Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TTDS HK (9 điểm) nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.1 KB, 11 trang )

BÀI LÀM
Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt là một vấn đề cơ bản của Tố tụng dân
sự, chi phối quá trình tố tụng dân sự, được đặt ra nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự khi tham gia tố tụng. Đó cũng là quan niệm chung nhất được pháp
luật tố tụng dân sự của nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận, áp dụng và trở thành
một nguyên tắc tố tụng cơ bản được quy định trong nhiều văn bản pháp lý. Tuy nhiên
thực tế trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng như việc thực hiện
nguyên tắc này vẫn chưa bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất. Dưới đây em xin đi sâu
phân tích về khái niệm và thực trạng áp dụng nguyên tắc này trong hoạt động tố
tụng dân sự ở Việt Nam.
I. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự.
1. Khái niệm, ý nghĩa nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
a. Khái niệm.
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết
định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền
và lợi ích đó.
Theo Điều 50 Hiến pháp 1992 cũng như Điều 5 BLTTDS đã quy định nguyên
tắc quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản, theo đó
đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các
hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi
ích của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của Tòa án
trong việc đảm bảo cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của họ.
b. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
Ngoài ý nghĩa chung nhằm bảo đảm pháp chế XHCN, là cơ sở để xây dựng và
thực hiện các quy phạm khác của pháp luật TTDS thì nguyên tắc này còn mang ý
nghĩa riêng:
- Thứ nhất,đảm bảo cho các đương sự có điều kiện bằng hành vi của mình
quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của họ đồng thời thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đó.
- Thứ hai, xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định
đoạt của đương sự. Tòa án có trách nhiệm xem xét và giải quyết đúng và đầy đủ các


yêu cầu của đương sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; không bỏ sót, không giải
quyết vượt quá các yêu cầu của đương sự.
- Thứ ba,đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình bằng việc tự lựa
chọn các hành vi tranh tụng khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
a. Cơ sở lý luận:
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được quy định khá sớm trong
pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam như:Bản hướng dẫn về xét xử sơ thẩm về dân sự
ban hành kèm Thông tư số 96/NCPL năm 1977 của Tòa án nhân dân tối cao, trong
Điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hình sự và Điều 2 của Pháp lệnh thủ tục


giải quyết các vụ án kinh tế. Hiện nay, nội dung đầy đủ của nguyên tắc này được quy
định trong Điều 5 BLTTDS.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có cội nguồn từ các
nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng
giữa các chủ thể. Nguyên tắc quyền tự định đoạt trong TTDS là các quyền được quy
định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc
giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Mặt khác, nguyên tắc này được đặt ra xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền tự
bảo vệ của đương sự. Bởi theo như quy định tại Điều 9 BLTTDS thì đương sự có
quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác đủ điều kiện quy định của BLTTDS
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bởi vậy quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự tại Điều 5 BLTTDS là rất cần thiết.
b. Cơ sở thực tiễn
Trên thực tế, các tranh chấp dân sự không mang tính nguy hiểm như pháp luật
hình sự bởi các tranh chấp dân sự là sự thể hiện trách nhiệm giữa các công dân với
nhau. Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự có quyền tự do thể hiện ý chí của mình,
tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách yêu cầu Tòa án giải quyết vụ

việc dân sự đó. Tòa án chỉ được giải quyết vụ việc khi có yêu cầu của đương sự. Và
toà án cần phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp
thời ngaysau khi nhận được yêu cầu của đương sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
phápcho họ.
II. Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết
vụ việc dân sự
a. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu
giải quyết việc dân sự.
- Thứ nhất, về quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân
sự.
Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án(sau đây gọi chung là người
khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình”và Điều 162 BLTTDS: “cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”. Như vậy,bằng các quy
định trên, nhà nước đã chính thức ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự của cá nhân,
cơ quan, tổ chức… trong việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.Điều 5 BLTTDS quy định “[..] Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vị
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.”có nghĩa là Tòa án chỉ có quyền thụ lý giải quyết vụ
việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong


phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu của đương sự. Nếu như không có đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu của đương sự thì Tòa án không được phép thụ lý, giải quyết bất kì vụ việc
nào. Quy định trên đã chứng tỏ pháp luật tố tụng luôn luôn tôn trọng quyền tự định
đoạt của đương sự; việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định
đoạt của đương sự.

Trước đây, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự còn cho phép cả
Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố vụ án dân sự trong một số trường hợp. Tuy
nhiên quy định này cho đến nay đã bị hủy bỏ bởi việc Viện kiểm sát nhân dân khởi tố
vụ án dân sự là vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Bởi lẽ, quyền
khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự, việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự trước hết cho phép
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp yêu cầu tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Thứ hai,về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Trong các việc dân sự, không có khái niệm bị đơn và nguyên đơn dân sự mà
được thay thế bằng thuật ngữ người yêu cầu và người bị yêu cầu. Người yêu cầu trong
việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa yêu cầu cho Tòa án giải quyết việc dân sự
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ được
giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công
nhận quyền, nghĩa vụ yêu cầu. Quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự là một trong
những quyền cơ bản của đương sự trong TTDS. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này
của đương sự đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS trên thực tế.
b. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung việc khởi
kiện đối với bị đơn thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nội dung
mà nguyên đơn khởi kiện. Điểm c, khoản 1 Điều 160 BLTTDS quy định bị đơn có
quyền “đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của
nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn”. Trong tố dụng dân sự,
phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp
luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn, nhưng có liên quan
đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi kiện.
Ngoài ra BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu theo luật
nội dung: sự bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung là sự giải thích và lập luận của bị đơn

về tính không có căn cứ của yêu cầu khởi kiện về mặt pháp lý cũng như trên thực tế.
Và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng: Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và
chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự
vi phạm thủ tục tố tụng trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Việc quy định quyền
phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn đã thể hiện sự ghi
nhận của pháp luật đối với quyền tự định đoạt của đương sự.Đây là một điểm quan


trọng và phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các công dân khi
tham gia quan hệ dân sự.
c. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
Trong tố tụng dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm hai loại là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của nguyên
đơn hoặc bị đơn. Việc tham gia tố tụng của họ trong vụ án dân sự là do họ có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án dân sự.
Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lơi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi việc
giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; yêu cầu độc lập của họ
có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải
quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh
gọn hơn. Hơn nữa, việc tham gia vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị
đơn có nhiều lợi thế đối với họ hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Việc có tham gia hay không phải tùy thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập.
Còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập thì
lợi ích pháp lý của họ gắn liền với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn. Họ không
có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, bị đơn tuy nhiên họ cũng có quyền
cùng nguyên đơn, bị đơn thỏa thuận với các bên đương sự còn lại, không có quyền

thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự còn lại.
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu
cầu.
a. Trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu.
Nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình và họ cũng hoàn toàn có quyền quyết định các hành
vi tố tụng tiếp theo của mình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu có sự khác nhau:
- Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, quyền này được coi là quyền tuyệt
đối của đương sự, theo đó đương sự có toàn quyền trong việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu.
- Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, việc thay đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu theo
quy định tại Điều 218 BLTTDS. Bên cạnh đó, mục 6 phần III Nghị quyết số
02/2006/NQ- HĐTP1 có quy định: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại
phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của
họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
1Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Phần hai: “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa cấp sơ thẩm” của
Bộ luật TTDS.


ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn,
đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...”.Quy định này cũng
thể hiện phần nào việc đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự; đồng thời bảo
đảm cho đương sự phía bên kia có điều kiện biết trước yêu cầu của đương sự đối lập
để chuẩn bị các chứng cứ, tài liệu để thực hiện việc tranh tụng một cách tốt nhất. Tuy
nhiên cũng làm hạn chế quyền tự định đoạt bằng việc tiếp tục khởi kiện các vụ án
khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
b.Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc rút yêu cầu.
Các đương sự không chỉ có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu mà còn có quyền

rút yêu cầu. Đối với nguyên đơn đó chính là việc rút đơn khởi kiện, rút yêu cầu phản
tố đối với bị đơn và rút yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc rút đơn khởi kiện, rút yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được Tòa
án chấp nhận. Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm
b, khoản 1 Điều 59).
- Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện,
thẩm phán ra quyết định đình chỉ trong việc giải quyết vụ án (theo điểm c, khoản 1
Điều 192 BLTTDS).
- Tại phiên toàn xét xử sơ thẩm, trong trường hợp nguyên đơn rút một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu đó là tự nguyện thì Hội đồng xét
xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đó (theo khoản 2 Điều 218
BLTTDS). Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn
vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên
đơn trở thành bị đơn. Nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và bị đơn rút toàn
bộ yêu cầu phản tố mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu
cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn,
người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn (theo quy định tại Điều
219 BLTTDS).
Trường hợp trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, việc nguyên
đơn rút đơn khởi kiện thì phải được sự đồng ý của bị đơn (theo điều 269 BLTTDS).
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu kháng cáo.
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của đương sự và các
chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc chống lại bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại
vụ án dân sự. Đương sự được tự quyết định việc thực hiện quyền kháng cáo nên
quyền này cũng thuộc nội dung quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 245 BLTTDS
quy định thời hạn kháng cáo của đương sự “đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm
là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa
thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết”.

Bên cạnh việc quy định đương sự có quyền kháng cáo, pháp luật cũng quy định
đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút đơn kháng cáo theo quy định tại khoản 1


Điều 256. Đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu
phiên tòa hoặc tại phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu.
Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần
của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo. Khi thực hiện việc kháng cáo bản án,
quyết định của tòa án đương sự có quyền tự định đoạt nội dung kháng cáo để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
4. Quyền tự định đoạt của đương sự về nội dung hòa giải và tự hòa giải.
Quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự là do
chính các bên tự thương lượng, thỏa thuận. Ở bất kì giai đoạn nào của quá trình tố
tụng, các đương sự đều có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, nhưng
thỏa thuận đó đều phải đảm bảo yếu tố “tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức
xã hội” được quy định tại Điều 5 BLTTDS. Bởi vậy, hòa giải là một trong những thủ
tục tố tụng bắt buộc trước khi xét xử sơ thẩm đối với hầu hết các vụ án dân sự trừ các
trường hợp tại Điều 181, Điều 182 BLTTDS. Trong trường hợp các đương sự hòa giải
thành, vụ án sẽ được kết thúc bằng chính sự thỏa thuận của các đương sự theo khoản 2
Điều 180.
- Trước khi xét xử sơ thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết toàn bộ vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành.
- Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, nếu các đương sự tự thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều
192 và đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu vụ án giải quyết lại vụ án dân sự
đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị
đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
- Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử
sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, nếu

đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là
tự nguyện, không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận việc
thỏa thuận của đương sự.
- Tại phiên tòa phúc thẩm, tuy BLTTDS không quy định tòa án cấp phúc thẩm
phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm nhưng nếu
tại tòa phúc thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhauvề việc giải quyết vụ án (tự
nguyện, không trái đạo đức xã hội) thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc
thẩm, sủa bản án sơ thẩm, công nhận sự hòa giải của các đương sự (Mục 5.1, phần III
Nghị quyết 05/2006/NQ- HĐTP2).
5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự là người được đương sự ủy quyền
để tham gia tố tụng thay mình (Khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004). Việc đại diện theo
2Nghị quyết 05/2006/NQ- HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định về phần 3 “Thủ tục giải quyết vụ án tại
phiên tòa phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự.


ủy quyền này, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự. Đương sự có thể ủy
quyền cho người đại diện thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Tuy vậy, sau khi ủy quyền cho người đại diện, đương sự vẫn có quyền tham gia tố
tụng để bổ sung cho hoạt động của người đại diện.
Ngoài việc ủy quyền cho người đại diện, đương sự còn có quyền nhờ luật sư
hoặc người có đủ điều kiện theo khoản 2 Điều 63 BLTTDS làm người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cho mình. Đây cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự và được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay đổi,
chám dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự do 2 bên quyết định.
Có thể thấy nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được quy định khá cụ
thểtrong BLTTDS; đương sự có quyền tự định đoạt quyền, lợi ích hợp pháp và việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng. Đây là những quyền rất

cơ bản của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích của mình
trước tòa án.
III. Thực trạng và kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự.
1. Thực trạng khi thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS.
a. Ưu điểm.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một trong
những nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của BLTTDS. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo đảm pháp chế XHCN, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây cho thấy nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS ngày càng được quan tâm và coi trọng hơn. Trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án đều đảm bảo cho mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức thực
hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của mình bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của mình nên trên thực tế nguyên tắc
này đã được thực hiện khá tốt.
Theo Báo cáo số 16 ngày 1/9/2010 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao về
công tác của các Tòa án tại kì họp thứ 8 Quốc hội khóa XII đã đánh giá một cách
khách quan, toàn diện về những kết quả đạt được của ngành Tòa án. Tòa án nhân dân
các cấp đã thụ lý 197.708 vụ việc, giải quyết xem xét 147.178 vụ việc, đạt 75% trong
đó giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 136.056 vụ, theo thủ tục phúc thẩm 10.170
vụ và theo giám đốc thẩm, tái thẩm 952 vụ việc. Qua đó ta thấy tòa án đã phát huy
được vai trò của mình đối với việc thực quyền tự định đoạt của đương sự. Và quy định
vè nguyên tắc ngày cũng là một trong những cải cách trong chiến lược cải cách tư
pháp của Bộ Chính Trị tới năm 2020.
b. Những tồn tại và hạn chế
b.1. Về những quy định của pháp luật


- Thứ nhất,Điều 56 BLTTDS 2004 mới chỉ quy định về nguyên đơn, bị đơn

trong vụ án dân sự mà chưa quy định về đương sự trong việc dân sự đó là người yêu
cầu và người bị yêu cầu. Việc chưa quy định “danh phận tố tụng” cho các đương sự
này gây khó khăn cho họ khi họ không biết mình có những quyền gì khi tham gia quá
trình giải quyết vụ việc dân sự.
- Thứ hai,thủ tục giải quyết VADS và việc dân sự là khác nhau, nhưng
BLTTDS lại không quy định thủ tục chuyển hóa trong việc giải quyết giữa các vụ việc
dân sự dẫn đến làm phức tạp hóa quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể, gây khó khăn
cho đương sự trong việc định đoạt quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Thứ ba,BLTTDS quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên
tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải có sự đồng ý của bị đơn là không phù hợp với
quy định của nguyên tắc tự định đoạt của đương sự. Bởi vì khi đó, sự tự định đoạt của
nguyên đơn lúc này lại phụ thuộc vào ý chí của bị đơn.
- Thứ tư,khi tiến hành khởi kiện, đương sự có toàn quyền quyết định trong việc
khởi kiện ai và khởi kiện về nội dung gì. Nhưng một vấn đề đặt ra là nếu đương sự
khởi kiện không đúng thì Tòa án có nên can thiệp để sửa đổi hay không? Và cần có
quy định, những biện pháp gì để thực hiện việc này?
- Thứ năm,việc quy định về quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự còn mâu
thuẫn và chưa rõ ràng dẫn đến việc hiểu và thực hiện không thống nhất. Cụ thể, theo
Điều 218 BLTTDS quy định Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu
độc lập ban đầu, nhưng không giải thích cụ thể “vượt quá” ở đây là như thế nào. Với
việc quy định như trên đã hạn chế QTĐĐ của đương sự, không những gây khó khăn
cho đương sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
- Thứ sáu, BLTTDS chưa quy định thời điểm thực hiện, thời hạn của việc phản
tố của bị đơn và đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lơi, nghĩa vụ vụ liên quan
làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra cac loại
yêu cầu này; việc chấp nhận yêu cầu phản tố không được áp dụng không thống nhất. 3
b.2. Về việc áp dụng pháp luật
Về phía đương sự, do đương sự không hiểu biết đầy đủ các quy định pháp luật
nên khôngthực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ TTDS của mình. Trên thực tế đã

không ít trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi
đã hết thời hiệu khởi kiện và bị trả lại đơn kiện. Đương sự còn thực hiện quyền kháng
cáo, đối với bản án, quyết định của Tòa án trong nhiều trường hợp cũng không đúng,
vượt quá thời hạn do pháp luật quy định.
Về phía Tòa án do đội ngũ Thẩm phán còn yếu cả về năng lực chuyên môn và
nghiệp vụnên còn có nhiều sai sót, vi phạm trong việc giải quyết vụ án. Thực tế những
sai sót trong việc trả lại đơn kiện, không xem xét hết yêu cầu của đương sự hoặc quyết
định của bản án vượt phạm vi yêu cầu của đương sự, xét xử vắng mặt của đương sự
làm hạn chế rất lớn đến việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
3Nguyễn Văn Tuyết, Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học.


2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiên nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS.
Để pháp luật dân sự nói chung và BLTTDS 2004 nói riêng phát huy được hơn
nữa vai trò của mình cũng như quyền tự định đoạt của đương sự, cần có sự sửa đổi, bổ
sung mới để phù hợp với quan hệ pháp luật dân sự. Sau đây em xin đưa ra một số kiến
nghị như sau:
Thứ nhất, BLTTDS nên bổ sung quy dịnh về đương sự trong việc dân sự để họ
có thể bảo vệ quyền, lợi ích của mình một cách hiệu quả. Nên sửa đổi, bổ sung Điều
56 BLTTDS theo hướng các đương sự trong việc dân sự cũng có các quyền, nghĩa vụ
tố tụng của họ như các đương sự trong vụ án dân sự. Tuy nhiên hiện nay BLTTDS sửa
đổi, bổ sung năm 2011 vẫn chưa quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ hai,không nên quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên
tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn. Bởi nó sẽ vi phạm quyền tự định đoạt
của đương sự, do trong các tranh chấp dân sự đương sự được quyền tự mình quyết
định yêu cầu hay không yêu cầu TA giải quyết, thì họ cũng có quyền thay đổi, bổ
sung, rút một phần hoặc toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của mình ở mọi giai đoạn tố
tụng. Do vậy để hợp lí và không vi phạm nguyên tắc này thì cần sửa đổi Điều 269
theo hướng cho đương sự thực hiện tốt nhất quyền tự định đoạt của mình trong TTDS.

Nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có khởi kiện rồi lại rút đơn khởi kiện mà gây thiệt
hại cho họ về danh dự, nhân phẩm hoặc hoặc tài sản thì họ có quyền khởi kiện nguyên
đơn bồi thường thiệt hại.
Thứ ba,quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và nghĩa vụ tố
tụng khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau.
Thứ tư, cần quy định bổ sung thời điểm bị đơn thực hiện phản tố trước phiên
tòa. Và cần quy định nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, bị
đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, NCQNVLQ có yêu cầu độc lập, có
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình ở mọi giai đoạn tố tụng. Để tránh trường
hợp đương sự lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho đương sự từ phía
bên kia và TA trong khi giải quyết việc dân sự. Vì vậy, cần quy định việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa được TA chấp nhận nếu không phải hoãn
phiên tòa. 4
Thứ năm, cần nâng cao năng lực xét xử của thẩm phán và đẩy mạnh việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật. Nhằm nâng cao chất lượng xét xử và đẩy mạnh hiểu biết,
nâng cao hiểu biết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

4Nguyễn Nữ Giang Anh , Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam,
NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
2. Bộ luật TTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung 2011.
3. Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Phần hai: “Thủ tục giải
quyết vụ án tại tòa cấp sơ thẩm” của Bộ luật TTDS.
4. Nghị quyết 05/2006/NQ- HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định về
phần 3: “thủ tục giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm” của Bộ luật Tố

tụng dân sự.
5. Ths. Nguyễn Tiến Trung, Cơ sở pháp lý của quyền tự định đoạt của đương
sự trong TTDS, Tạp chí luật học, 1999.
6. Ths.Luật sư Lê Minh Hải,Quyền tự định đoạt của đương sự trong BLTTDS,
VPLS Royal.
7. Nguyễn Văn Tuyết, Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học; người hướng dẫn TS Bùi Thị
Huyền, Hà Nội, 2011.
8. Nguyễn Nữ Giang Anh, Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp; người hướng dẫn TS. Nguyễn Công
Bình, Hà Nội, 2010

MỤC LỤC


I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ. 1
1. Khái niệm, ý nghĩa nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự...................................................1
a. Khái niệm..............................................................................................................................................1
b. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.................................................................1
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.............................................1
a. Cơ sở lý luận........................................................................................................................................1
b. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................................................................2
II. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG ..........2
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự...............2
a. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân
sự...............................................................................................................................................................2
b. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn....................................................3
c. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.............3
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu............................4
a. Trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu:.................................................................................................4

b, Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc rút yêu cầu :.................................................................4
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng
cáo.................................................................................................................................................................5
4. Quyền tự định đoạt của đương sự về nội dung hòa giải và tự hòa giải...........................................5
5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.........................................................................................................................6
III. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC QUYỀN
TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TTDS................................................................................6
1. Thực trạng khi thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS..................6
a. Ưu điểm................................................................................................................................................6
b. Những tồn tại và hạn chế.....................................................................................................................7
2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiên nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong TTDS.................................................................................................................................................8



×