến nguyên tắc và ngoại lệ trong việc nghiên cứu, xây dựng,
ban hành và áp dụng quy định pháp luật.
Trong xu hướng hội nhập quốc tế, Việt Nam cần đổi mới pháp luật về
TGXH đối với TECHCĐB theo hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành và quyền con
người; chú trọng, thúc đẩy hoạt động phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp sớm, trợ
giúp đối tượng sinh sống tại gia đình, cộng đồng; thu hẹp sự cách biệt với cộng
đồng; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển, hoà nhập cộng đồng của đối
tượng; tăng cường sự kết nối hệ thống và bảo đảm phát triển bền vững; cần phát

triển các dịch vụ công về TGXH, phát triển các dịch vụ CTXH và đổi mới cơ chế
TGXH phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường.

2


Đứng trước những yêu cầu của đổi mới, việc nghiên cứu cũng như phải làm rõ
các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn; đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGXH
đối với TECHCĐB ở Việt Nam là hết sức cần thiết.
Qua đó có thể thấy, việc nghiên cứu pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB
ở Việt Nam có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là lý do tác giả chọn
nghiên cứu đề tài ‘Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án Tiến sĩ Luật học chuyên ngành Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam, luận án xác định
quan điểm, đề xuất mô hình lý luận về TGXH, định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay theo hướng tiếp cận
đa ngành, liên ngành và quyền con người.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án cần giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
(i) Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB trên cơ sở phân tích các khái niệm về trẻ em, TECHCĐB, TGXH,
TGXH đối với TECHCĐB và khái niệm pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở
Việt Nam.
(ii) Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về đặc trưng, nội dung của
pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB và các yếu tố tác động; kinh nghiệm pháp

luật quốc tế về TGXH đối với TECHCĐB.

3


(iii) Phân tích lịch sử pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB; phân tích,
đánh giá thành tựu, hạn chế của thực trạng các quy định và thực tiễn thực hiện pháp
luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam.
(iv) Phân tích, xác định các nhu cầu hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB; xác định quan điểm và luận giải, đề xuất mô hình lý luận về TGXH đối
với TECHCĐB, định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường và phù hợp với xu
hướng tiến bộ của quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu đối tượng là bản chất và những vấn đề liên
quan đến hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận và cơ sở thực
tiễn của pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay. Những số
liệu được sử dụng trong luận án được giới hạn chủ yếu từ năm 2010 cho đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận:
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo đảm an sinh xã hội, việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực TGXH đối với TECHCĐB,
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGXH theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu luật học, nghiên

cứu dựa trên những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử
nhà nước và pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, triết

4


học pháp luật, tâm lý học pháp luật, luật Hiến pháp, luật Hành chính, luật Hình sự,
luật Dân sự; luật Trẻ em, luật Người khuyết tật; những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên một số Tạp
chí Luật học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong luận án như
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp,
diễn dịch. Đồng thời luận án còn dựa vào những số liệu thống kê, thu thập báo cáo
hành chính, tổng kết hàng năm và giai đoạn 5 năm trong các báo cáo của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và
các địa phương cũng như những thông tin trên mạng Internet. Cụ thể:
Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp rà soát, nghiên cứu, phân tích tài liệu
để tổng quan các công trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn và quan điểm, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về TGXH; so sánh, tổng hợp nhằm xác định rõ những kết quả đã nghiên
cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết cần được kế thừa, đồng thời xác định
những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình, bài viết trước đó mới giải quyết
một phần hoặc còn bỏ ngỏ cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển.
Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, phỏng
vấn, thảo luận và tham khảo ý kiến của chuyên gia, các nhà quản lý về khái niệm,
đặc trưng, nội dung và một số yếu tố tác động đến pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB; kinh nghiệm pháp luật quốc tế về TGXH đối với TECHCĐB. Phương
pháp phỏng vấn chuyên gia chú trọng xác định khái niệm và nội dung của pháp luật
về TGXH đối với TECHCĐB;
Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, thu thập báo cáo hành

chính, nghiên cứu tài liệu, tham khảo các công trình nghiên cứu và số liệu điều tra
xã hội học về TGXH, TECHCĐB hiện có để phân tích, đánh giá thực trạng quy
định và thực tiễn thực hiện pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB hiện hành; từ

5


đó, so sánh, rút ra những thành tựu và vấn đề bất cập, hạn chế, thiếu sót trong thực
trạng quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB.
Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp trao đổi, thảo luận với chuyên gia,
nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước và xu hướng quốc tế để
phân tích, tổng hợp, dự báo, xác định quan điểm và đề xuất mô hình lý luận về
TGXH đối với TECHCĐB, định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGXH
đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay.
Luận án cũng chú trọng sử dụng một số phương pháp tiếp cận nghiên cứu cơ
bản như sau:
(i) Tiếp cận đa ngành, liên ngành: Việc nghiên cứu hệ thống pháp luật về
TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay cần được tiếp cận theo hướng đa
ngành, liên ngành, bao gồm: Tiếp cận luật học thực chứng (thực định); tiếp cận luật
học so sánh; tiếp cận xã hội học pháp luật; tiếp cận triết học pháp luật; tiếp cận kinh
tế học pháp luật; tiếp cận chính sách pháp luật và tiếp cận tâm lý học pháp luật. Sự
tiếp cận đa ngành trong quá trình nghiên cứu sẽ giúp cho chúng ta có cách nhìn
khách quan hơn, toàn diện hơn, tổng thể hơn.
(ii) Tiếp cận quyền con người: Tiếp cận nghiên cứu pháp luật về TGXH đối
với TECHCĐB phải dựa vào phương pháp tiếp cận quyền con người, quyền được
sống, quyền được bảo vệ an toàn, quyền được tham gia, quyền được phát triển,
quyền được bình đẳng và công bằng xã hội; đây là phương pháp tiếp cận có ý nghĩa
chi phối các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác. Các vấn đề về TGXH, quyền con
người, quyền được bảo vệ và công bằng xã hội được đặt lên hàng đầu trong quá
trình nghiên cứu, phương pháp này cũng phù hợp với nhận thức khi đặt con người

vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
(iii) Tiếp cận theo nhu cầu của các nhóm TECHCĐB: Tùy thuộc vào điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá và truyền thống của dân tộc, trong từng thời
kỳ, pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB được nghiên cứu nhằm đáp ứng những
nhu cầu cụ thể của các nhóm TECHCĐB như nhu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc,

6


trợ giúp xã hội thường xuyên, trợ giúp xã hội đột xuất, chăm sóc xã hội hoặc bảo
đảm mức sống tối thiểu, bảo đảm quyền bình đẳng, công bằng. Pháp luật về TGXH
đối với TECHCĐB được nghiên cứu, nhận thức là một bộ phận cấu thành quan
trọng của chính sách pháp luật xã hội.
(iv) Tiếp cận lịch sử: Pháp luật về TGXH cũng được nghiên cứu, nhìn nhận
trong một quá trình lịch sử từ năm 1945 cho đến nay. Việc phân tích, đánh giá pháp
luật về TGXH đối với TECHCĐB cần được đặt trong những bối cảnh lịch sử và
những điều kiện cụ thể nhìn nhận dưới góc độ logic phát triển.
(v) Tiếp cận hệ thống: Pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB được nghiên
cứu, phân tích và đánh giá một cách hệ thống với tổng thể các quy phạm pháp luật,
mục đích và nội dung của pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB có mối liên hệ
mật thiết và thống nhất với nhau, được phân thành các chế định pháp luật, được thể
hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành đặt trong
điều kiện KT-XH ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên, nghiên cứu trực tiếp và hệ
thống, tổng thể pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay nên
luận án có những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
(i) Nghiên cứu có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về trẻ em và
TECHCĐB, TGXH và TGXH đối với TECHCĐB; khái niệm, đặc trưng, nội dung
pháp luật về TGXH với TECHCĐB và một số yếu tố tác động.

(ii) Cung cấp những đánh giá, phân tích lịch sử hình thành và phát triển của
pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
(iii) Phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện
pháp luật về TGXH với TECHCĐB trong bối cảnh nước ta hiện nay nhằm tìm ra
những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân.

7


(iv) Luận giải, xác định nhu cầu hoàn thiện, quan điểm và đề xuất mô hình lý
luận về TGXH, định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo hướng tiếp cận
đa ngành, liên ngành và quyền con người nhằm nâng cao tính khả thi của pháp luật.
Những đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể của Luận án là cơ sở khoa học
cho việc hoàn thiện pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay,
từ đó góp phần tạo khung pháp luật tiến bộ, phù hợp cho việc TGXH đối với
TECHCĐB hiệu quả, bền vững và xây dựng nền ASXH tiên tiến.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án có đóng góp vào hệ thống tri thức, kiến thức
lý luận pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB nói riêng và chính sách pháp luật xã
hội nói chung.
Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy
về trợ giúp xã hội và chính sách pháp luật xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB nói riêng và chính sách pháp luật xã
hội nói chung ở Việt Nam hiện nay.
Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, các nhà hoạch
định chính sách, các tổ chức và cá nhân có tham gia các hoạt động TGXH đối với

TECHCĐB ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã
công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4
chương, 15 tiết.

8


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước giai đoạn vừa qua, việc
nghiên cứu, xây dựng, phát triển hệ thống pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB
đã nhận được sự quan tâm nhất định của giới nghiên cứu khoa học. Tuy đề tài
“Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam hiện
nay” chưa được nghiên cứu trong luận án tiến sĩ nào nhưng cũng có những công
trình nghiên cứu liên quan tổng thể hoặc liên quan trực tiếp tới đề tài này. Những
công trình đó giúp tác giả có thêm cơ sở lý thuyết hoặc phương pháp luận nghiên
cứu đề tài này. Trên cơ sở tiếp cận một số công trình nghiên cứu chủ yếu của các
học giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài nghiên cứu này tại một số tài
liệu, sách, báo, bài viết, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học, tác giả tổng
quan tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:
1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Trẻ em và TECHCĐB là những khái niệm trong thực tế còn nhiều cách hiểu,
cách xác định khác nhau. Điều này tùy thuộc vào cách tiếp cận quốc tế hoặc của
quốc gia. Trẻ em và TECHCĐB có thể được quan niệm hoặc định nghĩa, xác định
tùy theo góc độ tiếp cận, cấp độ đánh giá, nội dung tiếp cận hoặc lĩnh vực nghiên cứu.

Từ cách tiếp cận của luật học, triết học, tâm lý học, xã hội học, y học hay sinh học
dẫn đến việc xác định khái niệm trẻ em khác nhau.
Tác giả Trần Thị Thanh Thanh đã đưa ra khái niệm trẻ em và luận giải trẻ em
là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn
thương. Trẻ em cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt và bảo vệ thích hợp
vể mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Trẻ em chính là một nhóm xã hội

9


thuộc một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển bao gồm: Giai
đoạn sơ sinh, giai đoạn nhà trẻ, giai đoạn mẫu giáo, giai đoạn nhi đồng - thiếu nhi,
giai đoạn thanh thiếu niên [130, tr. 19-26]. Tác giả mới bước đầu đưa ra khái niệm
trẻ em một cách đơn giản, không cụ thể, chưa thể hiện khái niệm và nội hàm của
thuật ngữ một cách đầy đủ, chính xác.
Tác giả Võ Khánh Vinh (chủ biên) và nhiều chuyên gia luật học đã nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương,
trong đó có nhóm trẻ em và các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong hai
nhóm quyền chính cấu thành các quyền và tự do cơ bản của con người trong mối
quan hệ mật thiết, không thể tách rời, làm tiền đề, bổ sung và hỗ trợ nhau [154, tr.78, 342-367.]. Trong đó, tác giả Nguyễn Thị Báo cũng đề cập đến ra khái niệm về
nhóm trẻ em dễ bị tổn thương, yếu thế, thiệt thòi có vị thế chính trị, kinh tế, xã hội
thấp hơn những nhóm người hay cộng đồng khác [154, tr.342-343.]; tuy nhiên, khái
niệm này chưa làm rõ nội hàm và các nhóm TECHCĐB.
Pháp luật Việt Nam đã xác định rất cụ thể khái niệm trẻ em và TECHCĐB.
Luật Trẻ em năm 2016 đã đưa ra khái niệm trẻ em là người dưới mưới sáu tuổi.
Luật Trẻ em năm 2016 xác định cụ thể các nhóm TECHCĐB không đủ điều kiện để
thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng. Tuy nhiên, một số văn
bản khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau
về TECHCĐB. Trong đó, Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của
Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội

đã đưa ra khái niệm trẻ em là đối tượng BTXH được hưởng chính sách TGXH;
Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn giai đoạn 2013 – 2020 đã đưa
ra khái niệm TECHCĐB khó khăn.
Như vậy, ngay trong hệ thống pháp luật và một số công trình nghiên cứu
khoa học của Việt Nam, khái niệm TECHCĐB là không thống nhất, có nhiều cách
hiểu, cách tiếp cận và xác định các nhóm trẻ khác nhau.

10


Pháp luật quốc tế lại có cách tiếp cận khác về khái niệm trẻ em và
TECHCĐB. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đưa ra khái niệm trẻ em
là người dưới 18 tuổi. Đến nay, đa số các quốc gia trên thế giới đều thống nhất với
khái niệm này. Pháp luật của mỗi quốc gia có quy định khác nhau về độ tuổi để xác
định khái niệm trẻ em. Việc quy định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều
kiện KT-XH, truyền thống, văn hóa, đặc điểm phát triển về thể chất, tâm sinh lý của
trẻ em ở quốc gia đó. Có những quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc
thậm chí sau 18 tuổi.
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc đã nghiên cứu, đưa ra khái niệm các
nhóm đối tượng có nguy cơ bị tổn thương, dễ bị tổn thương; xem xét tình trạng dễ
bị tổn thương khi con người đối mặt với các rủi ro theo cách tiếp cận khác biệt và
toàn diện, lấy con người làm trung tâm [60, tr. 2-13]. Kết quả nghiên cứu mới chỉ đề
cập đến khái niệm và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, trong đó có trẻ em mà
không nghiên cứu, tiếp cận và đưa ra khái niệm TECHCĐB.
Pháp luật quốc tế về quyền con người chỉ ra rằng các nhóm trẻ em dễ bị tổn
thương là khái niệm chỉ những nhóm trẻ em gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn hoặc
gặp các cú sốc, rủi ro trong cuộc sống hoặc có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh
tế thấp hơn. Các nhóm trẻ em bị tổn thương có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi
phạm các quyền con người nên cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm,

cộng đồng người khác. Trong đó, có các nhóm trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm
HIV/AIDS, trẻ em di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, tị nạn, không quốc tịch hoặc
thuộc dân tộc thiểu số... [78, tr. 24-26].
Khái niệm về TECHCĐB xuất hiện và tồn tại trong những bối cảnh KT-XH
cụ thể của mỗi quốc gia. TECHCĐB là nhóm trẻ em gặp nhiều khó khăn, trở ngại để
thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em so với trẻ em bình thường như quyền được
chăm sóc sức khỏe, quyền được học tập, quyền vui chơi giải trí, quyền được sống
cùng với cha mẹ và gia đình. Bộ phận trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt như trẻ
em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi, khuyết tật, bị nhiễm HIV/AIDS, lao động sớm, bị bạo

11


lực, bị xâm hại... TECHCĐB có ít quyền hơn người trưởng thành, chưa được hưởng
đầy đủ các quyền công dân của người trưởng thành, được xếp vào nhóm không để
đưa ra những quyết định quan trọng và về mặt luật pháp phải luôn có người giám hộ
và cần được TGXH từ nhà nước, cộng đồng. Tuy độ tuổi xác định trẻ em ở mỗi
quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung khái niệm về trẻ em ở tất cả các quốc gia đều
có các đặc điểm: (i) Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành; (ii) Gặp những hoàn cảnh
khó khăn, không có điều kiện thực hiện các quyền cơ bản; (iii) Nhà nước, gia đình,
nhà trường, xã hội cần bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và TGXH toàn diện về nhân
cách, trí tuệ, thể chất.
Như vậy, khái niệm trẻ em được hiểu theo pháp luật quốc tế là người dưới
18 tuổi; được hiểu theo pháp luật của Việt Nam là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
Về độ tuổi trẻ em, đa số các quốc gia trên thế giới đều quy định độ tuổi trẻ em dưới
18; chỉ một số ít các quốc gia, trong đó có Việt Nam quy định độ tuổi trẻ em dưới
16. Khái niệm trẻ em và TECHCĐB của Việt Nam không tương thích với quốc tế.
Từ đó đặt ra nhiều vấn đề hội nhập trong thời đại toàn cầu hóa, sự khác biệt về khái
niệm dẫn tới sự xung đột pháp luật. Tuy nhiên, trong các khái niệm, định nghĩa hay
quan niệm có điểm chung và thống nhất là căn cứ vào tuổi đời để xác định trẻ em.

1.1.2. Những nghiên cứu lý luận về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt
Mỗi trẻ em, cá nhân hoặc gia đình đều có thể gặp phải những rủi ro, hoàn
cảnh khó khăn trong cuộc sống. Để có thể khắc phục rủi ro và ổn định cuộc sống,
cần phải có sự chia sẻ, có các hoạt động TGXH từ Nhà nước, từ cộng đồng và các
cá nhân khác.
TGXH đối với TECHCĐB không chỉ là truyền thống dân tộc, đặc điểm văn
hóa của dân tộc mà đã trở thành một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước
[101, tr.15]. TGXH đối với TECHCĐB đã trở thành một cấu phần quan trọng trong
hệ thống ASXH nói chung của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia vì tính nhân
văn, tất yếu khách quan và độ bao phủ rộng rãi.

12


Ở Việt Nam, theo quan điểm hiện đại, TGXH gồm 3 loại hình: hỗ trợ thu
nhập, trợ cấp gia đình và dịch vụ xã hội [161, tr.72]. Trong hệ thống ASXH ở Việt
Nam, TGXH gồm các hợp phần: Trợ giúp thường xuyên, dịch vụ xã hội, trợ cấp
khẩn cấp, các chương trình giảm nghèo. Đây là những thông tin lý luận hết sức căn
bản, quan trọng về khái niệm và nội hàm của thuật ngữ TGXH.
Có một số chuyên gia trong nước đã luận giải chính sách TGXH cộng đồng
là các biện pháp, giải pháp bảo đảm của Nhà nước để giúp đối tượng có hoàn cảnh
đặc biệt khắc phục khó khăn trước mắt và lâu dài, trong đó có nhóm TECHCĐB.
Việc bảo đảm này thông qua việc cung cấp nguồn tài chính hàng tháng, dịch vụ hỗ
trợ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các dịch vụ TGXH khác. Hệ thống chính sách
TGXH đối với TECHCĐB và các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác bao
gồm các chế độ, chính sách TGXH thường xuyên tại cộng đồng; TGXH đột xuất;
hỗ trợ nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng và chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở
BTXH và nhà xã hội [42, tr.9-15]. Việc luận giải, phân tích đã bước đầu đưa ra
được khái niệm và một phần nội hàm của TGXH đối với TECHCĐB.

Tác giả Phạm Trọng Nghĩa cho rằng TGXH là sự giúp đỡ của Nhà nước và
xã hội về vật chất đối với TECHCĐB và các thành viên yếu thế của xã hội nhằm
đảm bảo cuộc sống tối thiểu từ đó vươn lên, hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Đối
tượng hưởng TGXH là các nhóm TECHCĐB và mọi thành viên trong xã hội không
phân biệt độ tuổi, giới tính, tôn giáo khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói,
bệnh tật... Nguồn kinh phí thực hiện TGXH được trích từ ngân sách Nhà nước
(thuế), từ sự tự nguyện đóng góp của cá nhân và cộng đồng. Người hưởng TGXH
không phải trực tiếp đóng góp [86, tr.18-20]. Tác giả mới chỉ đề cập đến khái niệm
TGXH và bàn về một số đặc điểm của TGXH đối với TECHCĐB và một số nhóm
yếu thế mà chưa có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về khái niệm và nội hàm của
thuật ngữ này.

13


Các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về
TGXH đối với TECHCĐB tại Việt Nam. Trong đó, có nhiều bài nghiên cứu, tham
luận có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án, tiêu biểu là các bài tham luận [50]:
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng TGXH đối với TECHCĐB là một trong
những cấu phần (trụ cột) của hệ thống ASXH với mục tiêu là không để trẻ em và
thành viên trong xã hội bị gạt ra bên lề xã hội. Trợ giúp bao gồm: Trợ giúp thường
xuyên; trợ giúp đột xuất và khẩn cấp. TGXH gắn liền (song hành) với phát triển hệ
thống cung cấp dịch vụ có chất lượng và công bằng, nghề CTXH và đảm bảo nguồn
lực tài chính. Tác giả cũng cho rằng cần đổi mới TGXH theo hướng tách bạch quản
lý nhà nước về TGXH và cung cấp dịch vụ TGXH, xây dựng mức chuẩn trợ cấp xã
hội thống nhất, thiết kế gói trợ cấp xã hội bằng tiền mặt không điều kiện, thiết kế
chính sách TGXH cho trẻ em, người thuộc diện được hưởng TGXH trên cơ sở phân
loại theo các nhóm đối tượng [50, tr.5-9]. Tác giả mới chỉ nghiên cứu, nhìn nhận
TGXH trên phương diện là phần của hệ thống ASXH, trong đó có đề cập một cách
không rõ nét đến mục tiêu, cấu phần và đặc điểm của TGXH.

TS. Nguyễn Hải Hữu cho rằng TECHCĐB và đối tượng yếu thế cần nhận
được sự trợ giúp từ gia đình, họ hàng, cộng đồng xã hội và Nhà nước. TGXH là một
trong năm trụ cột của mái nhà an sinh. Chính sách TGXH đối với TECHCĐB hiện
hành bao gồm cung cấp tài chính, cung cấp vật chất thiết yếu; trợ giúp y tế, giáo
dục, nhà ở, tiếp cận hoạt động văn hóa, thể thao.. Nguyên tắc đổi mới cần bảo đảm
cung cấp gói TGXH cho TECHCĐB và các đối tượng khác phù hợp với bối cảnh
KT-XH Việt Nam; điều kiện trợ giúp với những ràng buộc hợp lý; tích hợp chính
sách TGXH một cách tối ưu nhất; tiêu chí, cơ chế xác định đối tượng hợp lý [50,
tr.10-15]. Tác giả đã không đưa ra một khái niệm đầy đủ về TGXH đối với
TECHCĐB mà chỉ liệt kê ra một số nguyên tắc, một số cấu phần của TGXH.
Tác giả Stephen Kidd cho rằng đảm bảo an sinh đối với TECHCĐB và nhóm
dân cư yếu thế, dễ bị tổn thương khác, gồm: BHXH, được tài trợ bằng các khoản
đóng góp (phí BHXH) và TGXH, được tài trợ bằng nguồn thu ngân sách chung của

14


Chính phủ. Các hệ thống đảm bảo an sinh trải qua các giai đoạn phát triển nhằm
giải quyết rủi ro và thách thức gắn với vòng đời, bao gồm các thời điểm: Tuổi ấu
thơ, tuổi đi học, tuổi thanh niên, tuổi lao động và tuổi già [50, tr.42-56]. Tác giả đã
nghiên cứu, tiếp cận khái niệm TGXH từ góc độ tài chính; tiếp cận nội hàm TGXH
theo lý thuyết vòng đời. Đây là những vấn đề lý luận hết sức quan trọng về TGXH,
cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Unicef xác định các hợp phần chính của BTXH đối với TECHCĐB bao gồm:
Hỗ trợ xã hội và dịch vụ chăm sóc, chương trình bảo đảm cơ hội tiếp cận cách dịch
vụ kinh tế và xã hội, dịch chuyển xã hội, pháp luật và chính sách bảo đảm cơ hội
của trẻ em và gia đình tiếp cận các dịch vụ và việc làm/sinh kế công bằng, không
phân biệt đối xử [125, tr.3-11]. Unicef đã phản ánh quan niệm của quốc tế về một
số nội dung của TGXH đối với TECHCĐB, một số yếu tố là nguyên nhân gây nên
tình trạng tổn thương đối với trẻ em.

Ngân hàng phát triển Châu Á định nghĩa TGXH là chương trình được thiết
kế để trợ giúp những TECHCĐB và cộng đồng, hộ gia đình, cá nhân bị tổn thương
nhất nhằm đạt được mức sống tối thiểu và cải thiện điều kiện sống [88, tr.5-6]. Tổ
chức Lao động quốc tế định nghĩa TGXH là những khoản trợ giúp cho những người
có thu nhập thấp từ thuế [88, tr.5]. Các tổ chức quốc đã đưa các khái niệm về
TGXH khác nhau. Sự khác nhau này xuất phát từ cách tiếp cận, chức năng, mục
tiêu ưu tiêu của các tổ chức.
Dự án Hỗ trợ cải thiện hệ thống TGXH thuộc Bộ Lao động-Thương binh và
Xã hội đã xem xét khái niệm TGXH và TGXH đối với TECHCĐB trên cơ sở tiếp
cận các quan điểm, xu hướng của quốc tế. Nghiên cứu chỉ ra rằng TGXH, TGXH
đối với TECHCĐB được sử dụng rộng rãi trong phát triển quốc tế như là trợ cấp lấy
từ nguồn thu thuế. Một số quốc gia áp dụng cách tiếp cận dựa trên nhân quyền đối
với đảm bảo an sinh và coi trợ cấp xã hội là một quyền lợi của trẻ em, công dân và
những người cư trú có quyền khác.

15


Trong lịch sử, các quốc gia sử dụng quan điểm dựa trên quyền khi áp dụng
thuật ngữ đảm bảo an sinh để nói tới những khoản trợ cấp được lấy từ nguồn thu
thuế hoặc BHXH. Tuy nhiên, TGXH, TGXH đối với TECHCĐB không phải là một
thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong CSXH của các nước phát triển nói tiếng Anh
[66, tr. 14-22]. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng khái niệm về TGXH, TGXH đối với
TECHCĐB được hiểu không thống nhất trên phạm vi quốc tế, có cách tiếp cận khác
nhau ở mỗi quốc gia.
Như vậy, trên phạm vi quốc tế và quốc gia, đã có nhiều công trình nghiên
cứu lý luận về TGXH, TGXH đối với TECHCĐB. Tuy nhiên, do cách tiếp cận khác
nhau nên cách nhận thức, cách hiểu về khái niệm và nội hàm TGXH đối với
TECHCĐB có sự khác nhau.
1.1.3. Những nghiên cứu lý luận pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ

em có hoàn cảnh đặc biệt
Tác giả Võ Khánh Vinh (chủ biên) và nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu
toàn diện, đầy đủ các vấn đề cơ bản của quyền con người. Tác giả đã nghiên cứu cụ
thể về quyền cơ bản của con người, quyền công dân và có những luận giải mới giúp
nghiên cứu sinh nhận thức rõ hơn các khái niệm, nội dung của quyền con người,
quyền xã hội, quyền được đảm bảo ASXH, quyền được chăm sóc sức khỏe; trong
đó, trẻ em là đối tượng cần được ưu tiên [153].
Tác giả Nguyễn Hồng Nga cho rằng nhiều quyền mới liên quan tới vấn đề
nhân quyền đã được hình thành cùng với sự tiến bộ của khoa học. Cuốn sách đã
luận giải mối quan hệ giữa quyền cơ bản của con người với quá trình phát triển của
khoa học kỹ thuật; cung cấp những quan điểm, những vấn đề lý luận theo cách tiếp
cận mới về quyền con người, đặc biệt là những nội dung về các quyền mới [155,
tr.80-91].
Tác giả Nguyễn Văn Động luận giải về các quyền về xã hội của con người
trực tiếp liên quan tới những sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người, từ ăn, ở,
nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí đến hưởng thụ hạnh phúc gia đình, riêng tư [73, tr.67].

16


Trong đó, tác giả đã cung cấp những nội dung nghiên cứu quyền hiến định về xã hội
của công dân và pháp luật về TGXH.
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc cho rằng pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB và đối tượng dễ bị tổn thương khác cần tiếp cận theo vòng đời, bao gồm
thời kỳ ấu thơ, thời kỳ chuyển tiếp từ thanh thiếu niên sang thanh niên và từ người
trưởng thành sang người già. Pháp luật về TGXH quy định các biện pháp can thiệp
đối với TECHCĐB và đối tượng dễ bị tổn thương khác đúng thời điểm mang ý
nghĩa quyết định - nếu không hỗ trợ quá trình phát triển năng lực đúng thời điểm thì
việc khắc phục ở giai đoạn sau của cuộc đời sẽ rất tốn kém [60, tr.4-8]. Đây là
những cơ sở lý luận, quan điểm phản ánh xu thế quốc tế về việc xây dựng pháp luật

và thiết kế các chương trình TGXH đối với TECHCĐB theo nguyên tắc vòng đời.
Tác giả Bala Raju Nikku - Hiệu trưởng sáng lập trường CTXH của Nêpal
cho rằng hệ thống pháp luật về phúc lợi xã hội là khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng
pháp luật về phúc lợi xã hội thường cung cấp biện pháp TGXH cho các cá nhân là
trẻ em phụ thuộc, người khuyết tật, ốm đau, người thất nghiệp hoặc nạn nhân chiến
tranh. Mục tiêu của pháp luật về phúc lợi xã hội là đáp ứng nhu cầu về xã hội, kinh
tế, văn hóa, giải trí, chính trị của tất cả cá nhân trong xã hội. Pháp luật về phúc lợi
xã hội cũng được hiểu như là một hệ thống các quy phạm quy định tổ chức hay một
hệ thống dịch vụ phúc lợi cho cả người giàu và người nghèo [170, tr.3-6]. Tác giả
đã cung cấp những thông tin, cơ sở lý luận pháp luật về phúc lợi xã hội đối với trẻ
em, mối tương quan giữa pháp luật về TGXH và pháp luật về phúc lợi xã hội đối
với trẻ em.
Unicef cho rằng các vấn đề rủi ro, dễ bị tổn thương và nghèo đói có liên quan
mật thiết với nhau. Trẻ em trong khu vực đối mặt với nhiều rủi ro: Sự căng thẳng và
những cú sốc kinh tế; môi trường không ổn định; dịch bệnh và ốm đau; hệ thống tín
ngưỡng và quy tắc xã hội phân biệt đối xử; năng lực quản lý và quản trị yếu; chính
trị không ổn định và xung đột vũ trang. Pháp luật về BTXH cung cấp TGXH, dịch
vụ xã hội, BHXH và các biện pháp bảo đảm công bằng xã hội [193, tr.9-16]. Dựa

17


trên các kết quả nghiên cứu thực chứng, Unicef đã cung cấp những vấn đề lý luận
pháp luật về BTXH, chiến lược BTXH quốc gia, vấn đề cụ thể hóa các cam kết
chung về BTXH vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Các tác giả Trocmé, N., Fallon, B., MacLaurin, B., Chamberland, C.,
Chabot, M., & Esposito, T. (2011) nhận thấy việc xây dựng luật pháp liên quan đến
TGXH đối với trẻ em ở Canada được phân thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ những
năm 1900 đến 1970 tập trung chủ yếu vào xâm hại thể chất và xử sự chưa phù hợp
của cha mẹ; giai đoạn 2 từ những năm 1970 đến 1990 đã có những thay đổi và bắt

đầu quan tâm đến những quy định về những tổn thương về mặt tinh thần của trẻ em
bị lạm dụng, ngược đãi và cách thức can thiệp nếu cha mẹ trẻ không thống nhất với
dịch vụ hỗ trợ trẻ em bị tổn thương nghiêm trọng về tinh thần và có vấn đề về hành
vi; giai đoạn 3 tính từ những năm 1990, những quy định về pháp luật đối với trẻ em
bị lạm dụng, ngược đãi được mở rộng bao gồm cả cách thức can thiệp với bạo lực
gia đình, với cả những lạm dụng cho người chăm sóc trẻ gây ra [191, tr.831-840].
Các tác giả đã nghiên cứu, phân tích và cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về TGXH đối với trẻ em của Canada. Tài liệu này cung cấp những cơ sở
lý luận, mô hình lý luận pháp luật quốc tế về TGXH đối với trẻ em.
Tác giả Hon. Alastair Nicholson nghiên cứu về những bất cập trong việc
thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của trẻ em và nhu cầu cần thể
chế hoá vào hệ thống pháp luật quốc gia. Theo tác giả, toà án có vai trò quan
trọng trong việc ngăn chặn và trực tiếp hành động làm giảm thiểu những ảnh
hưởng đến công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em; ngăn chặn việc vi phạm pháp
luật liên quan đến trẻ em [172, tr.5-30]. Đây là những kết quả nghiên cứu lý luận
quốc tế rất quan trọng, cung cấp thêm những nhận thức về nhu cầu, xu hướng thể
chế hóa Công ước của Liên hợp quốc về quyền của trẻ em vào pháp luật quốc
gia, trên cơ sở tiếp cận nhân quyền.
Tác giả Michelle Meilin Fernando đã phân tích thực trạng thực hiện Luật Gia
đình tại Úc. Tác giả nghiên cứu về sự tham gia và tiếng nói của trẻ em trong các

18


phiên toà gia đình liên quan đến vấn đề trẻ em. Tác giả kết luận có sự liên hệ chặt
chẽ và tác động quan trọng đến kết quả giải quyết, xử lý tại tòa nếu có sự tham gia
cũng như lắng nghe quan điểm, ý kiến của trẻ em [187]. Tác giả đã cung cấp những
kinh nghiệm của nước Úc về việc thực hiện Luật Gia đình, những vấn đề lý luận về
sự tham gia của trẻ em trong quá trình tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc.
Như vậy, trên phạm vi quốc tế và quốc gia, đã có nhiều công trình nghiên

cứu lý luận về quyền con người, quyền ASXH và phúc lợi xã hội, BTXH, TGXH
đối với các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, trong đó có trẻ em. Tuy nhiên, chưa
có các công trình nghiên cứu trực tiếp, đi sâu về lý luận pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB.
1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Những nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam
Cục Bảo trợ xã hội - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra nhiều
kết quả đánh giá về thực trạng các quy định pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB
như mức trợ cấp xã hội hàng tháng đối với TECHCĐB khó khăn còn thấp;
TECHCĐB khó khăn chưa có điều kiện thuận lợi tiếp cận, thừa hưởng các dịch vụ
văn hóa, vui chơi, giải trí; các dịch vụ CTXH cho TECHCĐB khó khăn chưa được
hình thành một cách chuyên nghiệp, hiệu quả; chi phí quản lý, chăm sóc, nuôi
dưỡng TECHCĐB khó khăn tại các cơ sở BTXH tốn kém hơn chăm sóc trẻ em ở
cộng đồng, gấp 3 đến 4 lần so với chăm sóc, nuôi dưỡng ở cộng đồng [41, tr.19-23].
Những đánh giá đã cung cấp những thông tin về thực trạng với tồn tại, vướng mắc,
bất cập, thiếu hụt của hệ thống pháp luật trợ giúp TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Hải Hữu đưa ra những đánh giá về một trong những nội
dung hết sức quan trọng của pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB, đó là đánh giá
thực trạng các mô hình chăm sóc TECHCĐB ở Việt Nam. Tác giả đã cung cấp
những thông tin, đánh giá về đối tượng TECHCĐB thuộc diện cứu trợ xã hội, thực

19


trạng các mô hình chăm sóc thay thế trẻ em đặc biệt khó khăn đang áp dụng tại Việt
Nam và thực trạng các giải pháp phát triển các mô hình chăm sóc thay thế trẻ em
đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng [6, tr.8, 21, 46-48].
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đánh giá pháp luật về bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục trẻ em đã tạo ra được khung pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, thúc đẩy việc thực hiện ngày càng tốt hơn những quyền cơ bản của
trẻ em. Luật đã có một Chương riêng về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TECHCĐB,
trong đó quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc hình thành cơ chế, chính
sách trợ giúp nhóm trẻ này, tạo cơ hội cho các em hòa nhập cộng đồng và phát triển
[17, tr.4-8]. Báo cáo cũng chỉ ra những vấn đề hạn chế của pháp luật về bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em; cung cấp những thông tin rất đầy đủ, chính xác về thực trạng
pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam .
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đánh giá các pháp luật về TGXH đối với
TECHCĐB ngày càng toàn diện hơn, bao trùm các nhu cầu cơ bản của trẻ em về
nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, hướng nghiệp, dạy
nghề. Đồng thời, các đối tượng được trợ giúp cũng từng bước được mở rộng, mức
trợ cấp ngày càng cao hơn, cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về TGXH còn nhiều hạn chế như: Đối tượng thụ
hưởng còn hẹp; chế độ trợ cấp thấp, chưa bảo đảm trợ giúp đối tượng ổn định cuộc
sống; chính sách cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt, chậm thay đổi cho phù hợp với
điều kiện KT-XH của đất nước, từng vùng [21, tr.14-15]. Tài liệu đã cung cấp
những nhận thức hết sức tổng quan về hệ thống pháp luật, chính sách TGXH; đã
đưa ra những đánh giá về kết quả đạt được và cả những hạn chế của hệ thống pháp
luật về TGXH đối với TECHCĐB.
Như vậy, cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu, đánh giá về khá
toàn diện và đầy đủ về thực trạng hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em; một số công trình nghiên cứu, đánh giá một phần thực trạng pháp luật về
TGXH đối với TECHCĐB, tập trung vào các chế định trợ giúp thường xuyên, chăm

20


sóc hoặc các hình thức chăm sóc thay thế. Tuy nhiên, chưa có các công trình nghiên
cứu chuyên sâu, toàn diện thực trạng quy định pháp luật về TGXH đối với

TECHCĐB ở Việt Nam hiện nay.
1.2.2. Những nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội – Unicef đã đánh giá nhiều nội dung
về thực tiễn thực hiện pháp luật về TGXH đối với TECHCĐB. Trong đó, có những
nhận định rằng Việt Nam chưa có một hệ thống tổng hợp, toàn diện để bảo đảm
việc xác định, hỗ trợ và giám sát những TECHCĐB và trẻ em có nguy cơ; chính
sách phúc lợi xã hội thường được mô tả như là một hoạt động từ thiện hơn là cách
tiếp cận dựa trên các quyền con người; việc cung cấp các hỗ trợ xã hội cho những
nhóm dễ bị tổn thương phần lớn dựa vào các nỗ lực hỗ trợ tự nguyện và vào các tổ
chức phi lợi nhuận, hơn là đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp được trả lương và được
đào tạo [11]. Kết quả đánh giá thực tiễn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
bảo vệ trẻ em, so sánh với các chuẩn mực quốc tế đã chỉ ra những thiếu hụt và hạn
chế của pháp luật Việt Nam trong thực tiễn triển khai; thực tiễn nhu cầu và xu
hướng bảo đảm pháp luật Việt Nam hài hòa với pháp luật và chuẩn mực quốc tế.
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc đã đánh giá tình hình trẻ em dựa trên quan
điểm các nguyên tắc chính về quyền con người và phân tích một số vấn đề thực tiễn
pháp luật về TGXH. Các chuyên gia đã nghiên cứu, làm rõ tình hình trẻ em nam và
nữ, nông thôn và thành thị, dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số, trẻ em giàu và trẻ em
nghèo hiện nay ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhóm trẻ em thiếu
sự chăm sóc của bố mẹ ở Việt Nam có diễn biến phức tạp; các cơ sở chăm sóc công
lập và ngoài công lập được thành lập, tổ chức hoạt động trên phạm vi cả nước dưới
nhiều hình thức như chăm sóc tại nhà, chăm sóc tập trung và các hình thức chăm
sóc hỗ trợ không chính thức khác [124]. Tiếp cận trên góc độ quốc tế, báo cáo đã
cung cấp những kết quả nghiên cứu, đánh giá, quan điểm của Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc là cơ quan chuyên trách về trẻ em về tình hình trẻ em ở Việt Nam, về thực

21



×