Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Gguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.75 KB, 12 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt biểu hiện ở khả năng khi tham
gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Đó cũng là quan niệm
chung nhất được pháp luật tố tụng dân sự của nhiều quốc gia trên thế giới thừa
nhận, áp dụng và trở thành một nguyên tắc tố tụng cơ bản. Trong Bộ luật Tố
tụng Dân sự đã khái quát: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu
cầu toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu đó; Trong quá trình giải quyết vụ viêc dân sự, các dân
sự có quyên chấm dứt, thay đổi yêu câu của mình hoặc thoả thuận với nhau
một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ hành vi khởi kiện, quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện
qua các nội dung như quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các
yêu cầu; quyền hoà giải, thương lượng; quyền kháng cáo. Như vậy, trên
phương diện pháp lý chung nhất, quyền tự định đoạt của đương sự bao hàm tất
cả các nội dung quyền trên. Nhưng trên thực tế cho thấy, trong quá trình tố
tụng, đặc biệt là thực tiễn hoạt động xét xử ở nước ta hiện nay, Việc tìm hiểu
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến
nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự là một
vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay .
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1. Khái niệm bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự.
Chúng ta có thể hiểu khái quát : “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự là làm cho đương sự có đủ những điều kiện cần thiết để
chắc chắn thực hiện được các quyền tố tụng dân sự bảo vệ quyền, và lợi ích
hợp pháp của họ trước Tòa án.”
1



2. Đặc điểm cơ bản của bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng
dân sự.
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự là sự bảo đảm
tham gia vào một loại quan hệ pháp luật. Bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương
sự trong tố tụng dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:
Việc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự được áp
dụng đối với tất cả các bên đương sự.
Đối tượng, phạm vi và biện pháp bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định.
Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự có tính chất
hỗ trợ cho việc thực hiện các quyền tố tụng dân sự của đương sự.
Chủ thể có trách nhiệm chính trong việc bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự là Tòa án.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ.
1. Bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Theo quy định tại các Điều 5, 58, 59, 60, 61 Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) thì các đương sự có các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự như khởi
kiện vụ án dân sự, yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự; thay đổi, bổ sung, rút
yêu cầu; cung cấp chứng cứ, chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung
cấp chứng cứ đó cho mình…
Như vậy, để đảm bảo quyền tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
về cơ bản pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã có quy định đầy đủ các quyền
tố tụng dân sự của đương sự. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các đương sự
tự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
2. Bảo đảm quyền của đương sự được người khác bảo vệ trong tố tụng
dân sự Việt Nam.


2


Bảo đảm quyền của đương sự được người khác bảo vệ trong tố tụng dân
sự là bảo đảm cho đương sự được những người này tham gia tố tụng bảo vệ
quyền , lợi ích hợp pháp của họ.
a. Bảo đảm đương sự ủy quyền được cho người khác đại diện.
Theo quy định tại Điều 73 BLTTDS, đương sự có thể ủy quyền cho luật
sư hoặc người không phải là luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Đương sự có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác
tham gia tố tụng dân sự trong tất cả các loại việc, trừ việc ly hôn. Tuy vậy, để
đảm bảo việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự
của người đại diện theo ủy quyền của đương sự có hiệu quả, BLTTDS quy
định những người không được làm đại diện cho đương sự ( Điều 75 BLTTDS).
Theo quy định tại Điều 74 BLTTDS, người đại diện theo ủy quyền của
đương sự được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo
nội dung văn bản ủy quyền. Vì vậy, trong trường hợp đương sự chỉ ủy quyền
cho người đại diện một phần quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ thì Tòa án
vẫn phải triệu tập đương sự đến tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ. Theo quy định tại các Điều 77, 78 BLTTDS và các Điều 146, 147
BLTTDS thì đại diện theo ủy quyền của đương sự có thể chấm dứt khi đương
sự ủy quyền hủy bỏ việc ủy quyền, đương sự ủy quyền hoặc người đại diện
theo ủy quyền của đương sự chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết…
b. Bảo đảm cho đương sự được người khác đại diện trong trường hợp
không có năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định tại Điều 58 BLTTDS , các đương sự có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau khi tham gia tố tụng dân sự. Tuy vậy, nếu đương sự không có hoặc
bị hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự mà không có người đại diện thì họ

sẽ không thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ. Do vậy,
đương sự phải được Tòa án chỉ định người đại diện cho đương sự trong trường
hợp họ không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự mà không có
người đại diện.
3


Theo Điều 76 BLTTDS, nếu đương sự bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ
thuộc một trong các trường hợp pháp luật quy định không được đại diện cho
đương sự thì Tòa án phải chỉ người đại diện cho đương sự.
c. Bảo đảm quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Để đảm bảo việc tham gia tố tụng dân sự của người bảo vệ quyền và lợi
ích của đương sự tại các Điều 203, 264 BLTTDS quy định Tòa án phải triệu
tập người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đến tham gia phiên
tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Theo các Điều 203, 266 BLTTDS trong trường hợp
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất
mà có lý do chính đáng thì Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm phải hoãn phiên
tòa ; trong trường hợp ngưởi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã
được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét
xử.
3. Trách nhiệm của Tòa án đối với việc bảo đảm quyền bảo vệ của đương
sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.
`

Trong tố tụng dân sự, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự chủ

yếu, có trách nhiệm chính đối với việc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự. Trách nhiệm của Tòa án được quy định cụ thể tại Điều

126 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Điều 9
và các Điều luật khác của BLTTDS.
Theo Điều 8 BLTTDS, các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình. Do vậy, để tạo điều kiện cho
các đương sự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ trong
mỗi vụ việc dân sự cụ thể Tòa án phải xác định và triệu tập đầy đủ các đương
sự đến tham gia tố tụng dân sự.

4


Theo Điều 9 BLTTDS, các đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật
sư hay người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, Tòa án có trách
nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Để đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự các Điều 3,
13, 19 và 22 BLTTDS còn quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong đó có Tòa án. Theo các quy định này, về Nguyên tắc, Tòa án phải
tuân thủ đúng pháp luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
III. THỰC TIỄN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1. Thực tiễn bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự
Nhìn chung trong thời gian qua, việc tự thực hiện các quyền tố tụng dân
sự của đương sự về cơ bản đã được đảm bảo trên thực tế. Tại Tòa án, đương sự
đều có thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết việc
dân sự. Trường hợp đương sự khởi kiện hay yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc
dân sự mà đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định thì Tòa án đều
thụ lý vụ việc để giải quyết.
Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì việc thực hiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về bảo đảm quyền tự bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của đương sự trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất
định.
Đối với các đương sự, nhiều người do không hiểu biết đầy đủ quy định
của pháp luật nên không thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
của họ. Trên thực tế, đã không ít trường hợp đương sự khởi kiện, yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ việc dân sự không đúng thẩm quyền của Tòa án nên đã bị trả
lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu...Đối với Tòa án, còn có trường hợp sai sót
trong việc trả lại đơn khởi kiện, xác định sai thành phần đương sự trong vụ
việc dân sự, không triệu tập đầy đủ các đương sự đến tham gia tố tụng, xét xử
vắng mặt đương sự không đúng quy định của pháp luật...
5


2. Thực tiễn bảo đảm quyền của đương sự được người khác bảo vệ trong
tố tụng dân sự Việt Nam.
Trong nhiều vụ việc dân sự, đương sự đã ủy quyền hoặc nhờ người khác
tham gia tố tụng bảo vệ, lợi ích hợp pháp của họ. Trong những năm gần đây,
cùng với sự phát triển của đội ngũ luật sư, “ số lượng án dân sự, kinh tế, lao
động, hành chính.. mà luật sư tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
khách hàng cũng tăng đáng kể so với những năm trước đây.
Để đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong trường hợp đương sự
không có khả năng tự mình tham gia tố tụng mà không có người đại diện tham
gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì Tòa án đã chỉ định người
đại diện cho họ. Do vậy, những trường hợp đương sự không có khả năng tự
mình tham gia tố tụng vẫn được bảo đản quyền bảo vệ trong tố tụng dân sự.
Tuy vậy, trên thực tế những trường hợp Tòa án chỉ định người đại diện cho
đương sự không nhiều.
Tuy vậy, việc bảo đảm quyền được người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong những năm qua vẫn còn có những hạn chế nhất định.
Những thiếu sót, hạn chế này thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như tỷ lệ luật

sư tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự còn thấp...
3. Thực tiễn Tòa án thực hiện trách nhiệm bảo đảm quyền tự bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Trong thời gian qua, nhìn chung việc giải quyết các vụ việc dân sự khá
tốt nên các đương sự đã có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Ngoài ra, công tác
giải quyết các khiếu nại về việc xét xử trong những năm qua cũng đã có những
chuyển biến tích cực.
Tuy vậy, việc giải quyết các vụ việc dân sự của các Tòa án vẫn còn có
những tồn tại nhất định nên đã ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
6


pháp của đương sự. Trong số các vụ việc dân sự đã được các Tòa án giải quyết
vẫn có nhiều vụ việc dân sự giải quyết chưa đúng. Tỷ lệ các bản án, quyết định
bị hủy, sửa hàng năm còn cao so với yêu cầu của công tác xét xử.
IV. GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN BẢO ĐẢM QUYỀN
BẢO VỆ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam.
Các quy định của BLTTDS liên quan đến bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự cần phải được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn
như sau:
Một là, sửa đổi bổ sung các quy định về khái niệm đương sự trong vụ
việc dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự.
Phải sửa đổi bổ sung Điều 56 BLTTDS theo hướng đương sự trong vụ
việc dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án dấn sự và người yêu cầu, người bị yêu cầu, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự. Cần sửa đổi bổ sung Điều 57

BLTTDS theo hướng đương sự có năng lực hành vi tố tụng dân sự phải là
người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự.
Cần sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 218 BLTTDS theo hướng thay đổi,
bổ sung yêu cầu ở tại phiên tòa của đương sự được Hội đồng xét xử chấp nhận
nếu không phải hoãn phiên tòa.
Ba là, sửa đổi bổ sung các quy định về thông báo, giải thích quyền và
nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự.
Cần bổ sung vào Khoản 1 Điều 171 BLTTDS quy định khi thụ lý vụ án
dân sự Tòa án phải giải thích cho nguyên đơn quyền và nghĩa vụ tố tụng dân
sự của họ; bổ sung vào Khoản 2 Điều 174 BLTTDS quy định trong nội dung
7


văn bản thông báo việc thụ lý vụ án phải thông báo về quyền và nghĩa vụ tố
tụng dân sự của người được thông báo.
Bốn là, sửa đổi, bổ sung quy định về người đại diện, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Cần bổ sung quy định các biện pháp xác minh ở Khoản 2 Điều 64
BLTTDS để tạo điều kiện cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thực hiện được quyền xác minh, thu thập chứng cứ. Theo đó, phải bổ
sung Khoản 2 Điều 64 BLTTDS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự được áp dụng các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ
được quy định tại Điểm d, e Khoản 2 Điều 85 BLTTDS.
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định về định giá tài sản trong quá trình
Tòa án giải quyết vụ việc dân sự.
Cần bổ sung vào Khoản 1 Điều 92 BLTTDS quy định Tòa án có quyền
ra quyết định định giá tài sản trong trường hợp cần thiết.

Sáu là, sửa đổi, bổ sung quy định về thực hiện biện pháp bảo đảm khi
yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Cần sửa đổi quy định tại Khoản 1 Điều 120 BLTTDS theo hướng người
yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy
định tại các Khoản 6, 7, 8 , 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một
khoản tiền, kim khí quý, hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định theo dự kiến
thiệt hại có thể xảy ra do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích
của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bảy là, sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự và trình tự, thủ tục giải quyết việc dân sự.
Cần sửa đổi các chương từ Chương XII đến Chương XX của BLTTDS
theo hướng quy định thủ tục chung giải quyết các vụ việc dân sự.
Tám là, ban hành các quy định xử phạt những người có hành vi cản trở
hoạt động tố tụng dân sự
Chín là, ban hành các quy định về xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của những người tiến hành tố tụng dân sự.
8


2. Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của Tòa án
Cần phải tiếp tục kiện toàn, củng cố tổ chức và đội ngũ cán bộ của Tòa
án. Về hệ thống tổ chức Tòa án, cần sớm được kiện toàn, tổ chức lại theo
hướng tổ chức Tòa án theo cấp xét xử. Về đội ngũ cán bộ Tòa án, đặc biệt là
các Thẩm phán, cần có sự quan tâm hơn nữa đối với họ.
3. Củng cố tổ chức và đẩy mạnh các hoạt động bổ trợ tư pháp
Cần quản lý, giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các luật sư,
kiên quyết xử lý loại bỏ ra khỏi đội ngũ luật sư những người không có đủ
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Đối với tổ chức và hoạt động giám định cũng
cần được đổi mới.
4. Đổi mới cơ chế kiểm sát, giám sát và nâng cao năng lực cán bộ kiểm sát,

giám sát hoạt động tố tụng dân sự.
Để nâng cao tính công khai, minh bạch của các hoạt động tố tụng dân sự
cần tăng cường công tác giám sát của nhân dân đối với các hoạt động tố tụng
dân sự và phải thành lập tổ chức giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Ngoài ra để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm
sát, giám sát các hoạt động tố tụng dân sự phải bổ sung đầy đủ số cán bộ làm
công tác kiểm sát, giám sát, tăng cường công tác quản lý, đào tạo và bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ.
5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật tố tụng
dân sự.
Trong giáo dục, tuyên truyền và phổ biến pháp luật cần làm cho mọi
người nhận thức được các quy định của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn
thi hành bộ luật này về trình tự, thủ tục khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
việc dân sự, các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của các đương sự...

9


C. KẾT LUẬN
Qua đây có thể thấy được rằng nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự là một nguyên tắc giữ vị trí rất quan trọng trong luật nước ta góp
phần bảo vệ quyền lợi của người dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa .

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam / Nguyễn Công Bình chủ biên
H. : Tư pháp, 2005
2. Bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt

Nam : Khoá luận tốt nghiệp / Trần Thị Hà; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn
Công Bình, Hà Nội, 2011
3. Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam:
Luận án tiến sĩ luật học / Nguyễn Công Bình; Người hướng dẫn khoa học: TS.
Đinh Trung Tụng, PGS.TS. Đinh Văn Thanh, H., 2006
4. Bộ luật tố tụng dân sự 2004

11


MỤC LỤC
` Trong tố tụng dân sự, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự chủ yếu, có trách nhiệm
chính đối với việc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự. Trách nhiệm
của Tòa án được quy định cụ thể tại Điều 126 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 2002, Điều 9 và các Điều luật khác của BLTTDS.............................................4

12



×